Đất và người xứ Nghệ

Những tổ chức yêu nước và cách mạng trước ngày thành lập Đảng bộ Nghệ An

Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Tháng 3/1930, Tỉnh bộ Vinh và Tỉnh bộ Nghệ An được thành lập. Đây là kết quả của một quá trình lâu dài về tư tưởng và tổ chức của các lực lượng yêu nước và cách mạng, mà nền tảng là tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh kiên cường của người Nghệ.

                                                                           

Nền tảng kinh tế - xã hội mới

Đến cuối thế kỉ XIX, các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã ở Nghệ An, Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hà Tĩnh đã bị đàn áp dã man. Phong trào Cần Vương thất bại. Công cuộc xâm lược và bình định của thực dân Pháp ở Việt Nam cơ bản hoàn thành. Con đường cứu nước của các sĩ phu yêu nước đã trở nên lỡ nhịp, lỗi thời; nhà nước phong kiến Việt Nam đã bất lực và đầu hàng trước sức mạnh của chủ nghĩa thực dân.

Ngay sau khi phong trào Cần vương tan rã (1896), thực dân Pháp bước vào thời kì khai thác thuộc địa. Về quản lý, vì là xứ “Bảo hộ” nên ở Nghệ An đồng thời tồn tại hai hệ thống chính quyền của nhà nước phong kiến Nam triều và Tòa công sứ của người Pháp. Trong thực tế, quyền lực chủ yếu nằm trong tay thực dân Pháp, chính quyền Nam triều chỉ là tay sai bù nhìn.

Nghệ An, với vị trí địa chính trị - kinh tế quan trọng, nguồn tài nguyên phong phú và giàu có đã trở thành địa bàn quan trọng trong nhận thức và chính sách khai thác của thực dân Pháp.

Bởi thế, ngay từ đầu, liên tiếp vào các năm 1898, 1914, 1917, các thị xã Vinh, Bến Thủy và Trường thi được thành lập. Đến năm 1927, ba thị xã này được sáp nhập thành thành phố Vinh - Bến Thủy do Công sứ Pháp kiêm đốc lý thành phố. Chính quyền thuộc địa và tư bản Pháp đã chú trọng đầu tư và đẩy nhanh tốc độ xây dựng để biến Vinh - Bến Thủy trở thành trung tâm công - thương nghiệp. Tại đây, vào thập kỉ 20 (thế kỉ XX) đã có hàng chục nhà máy có quy mô khá lớn sản xuất diêm, điện, cá hộp, rượu, gỗ, sửa chữa xe lửa…, trong đó có Nhà máy Xe lửa Trường Thi, Nhà máy Diêm có tới hàng ngàn công nhân. Ngoài ra, tư bản Pháp còn mở ra nhiều đồn điền, có đồn điền Lapicơ quy mô lớn lên đến 7.500ha. Một số tập đoàn tư bản lớn của người Pháp đã tổ chức khai thác và kinh doanh hàng hóa xuất nhập khẩu với quy mô đầu tư ngày càng lớn như SIFA, Laotiene. Chính quyền thuộc địa thực hiện độc quyền kinh tế về công nghiệp nặng, giao thông vận tải, khai thác mỏ lớn, mở đồn điền, xuất nhập khẩu, rượu, muối, thuốc phiện.

Nhà máy Xe lửa Trường Thi. Ảnh TL

Không chỉ khai thác tài nguyên, chính quyền thuộc địa còn áp đặt chế độ sưu thuế vô cùng nặng nề. Hà khắc và bất công nhất là thuế thân đánh vào đầu trang đinh.

Để phục vụ cho khai thác, về giao thông vận tải, người Pháp cho xây dựng quốc lộ I, quốc lộ 7 (Vinh - Cửa Rào - Lào), quốc lộ 8 (Vinh - Lào); Nối đường sắt Hà Nội - Vinh với Vinh - Đông Hà (1927); Sân bay Vinh (1929); Nạo vét lòng sông Lam và mở rộng cảng Bến Thủy (10 triệu Fr, năm 1929).

Về văn hóa xã hội, thực dân Pháp đi ngược lại với rêu rao là “khai hóa văn minh”, không thực tâm phát triển văn hóa, giáo dục, y tế… Tuy nhiên, cùng với sự hạn chế và xóa bỏ hệ thống giáo dục Nho học cũ, hệ thống trường học theo lối mới “tân học” hình thành dần, mặc dù rất chậm, chủ yếu nhằm đào tạo nhân lực phục vụ cho chế độ cai trị của chúng.

