5.Bài thơVăn thúc phụ… của Nguyễn Hành.
a. Tâm tư, tư tưởng và tư liệu:
5.Bài thơVăn thúc phụ… của Nguyễn Hành.
a. Tâm tư, tư tưởng và tư liệu:
Dựa trên văn bản chữ Hán VHv109 mà tôi đã giới thiệu, qua việc tiếp xúc xem xét nhiều bản dịch khác nhau từ trước tới nay, tôi dịch nghĩa bài thơ như sau:
Nghe tin chú là Hữu tham tri Bộ Lễ mất, cảm mà viết
(Lời dẫn: Ông tự là Tố Như, tính ham săn bắn, tự đặt cho mình hiệu là Hồng Sơn Lạp Hộ (Phường săn Rú Hống). Năm Nhâm Tuất (1802) bập vào quan lộ. Ở triều này, chức quan dần dần đến Hữu Tham tri. Tháng Tám năm Canh Thìn (1820) thì mất).
Ông Tố Như mười chín năm về trước
Một đời tài hoa thì nay thôi… đã thôi rồi
Ông khéo tròn phúc dày nhà ta làm sao
Dịch lệ sao có thể làm ông mất chóng vậy
Đã ba thu tôi luân lạc ở chốn thành này
Nhìn về Nam trông mây bay lại nhớ đến ông
Cái ngày ông “quy khứ lai” về với non nhà, đêm đêm nghe tiếng phường săn hò la.
Là lại thấy hồn ông lãng đãng, cùng cái thời cũ ấy hiện về.
(Văn thúc phụ lễ bộ hữu tham tri phó âm cảm tác
Công tự Tố Như, tính hiếu lạp. Tự hiệu Hồng Sơn lạp hộ. Nhâm Tuất tuế phệ sĩ. Kim triều lũy quan chí hữu tham tri. Canh Thìn bát nguyện tốt.
Thập cửu niên tiền Tố Như tử
Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
Tam thu luân lạc thử thành trung
Nam vọng phù vân mỗi ức công
Quy khứ gia sơn văn dạ lạp
Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng)
Cuộc đời Nguyễn Hành vẫn khổ đau luân lạc và ông ý thức rõ điều đó khi tự nhận mình đang kêu tiếng kêu cùng cực đắng lòng của con chim đỗ quyên. Sự kiện đau buồn lại liên tục đến với ông. Năm 1818, bạn thân là Hy Nhân Nguyễn Huy Vinh mất ở tuổi 49, năm 1819 là năm ông 49 tuổi, ngồi viết Minh quyên phả dẫn như một lời di chúc, năm 1820, người chú ông yêu thương, hơn ông 6 tuổi, đã qua đời trong cơn đại dịch lan tràn, hàng vạn người chết từ Tiêm La, Gia Định đến Long Thành (Tiêm,Lạp chí Long Thành - chữ Long Thành để chỉ Bắc Thành lúc đó là chữ dùng của chính Nguyễn Hành trong bài Đại dịch). Một không khí tang tóc bao trùm bài thơ, kí tải vào tất cả các câu dưới dạng tu từ hoặc ẩn ngữ như sự bùng nổ của ẩn ức trước cái chết. Câu 1: Tử (dụng pháp đồng âm:giữa Tử: người đàn ông có đức hạnh học vấn với Tử: chết, cái chết); Câu 2: Dĩ hĩ: đã rồi, thôi rồi; đã thôi (dụng pháp tu từ chỉ cái chết); Câu 3: Hoàn, Hoàn + Phúc = Hoàn phúc (dụng pháp tu từ chỉ cái chết); Câu 4: Tử: chết (hiển ngôn); Câu 5: Tam thu: Ba năm (dụng pháp ẩn tự chỉ một kì đại lễ đối với người chết: cát táng); Câu 6: Phù vân: Mây nổi (dụng pháp ẩn tự chỉ sự hóa thân, sự bay đi, trôi đi); Câu 7: Qui, qui khứ (dùng pháp tự chỉ sự quay về với tổ tiên, sinh ký tử qui, sống gửi thác về); Câu 8: Tinh linh: Linh hồn (hiển ngôn). Nhà nho xưa làm thơ bình nhật thường kiêng tử vận. Nhưng đây là một trường hợp đặc biệt: trước cái chết và về cái chết. Một vốn ngôn từ - ý tượng được dồn tụ và bột phát thành lời. Cả bài thơ là một tang trường mà ở đó, bất cứ góc nào ta cũng kính cẩn trước phướn, đối, nêu, ảnh, đại tự, hương hoa, đèn nến, kim tiền, tang phục, tang thiết… Không phải là bài thơ về tang tóc, chắc chắn không có sự tập trung ngôn từ đặc biệt như vậy trong một dung lượng 8 câu chật hẹp.
Về mặt ý nghĩa – hình ảnh, ta tựa hồ đang xem một cuốn phim tư liệu đen trắng. Hình cận cảnh được đưa lên đầu tiên là di ảnh Nguyễn Du được lựa chọn vào thời điểm mà thần thái của ông bộc lộ rõ nhất là nhất thế tài hoa: 19 năm về trước. Cảnh lùi dần và ta thấy hình ảnh của ông được đặt vào khung cảnh nhà thờ của đại tộc mà ở đó điệp trùng những bài vị, linh ngai các bậc tiền bối. Ngô môn hậu phúc. Chữ môn trong Hán văn vốn trỏ cái cửa có hai cánh, trong tình thế ẩn tự, nó dùng để chỉ những cự tộc quyền thế, phú quý và danh vọng lớn trong thiên hạ. Cảm hứng đầu tiên của văn hóa tang lễ là cảm hứng ngược nguồn. Nguyễn Hành đã đưa ta về cái cội nguồn quan trọng nhất: cội nguồn huyết tộc. Nguyễn Du đã sinh ra, tu dưỡng, phát tiết tài hoa nhất thế trong căn nguyên môn tộc ấy. Cúp hình. Chuyển. Trên màn hiện lên những hình ảnh thực tại tối tăm hỗn độn và hoang mang: đại dịch mùa Thu năm đầu Minh Mệnh. Đây là căn nguyên cái chết của Nguyễn Du. Thật không tài nào tin nổi dù điều đó là hiện thực xót xa:
Dịch lệ hà năng tốc công tử.
