Những góc nhìn Văn hoá

Sự chế tạo Folklore

Trải ngàn năm, Việt Nam trong quá khứ là một sự định dạng “quốc gia” được miêu tả bởi các học giả trung đại, về cơ bản, chỉ như là lịch sử của/cho Việt. Sự phát hiện ra tính đa tộc người của Việt Nam là một chủ đề hết sức quan trọng. Nó được bàn luận và tiến triển chủ yếu gần như rơi trọn trong thời hiện đại. Mối bận tâm này khởi sinh từ các học giả Đông Dương lẫn các học giả Việt đầu thế kỷ XX, và liên tục được tiến triển sau đó, có thể nói, đấy là hệ vấn đề đầy phức tạp, lôi kéo những ý nghĩ trái chiều, đa động cơ suốt một thế kỷ qua.

Trải qua nhiều biến động chính trị - lịch sử phức tạp trong suốt thế kỷ trước. Việt Nam ở bất kỳ khu vực chính trị - học thuật nào, điểm chung là luôn có những nỗ lực xây dựng quốc gia mang hình ảnh cộng đồng cố kết các dân tộc [tộc người] anh em. Hình ảnh ấy hoạt động theo thứ tự của tộc đa số là anh và thiểu số là em cùng sống chung trong một lãnh thổ.

Thế kỷ XX là thế kỷ Việt Nam định dạng tộc người, xác định tộc danh.

Nhiều chương trình quốc gia được khởi động không ngoài mục đích xây dựng bộ dữ liệu về văn hóa Việt Nam đa dạng, đa tộc người chính nhằm phục vụ mục đích định dạng mới về Việt Nam gần hơn với bản chất Đông Nam Á đa tộc người bên cạnh tính chất Hán hóa hay Ấn hóa đã được biết đến và theo/đeo đuổi từ lâu. Sự tăng đột biến các sách về văn hóa - văn nghệ dân gian các tộc người thiểu số trong thời gian qua là một hoạt động đáng chú ý. Với hàng trăm tỷ đồng được đầu tư cho hoạt động xuất bản nhiều ngàn cuốn sách về chủ đề này, cho thấy, quyết tâm của quốc gia Việt Nam hiện đại, dù chịu áp lực của kinh tế khó khăn, gánh nặng nợ công lên cao nhưng vẫn không lơ là ý chí xác lập cơ sở, xây dựng bộ dữ liệu nền về folklore phục vụ hình ảnh quốc gia đa tộc người.

Kế hoạch này là không có gì xa lạ. Nó là dấu chỉ vào tinh thần dân tộc chủ nghĩa lãng mạn (romantic nationalism) có ở khắp mọi nơi, tồn tại mạnh mẽ trên thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, và cả ở Việt Nam với những đặc thù riêng, còn kéo dài đến tận hôm nay. Điểm “khác biệt”, mang “bản sắc” Việt Nam hiện đại, đó là qui trình này, hình như đã được thực hiện một cách khá tùy tiện và thiếu vắng hẳn tính chuyên nghiệp. Chính ở điểm này, folklore Việt Nam vô hình chung đã bộc lộ nhiều nguy cơ tiềm ẩn cho chính sự hiểu biết về folklore.

 Hàng loạt các bài báo đã cảnh tỉnh và chỉ ra nhiều sai phạm đáng kể trong cái gọi nôm na là “dự án sách 240 tỷ đồng”, còn chính danh là “Dự án công bố, phổ biến tài sản văn hoá văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thực hiện. Dự tính khi hoàn thành, dự án này có trên 1.600 đầu sách với tổng cộng khoảng 3,2 triệu bản in. Một dự án mà như báo chí đưa tin, từ ông Giám đốc Văn phòng dự án, cho biết: “Đây là dự án sách có quy mô lớn nhất Việt Nam từ trước đến nay, chưa hề có tiền lệ ”[i]. Và cơ chế phân phối của nó là hướng đến mạng lưới toàn dân hưởng lợi: “Mỗi đầu sách được in 2.000 cuốn, tặng 1.997 điểm là các thư viện trên cả nước”[ii].