Sự chuyển đổi về kinh tế và chính sách cai trị đã làm xã hội ở Việt Nam nói chung và ở Nghệ An nói riêng có sự chuyển biến thay đổi. Đó là bên cạnh giai cấp nông dân chiếm chiếm hơn 90% dân số, đang bị bần cùng hóa đã sự hình thành các giai cấp công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Cho đến trước năm 1930, giai cấp công nhân ở Nghệ An chỉ chiếm hơn 1% dân số, chủ yếu tập trung ở Vinh - Bến Thủy, trình độ chưa cao và có đặc điểm “bán công bán nông”, gắn bó mật thiết với nông dân, nông thôn. Tầng lớp tiểu tư sản ngày càng đông đảo, nhất là trí thức, học sinh. Một bộ phận đáng kể trong số họ xuất thân từ gia đình nho học, các sĩ phu, có truyền thống yêu nước. Giai cấp tư sản (người Việt) ở Nghệ An xuất hiện nhưng số lượng ít và quy mô tài sản hạn chế, vừa gắn bó quyền lợi vừa bị bị tư bản ngoại quốc chèn ép. Giai cấp địa chủ có nhiều hạng tùy vào mức độ tích tụ đất đai, có một số kiêm quan lại, nên thái độ chính trị khác nhau; phần lớn là có ý thức dân tộc, tham gia các phong trào yêu nước.

Từ Hội Duy Tân đến Phong trào chống sưu thuế

Phong trào Cần vương tan rã, đường lối đấu tranh bạo động của các sĩ phu thất bại. Công cuộc đấu tranh dân tộc cần một nhận thức mới, một con đường mới. Đến đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước vẫn là những người đi tìm đường. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các nhà sáng lập Đông kinh nghĩa thục là những người tiên phong tìm đường mở lối và họ đã tìm ra những con đường khác nhau để mong đến độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân quần.

Ở Nghệ An, Phan Bội Châu cùng với Đặng Thái Thân (Nghi lộc) và Tiểu La Nguyễn Thành (Quảng Nam) thành lập Hội Duy Tân, chủ trương Đông du, đưa thanh niên sang Nhật học tập để trở về đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng nền cộng hòa quân chủ lập hiến. Tham gia Hội Duy Tân ở Nghệ An và Hà Tĩnh còn có Đặng Thúc Hứa, Đặng Nguyên Cẩn, Lê Võ, Mai Lão Bạng… Phong trào Đông Du không thành, Phan Bội Châu quay trở lại Trung Quốc thành lập Việt Nam Quang Phục hội với ý định vận dụng đường lối của Tôn Trung Sơn, thành lập nước Cộng hòa dân quốc. Sau khi tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc, ông bắt đầu có xu hướng theo chủ nghĩa xã hội nhưng chưa kịp thực hiện thì bị bắt và bị đưa về an trí ở Huế. Trong Hội Duy Tân ở Nghệ An còn có một phái chủ trương bạo động gọi là “Ám xã” mà thành viên tích cực là Ngô Quảng, Lê Quyên, Lê Khánh, Đề Đạt… Họ xây dựng căn cứ ở Hồng Lĩnh (Nghi Xuân), Bố Lư (Anh Sơn), liên kết với lực lượng binh lính yêu nước, định đánh thành Hà Tĩnh nhưng bị lộ nên không thành.

Cũng trong thời gian này, năm 1908, phong trào chống sưu thuế xuất phát ở Quảng Nam đã lan ra Hà Tĩnh, Nghệ An rất mạnh mẽ. Thủ lĩnh của phong trào này ở Hà Tĩnh là Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập, ở Nghệ An là Chu Trạc. Chu Trạc chuẩn bị lực lượng vũ trang, chủ trương bạo động nhưng tất cả đã bị đàn áp và dập tắt.