(Dịch lệ sao có thể làm ông mất chóng vậy)
Dù đặt ở thái câu nghi vấn (hà năng - sao có thể) nhưng đây là một câu khẳng định về một thực tại khó tin trước cái chết (giống như câu thơ Bác đã đi rồi sao Bác ơi! - Tố Hữu). Theo cách chấm câu của quốc ngữ, nên đặt sau câu thơ Nguyễn Hành một dấu chấm than. Không thể chối cãi đây là một câu thơ khổ độc nằm trong một khổ thơ cũng khổ độc với sự xuất hiện nhiều một cách bất chợt của âm trắc (câu 1: 4/7, câu 2: 4/7, câu 3: 3/7, câu 4: 4/7). Một tình cảm ngậm ngùi và tức tưởi trước cái chết của người thân bột phát ngay trong cấu trúc ngữ âm của đoạn thơ. Đoạn thơ như bật ra từ cõi hoang mang của tâm hồn, câu thơ thứ tư trần trụi với những thực từ khốc liệt: Dịch lệ, tốc, tử. Trong quá trình hiểu câu thơ này, có những cách giải thích khác nhau như đọc liên thông giữa câu ba và câu bốn:
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử.
Dựa vào ghi chép của gia phả (Nguyễn Du ốm không chịu uống thuốc, chân tay lạnh dần, người nhà hỏi,ông nói “Được”, rồi ra đi thanh thản) có người cho rằng, Nguyễn Hành muốn bảo vệ chú mình, cải chính tin đồn là Nguyễn Du chết vì dịch lệ, một cái chết mà dư luận cho là không trọn vẹn, là bất đắc kỳ tử (xem Nghiên cứu văn học, số 8, 1962). Hiểu thế cũng là một cách hiểu đầy nhân ái trước vĩ nhân. Song, tôi cứ cho rằng, gia phả chép lại phải là sau lắm. Còn ở đây, Nguyễn Hành văn (nghe tin) và cảm tác (sáng tạo ngay khi xúc động) thì thông tin gia phả liệu đến được với ông chưa. Đặc biệt lại ngay trong mùa dịch bệnh khi chính Nguyễn Hành viết chưa ngơi bút:
Lẫm nhược đại quân hành
Tao nhiên vạn lý kinh
Cổ lai vô thử dịch
Tiêm lạp chí long thành
Mục thảm nhân dân tử
Tâm hoài thiên địa sinh
Hận vô điều nhiếp thuật
Nhất vị hiến công khanh
(Ngằn ngặt như một đạo quân lớn kéo đi (đầy sát khí)
Trong vòng muôn dặm rối bời kinh khủng
Từ xưa chưa có nạn dịch nào như thế này
Khởi đầu từ nước Tiêm nước Lạp rồi lan đến Long thành
Mắt nhìn thấy nhân dân chết hại mà thảm thương
Lòng những nghĩ ngợi về cái lẽ trời đất muốn cho loài người sinh sống
Tự giận mình không cóa mưu kế làm điều hòa trời đất
Để hiến cho các vị công khanh)
Hình ảnh giãn dần về tiết tấu, xuất hiện bóng nhà thơ cúi đầu ngẫm ngợi rồi ngẩng lên ngóng vọng cao xanh:
Tạm thuluân lạc thử thành trung
Nam vọng phù vân mỗi ức công.
Thoắt chốn thành trung này đã thoắt phù vân ấy. Một khoảng cách xa xôi, một không gian vời vợi vô biên được xác lập: từ cách trở ngàn trùng đến biệt lìa vĩnh viễn. Giờ đây còn lại là nỗi nhớ ông (ức công). Những nghẹn ngào ban đầu được giải tỏa, câu thơ trầm ngâm đi về phía suy ngẫm của tâm thức, chữ vần trắc còn lại câu 5: 2/7 và câu 6: 3/7, khoảng lặng lẽ của tâm hồn hướng nội. Hình ảnh núi nhà với những ngày thanh thản của người chú ham săn bắn, làm những bài thơ hay về những buổi săn đêm, hiện ra trong nỗi nhớ của Nguyễn Hành. Giá như…?!. Đó chính là lúc, linh hồn Nguyễn Du nhập nhòa mờ tỏ cùng với cái thời xưa cũ “giá như” ấy hiện về trong ông, lưu luyến, vời xa, ảo ảnh:
Qui khứ gia sơn văn dạ lạp
Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng.
Tâm trạng Nguyễn Hành vận động từ tức tưởi, nghẹn ngào, nghi hoặc sang trạng thái ngấm ngầm xa xót và suy tư. Đó là tâm trạng một nhà nho từng trải khốn khó và am hiểu sự đời, có dồn và có nén. Xa xôi cách trở, không thể là văn tế là câu đối, Nguyễn Hành làm thơ, vì thế, độc giả trước hết vẫn là vong linh người đã khuất và sau đó chính là ông, trang trải lòng mình.
Đó là những gì tâm hồn ông trải trên mặt giấy, song đằng sau đó, chúng ta vẫn nhận thấy một căn cốt tư tưởng: bất hợp tác với kim triều và phủ định thực tại. Trong lời dẫn bài thơ súc tích của ông đã bộc lộ tư tưởng đó. Ông không ca tụng công trạng Nguyễn Du với triều Nguyễn, ông giới thiệu tự và hiệu Nguyễn Du trước khi ra làm quan triều này với “tính ham săn bắn” của ông. Đặc biệt, Nguyễn Hành dùng một kết cấu lạ mà chúng tôi chưa thể tra ra từ các từ điển đã dùng: phệ sĩ. Có lẽ, đây là chữ của ông. Chữ Hán phệ có nghĩa là cắn (của thú mạnh) hoặc bêu riếu người khác thì gọi là phệ. Chúng tôi đành chọn cách dịch là “Bập vào quan lộ”. Ông cho rằng, có lẽ vì một lí do nào đó, có thể là sinh kế chăng mà Nguyễn Du làm quan chứ không hẳn là hăng hái, tự nguyện. Chữ khó dịch, đề nghị bạn đọc tra cứu thêm. Ông gọi triều nhà Nguyễn là “kim triều”: sòng phẳng và vô cảm, chứ không phải là hoàng triều hay ngã triều. Việc thăng quan của Nguyễn Du ông cũng dùng chữ “lũy quan”: dần dần rồi lên, đến hẹn lại lên chứ không cố gắng phấn đấu gì cả, không phải là thăng quan hay tiến quan.