Về nguyên tắc thì đây là một dự án cực lớn mà nếu làm tốt, nó có giá trị kiểu của nó, không thể phủ nhận, và thực thế, dự án cũng đã cho in được nhiều đầu sách có giá trị, nhất là sách của các nhà nghiên cứu địa phương, trí thức tộc người khó có điều kiện xuất bản. Tuy thế, điều đáng tiếc là song hành với các công trình tốt, lại còn đó, một sự “chế tạo” ra folklore đầy nguy hiểm, làm thành  chướng ngại, là rác trên đường hiểu biết Việt Nam. Hàng loạt ấn bản thiếu sót và sai sót về nội dung đã được chỉ ra trên báo chí mà chúng ta có thể dễ dàng tìm kiếm được trên mạng internet. Trong đấy, thực sự đáng quan ngại nhất là những sách ăn cắp, cấy ghép folklore một cách khá trắng trợn.

Báo chí thường nhấn mạnh đến điểm sai phạm của in ấn trong những dự án kiểu này, và nói chung, là hoạt động xuất bản kém chất lượng, tùy tiện trong thời gian qua. Sự phân phối sách dự án đến mạng lưới toàn dân (thư viện cơ sở, đồn biên phòng, phòng văn hóa cấp xã…) với những ấn phẩm nhiều sai sót cho thấy hoạt động in ấn đã thể hiện “quyền lực” đặc thù của nó. Sự nhân bản những sách sai, sách bẩn đã cấy vào, nối dài, làm đậm lên hàng loạt những “hiểu biết” sai lầm, thiếu sót mà để khắc phục nó sẽ là rất khó khăn. Vì, ở cấp độ địa phương, hoạt động phản biện tri thức là hầu như không diễn ra. Người ta tin những điều sách in. Sách, là “khả tín”. Nhất là, sách được đảm bảo bởi “dự án nhà nước”, được hội đồng với tên tuổi có hàng loạt chức danh đảm bảo.

Điểm đáng nguy hại thứ hai là sự làm sai lệch các danh tác. Các nghiên cứu về Mường như của Trần Từ (Nguyễn Từ Chi)[iii] hay Thái (đen) của Cầm Trọng[iv] và một số các sách của các tác giả chất lượng khác được in và phổ biến trở lại trong dự án, tiếc thay, đầy sai sót, và, nguy hại là cắt xén chính nguyên tác[v]. Kiệt tác có thể được “chế tạo” lại thành các tác phẩm có nhiều câu, đoạn, trang viết ngô nghê với câu viết không đủ, không hết ý dẫn đến sai ý. Còn với các sách nghiên cứu mới thì qui cách căn bản của việc nghiên cứu không được tuân thủ, đáng kể nhất là trích dẫn không có nguồn, viết sai tên tác phẩm, tác giả, thuật ngữ thì rất phổ biến. Tất cả cho thấy hoạt động biên tập yếu kém cũng như chất lượng công trình chưa đạt mức sàn khi yêu cầu khoa học tối thiểu là chỉ cần viết cho đúng, dẫn nguồn cho cụ thể các ý trích dẫn.