Từ Trại Cày Phì Chịt đến Tâm Tâm Xã và Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội

Con đường Đông du sang Nhật thất bại, một số yếu nhân của Hội Duy Tân mà đại biểu xuất sắc nhất là Đặng Thúc Hứa đã tìm ra một con đường xuất dương khác, đó là sang Xiêm, rồi từ đó sang Trung Quốc. Tại Xiêm, họ đã tổ chức Trại Cày - một tổ chức sản xuất sinh sống để hoạt động cách mạng. Tại đây, từ năm 1909, họ đã đón hàng trăm thanh, thiếu niên từ Nghệ Tĩnh sang để huấn luyện rồi từ đó gửi sang Quảng Châu (Trung Quốc). Trong lúc này, các chiến sĩ yêu nước đã tổ chức ra “Hưng nghiệp hội xã” để hỗ trợ lẫn nhau và một phần để hỗ trợ phong trào xuất dương sang Xiêm.

Những thanh niên từ Xiêm sang Quảng Châu, mà tiêu biểu là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đã lập ra Tâm Tâm Xã (Tân Việt thanh niên đoàn) với mục đích “Liên hiệp những người có trí lực trong toàn dân Việt Nam, không phân biệt ranh giới, dảng phái, miễn là có quyết tâm hi sinh tất cả tư ý và nguồn lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền lợi làm người của Việt Nam”.

Tháng 6 năm 1924, tiếng bom Sa Điện bùng nổ. Phạm Hồng Thái ném tạc đạn vào Merlin bất thành. Phạm Hồng Thái hy sinh nhưng mở ra một bước ngoặt mới cho phong trào yêu nước của Việt Nam và xứ Nghệ.

Khi Phan Bội Châu tổ chức Đông du sang Nhật thì lại có một hướng xuất dương khác, sang Pháp và các nước Âu - Mỹ, của Nguyễn Tất Thành. Tại Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên mới là Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Đảng Xã hội rồi trở thành thành viên sáng lập Đảng Công sản Pháp. Từ đó, ông đã sang Liên Xô, hoạt động cho Đệ tam quốc tế. Từ một người Nghệ tìm đường cứu nước ông trở thành chiến sĩ cộng sản quốc tế. Và đến năm 1925, ông về Quảng Châu để tổ chức và lãnh đạo cách mạng vô sản Việt Nam.

Khi về đến Quảng Châu, với bí danh Lý Thụy, ông tiếp xúc với Phan Bội Châu, các thành viên Tâm Tâm Xã, tuyên truyền đường lối cách mạng vô sản và thành lập tổ chức Thanh niên Cộng sản đoàn gồm có 9 người và kết nạp 5 đảng viên cộng sản dự bị trong đó có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong. Đồng thời ông tổ chức đội thiếu niên yêu nước cũng chủ yếu do Đặng Thúc Hứa gửi từ Trại Cày (Phì Chịt) sang.

Sau một thời gian huấn luyện, từ những hạt nhân này, tháng 6 năm 1925, ông thành lập tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, gọi tắt là Hội Thanh Niên. Tôn chỉ mục đích của Hội là: "Phấn đấu để thu phục lấy đại bộ phận thợ thuyền, dân cày và binh lính, dẫn đạo cho quần chúng bị lao khổ ấy liên hiệp với vô sản giai cấp thế giới để một mặt đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, chế độ phong kiến; một mặt tham gia vào cuộc thế giới cách mạng sản trừ tư bản chủ nghĩa cả thế giới đặng thực hiện chủ nghĩa cộng sản".

Sau khi thành lập, Hội đã phái người về nước để tuyển người sang dự các lớp huấn luyện ở Quảng Châu hay gửi sang học tại Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Đồng thời, Hội tiến hành lập các chi bộ các cấp ở trong nước; xuất bản báo Thanh niên, Lính Cách mệnh; tuyển người đi học quân sự ở Liên Xô hoặc Hoàng Phố.

Về tổ chức, Hội cơ cấu 5 cấp từ Tổng bộ đến kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Năm 1927, các kì bộ được thành lập xong. Năm 1929, cơ cấu tổ chức được thiết lập và phát triển khắp đất nước, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - nin và trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu tranh chống Pháp.