Ở bài thơ thì tư tưởng Nguyễn Hành quá rõ. Ông chỉ chấp nhận Nguyễn Du 19 năm về trước, tức là khi chưa làm quan triều Nguyễn và nỗi nhớ găm lại trong ông là những ngày Nguyễn Du qui khứ gia sơn. Trong thơ trung đại, nếu xuất hiện từ qui khứ, thì không ai không nghĩ đến chí hướng ẩn dật, thực tế ẩn dật vì đó là một ẩn tự xuất phát từ một biểu tượng ẩn dật là Đào Tiềm với tác phẩm nổi tiếng là Qui khứ lai từ, không nhà nho nào không nhập tâm.
Ông chỉ nói về việc ẩn dật của Nguyễn Du, và chỉ khẳng định nó. Và ngay khi linh hồn Nguyễn Du có thấp thoáng hiện về đi nữa thì cũng cùng với cái thời xưa cũ đó (cựu thời) mà thôi. Tư tưởng của Nguyễn Hành là nhất quán từ lời dẫn qua câu đầu bài thơ đến tận câu cuối cùng kết thúc bài.
Bài thơ để lại cho chúng ta một tư liệu quý báu về cả Nguyễn Hành lẫn Nguyễn Du. Đọc bài thơ, ta hiểu vào năm 1820, Nguyễn Hành đã luân lạc ở Bắc thành được ba năm, trước đó, ông còn luân lạc ở những nơi khác. Về Nguyễn Du, theo bài thơ (từ bản chép VHv109) lúc mất ông có chức quan là Hữu tham tri bộ Lễ. Điều này hoàn toàn tương ứng với Đại Nam thực lục: “Ất hợi, Gia Long năm thứ 14 (1815)… Lấy Cần chánh điện học sĩ Nguyễn Du làm Hữu tham tri Lễ bộ”. Hiện nay, chưa có tài liệu chính thức nhà nước (quan phương) nào thời Nguyễn cho phép bỏ chữ “Hữu” trong tên chức quan Nguyễn Du nên văn bản VHv109 chép là cụ thể và chính xác. Vì nằm trong ngạch Tham tri nên có thể khi tôn xưng người ta bỏ chữ Hữu đi cho sang trọng hơn chăng, và như thế là viết tắt, thiếu cụ thể, thiếu chính xác. Cũng như giờ đây, nhiều bậc là Phó giáo sư nhưng trong những văn bản không mang tính pháp quy, chúng ta vẫn tôn xưng họ là Giáo sư hoặc các Giáo sư… vì họ cùng nằm trong một ngạch lớn. Còn người chặt chẽ, cụ thể, câu nệ pháp qui vẫn cứ viết rõ ràng là Phó giáo sư. Theo xu thế giản lược của ngôn ngữ, văn bản lược bớt chữ thường là văn bản có sau. Còn với bài thơ này, cho đến hiện nay, văn bản VHv109 mà tôi sử dụng vẫn là văn bản có sớm hơn cả và điều này chứng tỏ nếu cụ Phạm Khắc Khoan theo một văn bản khác với các cụ làm Hợp tuyển thì văn bản đó cụ thể và khả tín hơn. Từ Lễ bộ hữu tham tri đến Lễ bộ tham tri là con đường rút gọn, còn thật khó có chuyện người sau chép, thêm chữ vào để hạ cấp bậc của Nguyễn Du đi. Tính khả tin của văn bản nằm ở chỗ đó. Chữ Hữu tham tri này xuất hiện 2 lần trong văn bản chép của cụ Phạm Khắc Khoan lại càng chứng tỏ văn bản chép này là cẩn trọng. Còn như ở Hợp tuyển, giữa tên bài thơ (tham tri) và lời dẫn (hữu tham tri) là không nhất quán, có sự tôn xưng rút gọn.
Cũng về mặt tư liệu, dựa theo ý câu thơ thứ hai (Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ) mà nhà thơ Vương Trọng trước đây đã lập luận cho rằng truyện Kiều đã được viết trước khi Nguyễn Du làm quan với triều Nguyễn. Đó là một mẫn cảm tài ba. Chuyện thời điểm Nguyễn Du viết truyện Kiều đã từng tranh luận kéo dài qua Namphong tạp chí, Tri tân tạp chí trước cách mạng tháng Tám/1945 cho đến ngày nay. Gần đây, qua con đường ngôn ngữ học, dần dần bắt đầu sáng tỏ thời điểm Nguyễn Du viết truyện Kiều là trước 1802, khi Gia Long lên ngôi.. Chúng tôi vững tin ở xu hướng này và sẽ hi vọng ngày càng tìm được những tư liệu cụ thể hơn, rõ ràng hơn. Công việc đang tiếp diễn.