Phân tích một trường hợp điển hình của cơ chế chế tạo văn hóa dân gian hiện đại để thấy được fakelore đã đánh chiếm folklore như thế nào. Một quan chức chính trị, ông Trần Hữu Sơn - nguyên là giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Lào Cai, về hưu, chuyển sang làm quan chức học thuật với vai trò Phó chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, gần đây, có xuất bản công trình chủ biên sách Văn hóa dân gian người Bố Y ở Lào Cai được/bị báo chí chỉ rõ là “đạo văn”[vi] và ông cũng đã có bài xin lỗi công khai trên báo chí[vii]. Sự bứng nhổ các dữ liệu dân tộc chí người Bố Y vùng Quản Bạ - Hà Giang sang vùng Lào Cai của sách Văn hóa dân gian người Bố Y ở Lào Cai là quá cơ giới đến mức thô thiển. Sự “chuyển dịch” văn bản từ vùng này sang vùng nọ mà còn chưa xóa hết dấu vết, đến nỗi có nhà dân tộc học phải nhận định “họ ăn cắp mà rất lười biếng”! Người ta sẽ nhận thấy ngay, sự tác hại của “quyền lực in ấn” trong việc nhân bản hàng ngàn quyển sách kiểu này, sau đó được gửi đến khắp nơi trong chương trình dự án nhà nước. Tất cả, tạo nên một vòng tròn khép kín của sự sản xuất các tri thức dân gian giả mạo (fake-lore) từ một dự án trọng điểm cấp nhà nước. Sự bất tín của cộng đồng với bộ sách bìa màu nâu này trong thời gian qua, có thể nói là nhiều lúc khá khắt khe, đến nỗi có thể nhận thấy ít nhiều có sự bất công khi chỉ vì những quyển sách kiểu này đã làm ảnh hưởng đến nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu, sưu tầm nghiêm túc khác. Việc xử lý “hậu quả” không rốt ráo, khi đáng ra cần phải có cơ chế thu hồi toàn bộ sách sai, sách ẩu, sách ăn cắp. Sau đó, tiến hành in ấn chỉnh sửa, đặc biệt, phải tiêu hủy đối với những sách mà sai sót ở cấp độ tổng thể, sách ăn cắp vốn không thể sửa chữa là không thể không thực hiện. Nhưng dường như điều ấy đã không được hành động một cách thực sự nghiêm túc. Đơn giản, những sách của Từ Chi, Cầm Trọng hay quyển sách về người Bố Y kể trên, bằng nhiều nguồn, đã ra sách cũ, bán giá giấy vụn một cách rất phổ biến (dù trên nguyên tắc là sách dự án không bán, nhưng không hiểu vì sao những sách ấy lại được bán rất phổ biến, có khi giá giấy cân?!). Thế nên, khả năng thu hồi chỉnh sửa sách sai gần như là vô vọng. Xin nói thêm, trường hợp của tác giả chủ biên sách Văn hóa dân gian người Bố Y ở Lào Cai chỉ là một ví dụ trong rất nhiều trường hợp tương tự. Nó được dẫn ra như một trường hợp đáng lưu tâm, vì công trình này được thực hiện bởi chính một trong những nhà lãnh đạo cấp cao nhất của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.

Cứ như thế, bằng nhiều nguồn, các dự án quốc gia (mà ý đồ có thể là tốt đẹp) đã bị/được thực thi thành nhiều ấn phẩm kém chất lượng, sai lầm và ngụy tạo thô thiển. Việc phát giác, như một phản ứng “tự vệ” quen thuộc, các cá nhân đổ thừa trách nhiệm cho nhau, cấp trên ấn lỗi cho cấp dưới, cấp dưới đành im miệng ngậm bồ hòn làm ngọt, một vài lá đơn xin lỗi, giải trình được đưa ra, và sau đó… rồi đâu lại hoàn đấy! Tiền dự án,  cá nhân có khi vẫn nhận đủ, thậm chí, nhận/“ăn” từ mấy “mang”, của nhiều nơi, nhiều chỗ, nhiều nguồn. Trong khi đó, sách sai, sách bẩn, sách ăn cắp thì vẫn ngang nhiên, tràn lan, vẫn lưu trong thư viện các cấp. Sự thiệt hại lớn nhất vẫn là cho người dân nói chung, và khổ tâm nhất, là cho chính người dân thiểu số vốn đã nhiều thiệt thòi, nay lại “không may” “bị chế tạo”, “xuyên tạc”. Một sự chế tạo rất thô vụng.

Việt Nam đa tộc người sẽ ở đâu trong mớ lẫn lộn những tri thức không đáng tin cậy, xen lẫn với nhiều sách có thể nhận ra đã có một sự đầu tư nghiêm túc. Bát cơm luôn lẫn các hạt sạn, không nhai thì đói, nhai thì buốt răng. Bữa cơm vì thế đã mất ngon. Với sự sản xuất tri thức folklore như ở Việt Nam trong thời điểm hiện nay, khó kỳ vọng một con đường sáng. Bất cứ một sai lầm nào, để khắc phục, thì sự hao tâm tốn của sẽ lớn hơn gấp bội lúc “được làm ra”. Huống hồ sự sai lầm ấy là sai lầm về nhận thức, việc khắc phục sẽ khó khăn hơn gấp bội.



[v] Các bài báo trên Nông nghiệp là đáng kể khi đã chỉ ra sự sai sót nguy hại trong tái bản sách dân tộc học của Từ Chi, Cầm Trong và nhiều sách khác. Ở điểm này, báo chí đã làm tốt công tác giám sát mặt tri thức mà tiếc thay, đáng lý ra, nó phải được thực hiện bởi các nhà chuyên môn có liên quan trực tiếp hay gián tiếp.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578727

Hôm nay

2252

Hôm qua

2293

Tuần này

21926

Tháng này

225784

Tháng qua

130677

Tất cả

114578727