Cái quý của thơ xưa là ngoài tâm hồn, tư tưởng, nó còn để lại cho chúng ta những tư liệu thực tế. Thơ nay hướng hẳn về tâm hồn, về cái tôi vĩnh hằng nên thỉnh thoảng đọc những tập thơ đâu đó, ta không tài nào xác định được tác giả viết vào lúc nào, ở đâu, về ai và với ai. Trong cái được có cái mất là vậy. Cái cụ thể bớt dần nhường cho tâm hồn bay bổng phiêu du.
b. Nên chăng bàn về chữ nghĩa:
Ở mục nhỏ a của mục 5 này, tôi đã cố gắng để hiểu thêm một chút ý thơ Nguyễn Hành. Còn trong hai bài trước (in các mục 1, 2, 3, 4) tôi đã chứng minh ông Nguyễn Khắc Bảo (qua bài ông trao đổi lại với tôi) thiếu trầm trọng những năng lực “để hiểu đúng”, “hiểu cho đúng được” bài thơ này như ông viết. Ông không có năng lực về xác định văn bản (đo bóng may áo, dùng văn bản đã phiên ra quốc ngữ mà khẳng định văn bản chữ Hán một cách ngược đời). Ông không có năng lực xác định thể thơ trung đại (không hiểu niêm luật các thể, không lịch duyệt trong lĩnh vực thơ ca trung đại). Ông không có năng lực về ngôn ngữ học (đặc biệt là vấn đề về ngữ âm và với các cứ liệu phương ngữ và dấu tích quốc ngữ cổ). Ông không có năng lực sử dụng từ điển và không hiểu tính chất từ điển (với những câu hỏi ngớ ngẩn cố ra vẻ mình biết). Đặc biệt là ông hoàn toàn không biết, dù sơ đẳng, việc cấu tạo nét dù của một chữ Hán như chữ Hĩ (cách vẽ chữ đến buồn cười). Trước đây đọc những ý kiến nhỏ của ông trên Ngôn ngữ và Đời sống (khoảng sau năm 2000), đầu tiên, tôi có tình cảm mến yêu một người hiếu cổ lại đam mê cụ Nguyễn Du quê mình. Sau đó đọc tiếp ông ở những bài khác, từ ngỡ ngàng tôi đi đến thất vọng đặc biệt là khi con điểu lạ này bắt đầu vươn cổ, cất tiếng kêu hẩu lốn của mình trong khu vườn Kiều. Trước đây đọc những bài của ông Bảo, ông viết thập thò và dựa dẫm nên góp ý sao cho mạch lạc là khó, hoặc vướng víu vào người khác. Đến khi gặp bài ông trao đổi cao giọng với anh Vương Trọng, tôi mới có ý kiến của mình và chờ đợi. Bài viết của tôi hoàn toàn không nằm ở tư cách “trọng tài” như ông Bảo cố ghép mấy lần liền. Trọng tài thì phải cho một trận đấu cân sức chứ. Tôi quan niệm ý kiến của ông Nguyễn Khắc Bảo với anh Vương Trọng như trứng chọi đá. Tôi chỉ giúp anh Vương Trọng lau những vết bẩn mà trứng giây trên đá mà thôi. Sự chờ đợi của tôi đã được đáp ứng khi có bài ông Bảo trao đổi lại. Ở bài này ông đã lộ rõ dần con người thực của mình. Trao đổi với tôi, ông Nguyễn Khắc Bảo dành một mục 6. Về việc dịch nghĩa, tôi lại phải trích văn ông ra để bàn vậy. Câu thơ: Ngô môn hậu phúc, công xảo hoàn, tôi cho rằng trong đó nó chứa đựng quán ngữ Hoàn phúc được GS. Đào Duy Anh giải thích trong từ điển là: Trọn phúc, lời khen người chết. Ông Nguyễn Khắc Bảo cho rằng tôi cắt rời chữ ra, ghép hai chữ hoàn và phúc xa nhau thành gần nhau để dịch rồi tán,… Ý kiến ông Bảo nghe có vẻ lọt tai nhưng thật nông cạn. Tôi xin lấy ngay một ví dụ thơ sau:
Lạnh lưng nhớ trũng cánh đồng
Gió mùa đông bắc thổi trong xương người.
(Trắng và Trắng - Nguyễn Duy – Trong tập Nhìn từ xa Tổ quốc).
Liệu có mối liên hệ nào giữa lạnh, gió, gió mùa và xương, xương người không? Dĩ nhiên “thổi trong xương người” là phi lí rồi. Ba từ đó đứng cách biệt với nhau trong những hai câu thơ. Vậy trong tâm thức Nguyễn Duy có tồn tại thành ngữ “lạnh thấu xương”, “gió lạnh thấu xương” không. Và nếu không có thành ngữ đó, Nguyễn Duy có viết được câu thơ như trên không? Và nữa, nếu một ông Tây phân tích câu thơ này phát ngôn rằng: “Trong tiếng Việt, ta thấy có thành ngữ lạnh thấu xương, ở đây Nguyễn Duy đã từ đó mà viết được câu thơ lạ và mới như trên” thì ông Tây có làm cái việc gắp và dán và tán không? Nếu người nào không đọc ra một căn cốt thành ngữ “lạnh thấu xương” trong hai câu thơ trên của Nguyễn Duy thì phải xem lại văn hóa đọc thơ của anh ta. Tại sao tôi lại giả định là một ông Tây đọc thơ Nguyễn Duy. Là vì, tôi và ông Nguyễn Khắc Bảo đứng trước thơ chữ Hán trung đại cũng vậy, hiểu cho đúng là khó lắm.
Lại ví dụ nữa. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có câu thơ khó hiểu:
Chúa đànnẻo khỏi tancon nghé
Hòn đất hầu làm mất cái chim
Ở câu thơ trên, ba chữ đàn, tan, nghé tách biệt với nhau. Tại sao câu thơ vẫn tồn tại và ta vẫn hiểu được nó. Đó là nhờ tục ngữ dân gian quen thuộc “sẩy đàn tan nghé”. Vậy khi sáng tạo Nguyễn Trãi trong đầu có vốn tục ngữ này không và ông có suy nghĩ bằng tục ngữ như vậy không? Nếu ta hiểu được câu thơ thì có phải gắp, dán, và tán không?
Ta hãy đọc tiếp hai câu thơ chữ Hán trong bài Xuân dạ của Nguyễn Du.
NamĐài thôn ngoại Long Giang thủy
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm.
(Nước Long Giang ở ngoài thôn Nam Đài
Một tiếng sóng lạnh tiễn đưa kim cổ.)
Chữ thủy và chữ phiến cách rời nhau nhưng không có chữ thủy, ta có hiểu chữ phiến là sóng được không? Ta có thể tái lập phiến + thủy = phiến thủy = miếng sóng, lớp sóng. Nếu như có câu thơ khác đi thì sao, ví dụ:
Tùng Sơn sơn tự Giang Nam khánh
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm.
(Cái khánh bằng đá Giang Nam trên chùa núi Tùng Sơn kia.
Một tiếng đá lạnh đang đẩy thời gian trôi đi).
Chúng ta đọc ngay ra phiến thạch ở đây vì trong truờng hợp này chiếc khánh bằng đá với hình dẹt mỏng có quan hệ với chữ phiến đồng dạng.
Còn trong thơ chữ Hán trung đại Trung Hoa, mối liên hệ hữu cơ nhưng ngầm ẩn của các tự đứng cách xa nhau đã tạo nên một nét thi pháp đặc biệt.
Ví dụ: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
(Lí Bạch)
Nhật (mặt trời nóng) => Lô (cái lò nóng) => Tử (màu đỏ tía, nóng); Hương (thơm bằng khói) => Yên (khói); Chiếu (rọi, ánh sáng) => Tử (màu ánh lên). Các đơn vị chữ có mối quan hệ bất chấp trật tự tuyến tính.
Ví dụ: Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trụ ức hoa niên
Cây đàn cẩm thạch sắt không rõ cớ gì có năm mươi dây.
Mỗi dây đàn, mỗi trụ đàn đều gợi nhớ buổi hoa niên.
(Lí Thương Ẩn)
Ở đây Đoan (mối, sợi vải) => Huyền (dây); Cẩm (gấm hoa) Hoa (hoa); Ngũ thập => Nhất => Nhất; đều không ở cạnh nhau và có những mối quan hệ phi trật tự tuyến tính. Tứ Viên cư sĩ (Trung Quốc) đã đọc ra là “Bách niên giai lão” trong ý tưởng các con số trong hai câu thơ này (mỗi dây mỗi trụ là có năm mươi dây và năm mươi trụ, cộng lại là một trăm: Lão thượng nhớ hoa niên) cho dù các con số đó đứng tách rời nhau trong trật tự tuyến tính câu thơ. Có thể kể ra mãi mãi những ví dụ tương tự khi sáng tạo thơ ca cổ kim đông tây.
Tại sao lại có hiện tượng như ta vừa xem những ví dụ ở trên? Điều này có thể giải thích ở hành động sáng tạo thơ ca với bốn quá trình diễn ra vừa đồng thời vừa thứ tự: tích tụ - lựa chọn - kết hợp - trình diễn, gọi một cách cổ xưa và ngắn gọn là cảm – tác. Cả bốn quá trình này luôn luôn tạo điều kiện cho hiện tượng phá vỡ trật tự tuyến tính trong khi phải tuân thủ nó.
Đứng trước cái chết của người thân khiến nhà thơ xúc động, lúc đó sẽ xảy ra một quá trình tích tụ những năng lượng thơ ca mà trong đó ngôn từ - ý tượng là một: Tích tụ này tạo ra một trường ngôn từ có định hướng. Lúc đó, anh ta sẽ quên đi những cái khác như axít, lẩu mắm, xe chảy xăng, giá áo ở chợ Kì Lừa…
Trong cơn xúc động, tất cả mọi yếu tố trong trường ngôn từ - ý tượng đó đều đòi hỏi quyền hiện diện, quyền tồn tại đẳng lập của mình. Nhưng là thơ thì phải có quy tắc: quy tắc câu, quy tắc bài, quy tắc thể. Thành thử nhà thơ phải lựa chọn. Trong cái trường đó, anh ta phải lựa chọn cái gì hợp lí nhất. Lựa chọn một cái để bỏ đi những cái khác là đơn giản, nhưng thơ ca, sau khi lựa chọn vẫn ảnh xạ những cái không được lựa chọn dưới vô vàn cách khác nhau. Đó là những dụng pháp thơ ca để tạo nên những quan hệ ngầm ẩn mang tính thơ.
Câu thơ, bài thơ chứa đựng những quy tắc trật tự. Bắt buộc phải tuân thủ quy tắc của câu thơ, đó là quá trình của thao tác kết hợp. Câu là sự kết hợp của chữ theo quy tắc ngữ pháp. Thoạt kì thủy, đó sẽ là quy tắc ngữ pháp thông dụng, ngữ pháp văn xuôi. Thơ ca sơ khai, thơ ca dân gian ở cấp độ câu thường tuân thủ loại quy tắc ngữ pháp này: nó dung dị, thật thà về phát ngôn, ít đòi hỏi sự phá vỡ quy tắc đó. Nếu như nó có giá trị là nhờ bằng con đường khác chứ không phải con đường phi ngữ pháp tuyến tính. Quy tắc ngữ pháp văn xuôi vừa là phương tiện chuyển tải thơ ca vừa hạn chế khả năng biểu hiện của thơ ca. Phương diện hạn chế này, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thơ gọi đó là tính phi thơ của ngữ pháp, biểu hiện rõ nhất là trật tự tuyến tính của nó. Một nhu cầu đồng hiện bị hạn chế bởi trật tự trong thời gian. Thơ ca tìm cách vượt qua hạn chế đó và dần dần thiết lập một ngữ pháp đặc biệt của câu thơ, người ta gọi đó là ngữ pháp thơ, vừa nương theo ngữ pháp văn xuôi vừa tìm cách phá bỏ trật tự tuyến tính của ngữ pháp đó bằng nhiều dụng pháp phong phú. Trở lại với câu thơ của Nguyễn Duy đã trích, ta thấy nhà thơ mạnh dạn phá bỏ ngữ pháp văn xuôi, vượt qua giới hạn của trật tự tuyến tính: Nhớ trũng cánh đồng là một phát ngôn dị thường so với ngữ pháp văn xuôi: bình thường, nếu sử dụng nhớ như một động từ cập vật thì sau nó phải là danh từ, đằng này, trũng là một tính từ chỉ trạng thái. Có một thao tác đảo trật tự ở đây: Cánh đồng trũng => trũng cánh đồng. Chưa dừng lại, đến lượt trũng khi bị tình thế thơ ca đặt sau chữ nhớ, nó lây nhiễm nghĩa ngược sang nhớ (đảo tuyến tính ý nghĩa) và làm cho nỗi nhớ mang một trạng thái: nhớ đến trũng lòng, điều này trong ngôn ngữ văn xuôi ít người nói vậy. Bước phá bỏ trật tự thứ hai là trong 14 chữ của 2 câu thơ, mối tương quan của lạnh – gió – xương bất chấp vị trí của nó, đi đêm với nhau để phát ngôn thành ngữ “gió lạnh thấu xương” là thứ vốn có trong quá trình tích lũy khi Nguyễn Duy trong buổi sáng mai thức dậy giữa Mạc tư Khoa trắng xóa, lạnh lùng. Tóm lại, câu thơ bứt phá khỏi gánh nặng phi thơ của qui tắc ngữ pháp thông dụng. Không phải ngẫu nhiên mà một bài thơ đến với ta trong như một cấu trúc đa diện đa chiều dù trên phương diện trình diễn nó vẫn phải tuân thủ trật tự tuyến tính dù sắp xếp theo kiểu nào hay đọc lên kiểu nào. Dù con chữ được lắp ghép theo chuỗi nhưng bài thơ không phải là cái dây chão để ta lần theo từng mối của nó mà là một lâu đài kim cương. Những kiến thức sơ giản về ngôn ngữ thơ trên đây thì bất cứ một sinh viên ngữ văn nào cũng được học ở trên lớp và đều hiểu cả. Bởi vậy hai chữ phúc và hoàn trong câu thơ của Nguyễn Hành dù cách nhau và trên nghĩa hiển minh nó thuộc hai kết cấu khác nhau nhưng vẫn có mối quan hệ ngầm ẩn trong quá trình tích lũy - lựa chọn- kết hợp- trình diễn thơ ca.
Qua những gì ông Nguyễn Khắc Bảo trao đổi trong cả mục 6 với tôi, tôi chỉ thấy rằng ông mới đề cập đến cái gọi là trật tự cơ giới của ngữ pháp hình thức (mà không đến đầu đến đũa) rồi lớn tiếng “mong độc giả trong cả nước thẩm định” rồi “ngán ngẩm mà kêu lên thôi rồi” v.v…Tức là ông mới chạm đến phần mà các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thơ ca gọi là phi thơ mà thôi. Đó là văn hóa đọc thơ của ông. Tôi cam đoan rằng, ông Nguyễn Khắc Bảo chưa đọc qua bất cứ một thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca nào cả. Mà nếu đọc cũng không thể tiếp thu nổi. Cũng như tôi, đến tuổi này sẽ không học nổi nghề thuốc Bắc. Cũng như tôi, mở một toa thuốc, sẽ ngán ngẩm mà kêu lên rằng: Sao toàn thân, rễ, củ, quả, hạt, vỏ, đất đá thế này… thôi rồi vậy! Tôi có hiểu cái uyên nguyên nó đâu.
Đến bây giờ thì có lẽ tôi không cần nói thêm cách phân tích cái câu Bồng lai tiên cảnh công dĩ quy với Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn cũng như ý kiến về vị trí hai chữ dĩ hĩ mà ông đưa ra nữa. Nó buồn cười đến mức, chỉ dăm ví dụ cỏn con là ý kiến của ông Nguyễn Khắc Bảo trở nên vô giá trị. Điều cần nói nhất để kết thúc mục viết là ông Nguyễn Khắc Bảo làm đồ giả như thế nào trong việc ngụy tạo văn bản của Hợp tuyển… để bảo vệ ý kiến vốn đã sai của mình.
c. Người ngụy tạo văn bản
- Ngụy tạo chữ NĂNG:
Trong bài viết của tôi trên Văn hóa Nghệ An số 82 khi bàn đến chữ năng này, tôi viêt rằng: (trích) “…chúng tôi nghi ngờ chữ năngtrong văn bản xưa nay vì hai lẽ: năng thời đồngba vần bằng đứng cạnh nhau thì không ổn. Thứ hai, sau chữ dữthường phải có một danh từ xác định đi sau nó, mà kết cấu năng thờithật khó xác định. Hay nói cách khác kết cấu năng thờivô nghĩa. Rất may là trong văn bản Hán đang khảo cứu, đó là chữ cựurất lọn nghĩa hài âm: Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng. Trong tình hình hiện nay, tốt nhất là cứ tin vào văn bản chữ Hán đang được lưu trữ”. (Hết trích). Câu văn tôi viết đến thế và chờ đợi. Tại sao vậy? Vì ông Nguyễn Khắc Bảo thường có lối viết lẩn quất sau lưng người khác (kể cả người khác sai), cần phải để ông xuất đầu lộ diện giữa thanh thiên bạch nhật mới túm tận tay được. Để phản đối ý kiến của tôi cũng như bảo vệ chữ NĂNG của ông, ông trích dẫn Hợp tuyển… và viết: (trích).
+ “Ồ thì ra “xăng dầu” cho sự bốc lửa của Nguyễn Hùng Vĩ là do ông đã có trong tay một văn bản thơ thay vì là chữ “năng” lại là chữ “cựu”
+ “Trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam ( thế kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX) do tập thể 10 giáo sư, nhà nho học có uy tín như: Huynh Lý, Lê Thước, Nguyễn Sỹ Lâm, Đỗ Đức Hiểu, Đặng Thanh Lê, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh… tại trang… Bài thơ ấy được chép như sau: (Ông chép bài thơ và câu cuối là ): Tinh linh hoảng dữ NĂNG thời đồng”.
+ “Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (trang 507) thì văn bản trước có các đặc điểm sau: “Tên tập thơ: Minh quyên phả, đầu bài ghi chức tước: Lễ bộ tham tri, công tự Tố Như, chép làm 2 kỳ I và II, mỗi kỳ 4 câu, câu thơ cuối là: Tinh linh hoảng dữ Năng thời đồng”. Còn văn bản do Nguyễn Hùng Vĩ sưu tầm và ngộ nhận là đúng thì lại là: “Tên tập thơ: Minh Quyên thi tập chức tước Lễ bộ tham hữu tri (lưu ý trong truyện Kiều cũng chỉ ghi tác giả là: Tiên Điền Lễ tham Nguyễn hầu soạn – không có chữ Hữu), công HIỆU Tố Như - cạnh chữ hiệu lại có chữ tự chữa vào chứng tỏ văn bản này là chép sai”, chép liền một mạch 8 câu, câu thứ 8 là: Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng”. (Hết trích).
Trong trích dẫn trên, tôi nhấn mạnh và in chữ NĂNG, HIỆU và ngoặc kép trong câu ở thể chữ in hoa để nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Khắc Bảo đã ba lần liền dựa vào các cụ làm Hợp tuyển… để bảo vệ cái sai về chữ năng của mình. Trong lúc đó khi phiên bài thơ trên, các cụ chỉ có một chữ năng nằm trong câu thứ 4: Dịch lệ hà năng tốc công tử, còn câu thứ 8 không có chữ năng nào như ông Nguyễn Khắc Bảo cố tình ngụy tạo, làm đồ giả để đánh lừa người đọc. Sự gian dối trong học thuật không thể chối cãi. Tại sao ông Nguyễn Khắc Bảo lại dám đã mượn uy tín người trước mà còn bịa chữ của các cụ để bảo vệ cái sai của mình. Chắc ông nghĩ rằng, cuốn sách đó in cách ngày nay cách gần 30 năm rồi, ít người có nên ông có thể lòe bịp. Câu thơ thứ 8 của bài này trong Hợp tuyển… là: Tinh linh hoảng dữ NẶNG thời đồng. Đó là bản in lần thứ hai (1978) có sửa chữa, thêm bớt. Lần ngược lại bản in lần thứ nhất (năm 1959) ngay thời các cụ làm ta vẫn thấy: Tinh linh hoảng dữ NẶNG thời đồng.
Tại sao hai lần in, cách nhau những 19 năm, được các bậc túc nho kiểm tra, hai lần sắp con chữ typo khác nhau (chứ không in chụp ) mà vẫn cứ phải đúng là chữ NẶNG. Vì cái chữ này ai học Hán Nôm cũng biết cả, nó là chữ , một danh từ có nghĩa là: trước, trước kia, xưa kia. Chữ này xuất hiện nhiều trên minh văn, còn trong từ thư, thơ ca thì ít. Các thầy dạy Hán Nôm đều đọc là NẶNG cả. Từ điển Thiều Chửu phiên là NẴNG (xuất nhập dấu nặng và dấu ngã như bài trước tôi đã nói). Qua hai lần in, các cụ không sửa chữ vì “10 giáo sư, nhà nho học có uy tín” ấy hiểu như vậy. Đến đây ta thấy, nếu là văn bản chữ Hán sẽ không có một văn bản nào xuất hiện cái nhữ NĂNG vô lý đến dường ấy trong câu thơ trên. Là người viết lách gắn với Hán – Nôm, háông Nguyễn Khắc Bảo không biết đến giai thoại đàm tiếu một thời về hai chữ nặng – năng này để chế giễu những người chỉ dựa trên phiên bản rồi bình tán bậy bạ. Đến khi có cả văn bản Hợp tuyển của các cụ trong tay, ông vẫn cố tình ngụy tạo chữ. Sự tôn trọng các cụ ông để ở đâu. Thật hết chỗ nói về tư cách của ông. May mà giấy trắng mực đen. Cũng chính vì điều này, mà tôi phải dè dặt viết trong đọan trích ở trên: “Trong tình hình hiện nay, tốt nhất cứ tin vào văn bản chữ Hán đang được lưu trữ”, tức là văn bảnVHv109 mà trên đó thay vì chữ NĂNG sai của ông Nguyễn Khắc Bảo là chữ cựu “lọn nghĩa, hài âm”. Viết như vậy có nghĩa là, qua kinh nghiệm văn bản, tôi không phủ định có thể có văn bản chữ Hán khác chép thơ Nguyễn Hành trước đây, tôi đặt văn bản VHv109 vào “tình hình hiện nay” và nói “tốt nhất là” chứ không khẳng quyết để “sổ toẹt” hay “phủ định” văn bản các bậc thầy mình như ông Nguyễn Khắc Bảo vu vạ. Còn ông làm giả chữ nghĩa để người đời hiểu rằng, các cụ sai đến vậy thì ông tự đánh giá lấy mình. Ông hãy chứng minh văn bản chữ Hán nào có chữ NĂNG đi, chứ đừng giở trò đo bóng may áo ra đây. Còn mối quan hệ chữ NẶNG và chữ cựu như thế về văn bản và ý nghĩa tôi sẽ chưa viết ra đây, tôi chờ đợi. Lý do chưa viết là ông đạo thính đồ thuyết (nghe trộm nói leo) nhanh lắm, như cái chữ kỳ lần trước ấy.
- Ngụy tạo chữ HIỆU.
Trở lại đoạn trích trên của ông Nguyễn Khắc Bảo, ông viết: (Trích) “Công hiệu Tố Như - cạnh chữ hiệu lại có chữ tự chữa vào chứng tỏ văn bản này là văn bản chép sai”. Tôi không rõ ông Nguyễn Khắc Bảo vì sao lại phiên chữ Hiệu đó vào để đánh giá công việc của cụ Hồ Trai Phạm Khắc Khoan. Ông Bảo há không thấy chữ Hiệu đó đã được chính cụ bỏ đi và chính cụ thay nó bằng chữ Tự. Ông chắc chắn biết vậy nhưng vẫn phiên để tiện việc đánh giá nhẫn tâm của mình. Các cụ chép sách, viết chữ, đánh máy chữ kiểu cổ ngày xưa khổ hơn đánh máy bây giờ trên máy vi tính. Nếu đánh máy chữ cũ, với chữ quốc ngữ có chữ nào sai, người ta sẽ đánh đè lên chữ đó dẫy dấu x x x x hoặc dùng gạch ngang, gạch chéo đè lên chữ. Nếu chép tay, chép sai người ta gạch bỏ hoặc khuôn chữ đó lại. Với chữ Hán, người ta vì kiêng kị, vì tôn trọng con chữ đã được sinh ra, họ dùng các dấu chấm đặt ở phần trên con chữ (cạnh phần trên hoặc ở trên). Ngày nay nếu chép tay thì học trò gạch đi hoặc dùng bút xóa, trên máy tính thì bấm xóa đi. Khi cô giáo chấm chính tả hoặc tập làm văn, chữ đã được có dấu hiệu bỏ thì sẽ không dựa vào đó để trừ điểm vì không đánh giá đó là chữ sai. Khi ta đưa một bản thảo chép tay cho thư kí, chỗ nào ta đã bỏ bằng các dấu hiệu đó thì thư kí sẽ không đánh. Hay là cô giáo cứ chấm rồi bắt bẻ học trò. Hay là thư kí cứ đánh cả chỗ đã bỏ đi để nói với thiên hạ xếp mình sai. Ông Nguyễn Khắc Bảo là người như vậy. Ông thấy rõ bên cạnh chữ Hiệu, chính cụ Phạm Khắc Khoan đánh ba dấu chấm và tự tay viết chữ Tự thay thế. Ông Bảo có nghiệp vụ văn bản và Hán Nôm cơ mà. Ông đã ngụy tạo chữ đó để phục vụ cho ý đồ tranh luận của mình. Thật dễ sợ. Còn cụ Vũ Tuấn Sán thì khác. Sau khi đọc bài của tôi trên báo Văn Nghệ, do đã 80 tuổi, cụ liền lặng lẽ sai cháu gái đến Viện Hán Nôm chụp đúng bài thơ đó về để tìm hiểu tôi viết có đúng không? Đó là tư cách làm việc đáng kính trọng.
- Ngụy tạo dấu kép và các chữ khác:
Trong câu văn của ông Nguyễn Khăc Bảo, khi nói về cách chia bài của tác giả Hợp tuyển… cũng như về văn bản mà tôi sử dụng, ông đã lặng lẽ đưa những dấu ngoặc kép vào văn bản của mình để làm như chính các cụ đã mô tả văn bản như vậy. Lật Hợp tuyển… ra xem mới thấy rằng các cụ không hề nói đến chữ KỲ và tôi thì không hề phiên chữ Hiệu trong bản phiên của mình. Tôi cứ nghĩ khi viết, ông Nguyễn Khắc Bảo vừa lén lút vừa cười mỉm khi đánh những dấu ngoặc kép có thể hại người đó. Tuy nhiên chính nó lại phô bày cái tâm thế của văn hóa tranh luận của ông.
Chưa hết, trong bài viết của tôi, tất cả các chữ từ điển tôi dùng với tư cách danh từ chung tôi đều viết thường (như từ điển Khang Hi, từ điển Thiều Chửu, từ điển Génibrel.v.v…) và trong ngay chính bài này cũng vậy. Còn khi nhắc đến danh từ riêng cuốn từ điển đó thì tôi in nghiêng, thậm chí in mập (Hán Việt tự điển, Khang Hi tự điển). Ông Nguyễn Khắc Bảo trích văn của tôi và bình luận như sau: “Không tin thì mở Từ điển Khang Hi tra chữ..” (lúc trước thì Từ điển Khang Hi – lúc sau Khang Hi Tự điển… mới có một dòng mà đã lại sai lẫn giữa Tự điển và Từ điển)”. Ông Bảo lấy đâu ra những chữ viết hoa vô lối như vậy trong văn của tôi. Ông ngụy tạo ra chữ viết hoa để người đọc tưởng tôi nhầm giữa tên riêng từ điển và danh từ chung chỉ từ điển, hoặc tôi không tể phân biệt nổi giữa tự và từ. Tôi thì không có sự lẫn lộn đó đâu. Đạo đức khoa học ông để đâu?. Từ điển là một danh từ chung, nó dùng để chỉ cho cả Tự điển, Tự vị, thậm chí có khi còn chỉ cho cả các danh mục tra cứu được sắp xếp theo trật tự chữ cái, có thể còn là các trật tự khác nữa (theo nét chẳng hạn). Khi làm một công trình ví như Lịch sử từ điển Việt Nam thì chả nhẽ vì hai chữ từ điển mà người ta loại ra ngoài Đại Nam quốc âm tự vị (1898), NamViệt Dương hiệp tự vị (1838) (tức từ điển Taberd như ta vẫn gọi), Hán Việt tự điển của Thiều Chửu chắc. Còn từ điển của Génibrel thì tên Việt của nó vừa là Tự điển Pháp - Việt vừa là Từ điển Pháp - Việt đấy, (đều là chữ Pháp Dictionnaire Vietnamien – Francais). Tôi cũng đã từng đọc ý kiến trao đổi về tự điển - từ điển liên quan đến Hán - Việt tự điển trong cuộc tranh luận về truyện Kiều rồi. Ai sai chứ tôi trong chuyện này không thể sai. Nói một cách thẳng thắn là khi định đưa chuyện phân biệt này ra, ôngNguyễn Khắc Bảo, về tri thức là “dốt nói chữ”, về tư cách là khôn vặt, ngụy tạo con chữ để hại người. Thấy ông trong văn viết cứ cầm bút rón rén: Từ điển - Tự điển mà tôi thấy tội nghiệp cho người học võ vừa múa vừa run.
Tôi tạm kết thúc bài viết này và sẽ tiếp tục chờ đợi: Dẫu sao thì bài của ông Nguyễn Khắc Bảo, dù sai sót trên từng ý một, cũng đã in ra rồi. Nếu cứ lần theo từng câu mà chỉ ra thì mất thời gian một cách không đáng. Nếu cần nói một câu kết thúc, tôi sẽ nói rằng: Tôi đã bị trâu lấm vẩy càn. Nhưng không sao!.
2213
2352
21594
225452
130677
114578395