Từ Hội Phục Việt đến Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn

Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên vốn là những cựu tù Côn đảo vì tham gia các phong trào Duy Tân, Đông Du, Chống thuế Trung Kì…, ngay từ trong ngục tù các ông đã nung nấu khi ra tù sẽ tổ chức một tổ chức ái quốc. Sau khi ra tù, các ông đã liên hệ với các nhóm giáo viên ở Vinh, sinh viên các trường đại học ở Hà Nội để xúc tiến thực hiện ý định này. Ngày 14/7/1925, Lê Văn Huân đã cùng Trần Đình Thanh, Trần Phú, Tôn Quang Phiệt, Ngô Đức Diễn đã nhóm họp tại rú Con Mèo (Bến Thủy - Vinh) quyết định thành lập Hội Phục Việt. Hội tuy chưa phát triển rộng rãi, chưa có đường lối chính trị rõ ràng nhưng có tính cách là một tổ chức cách mạng có mục đích hoạt động xây dựng lại đất nước Việt Nam đã tác động đến tư tưởng của tầng lớp sĩ phu, trí thức, thanh niên yêu nước. Sau khi thành lập, Hội đã sớm cử Lê Duy Điếm sang Quảng Châu để liên hệ với Hội Thanh Niên của những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở đây. Sau đó Hội Phục Việt đã tiếp tục cử nhiều người sang tham dự các lớp huấn luyện của Thanh Niên và phần lớn trong số này đã ngả theo Thanh Niên.

Sau khi tổ chức vận động đòi thả cụ Phan Bội Châu và truy điệu cụ Phan Chu Trinh (3/1926), để tránh bị lộ, Hội đổi tên thành Hội Hưng Nam. Tiếp đó, để chuẩn bị cho việc sáp nhập với Hội Thanh Niên, đầu năm 1927, Hội lại đổi tên thành Việt Nam Cách Mạng Đảng (VNCMĐ). Do nhận thức sai lầm của một số lãnh đạo VNCMĐ, việc sáp nhập hai tổ chức chưa thực hiện được, để giữ được lực lượng quần chúng và thuyết phục Hội Thanh Niên, giữa năm 1927, VNCMĐ lại đổi tên thành Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội (VNCMĐCH). Sau đó, ngày 14/7/1928, VNCMĐCH đại hội tại Huế và đổi tên thành Tân Việt Cách Mạng Đảng. Tân Việt có Chương trình hành động, Điều lệ, các quy định về đảng viên, về tổ chức, kỉ luật, giáo dục, huấn luyện đảng viên, các tổ chức quần chúng của đảng. Tân Việt chủ trương: “Liên hiệp tất cả các đồng chí trong ngoài nước, trong thì dẫn đạo công nông binh, quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, đặng kiến thiết một xã hội bình đẳng, bác ái mới, cử hành chính trị cách mạng để đánh đổ chính phủ quân chủ, dựng nên chính phủ cộng hòa và xã hội, cử hành xã hội cách mạng để xóa bỏ giai cấp, kinh tế cách mạng để duy trì quyền sinh hoạt của con người…”. Tân Việt có hệ thống tổ chức 6 cấp từ Trung ương đến địa phương nhưng cho đến lúc kết thúc vẫn chủ yếu hoạt động ở khu vực Nghệ Tĩnh; dùng báo Tiếng Dân làm công cụ tuyên truyền.

Do sự phân hóa trong nội bộ, tháng 9/1929, phái tả của Tân Việt đã ra tuyên cáo giải tán Đảng Tân Việt và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn (trên một con đò ở Đò Trai - sông Mênh, chảy từ sông Lam vào Đức Thọ) để cùng với các tổ chức cộng sản khác “Liên hợp thành một tổ chức cộng sản ở xứ Đông Dương, để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất”.

Hai tổ chức - một phong trào đấu tranh yêu nước

Từ giữa năm 1928 trở đi, Hội Thanh Niên và Hưng Nam/Tân Việt đã có cơ sở đều khắp xen kẽ nhau ở trong các nhà máy, trường học, công sở và cả vùng nông thôn. Vinh - Bến Thủy là địa bàn trọng yếu của cả hai tổ chức. Sự phối hợp hành động giữa hai tổ chức này khá chặt chẽ. Ngày 15/3/1927, hai tổ chức phối hợp kỉ niệm 1 năm ngày mất của cụ Phan Chu Trinh; Đầu năm 1928, phát truyền đơn tố cáo và vận động Hoa kiều gửi thư, điện phản đối Chính phủ Tưởng Giới Thạch khủng bố cán bộ cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu; Ngày 14/4/1928, công nhân hãng SIFA biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ lệ cúp phạt, ngược đãi…Ngày 02/6/1928, học sinh và Nhân dân phá hiệu buôn nước ngoài vì hành hung phụ nữ người Việt, buộc chính quyền phải xử phạt và trục xuất chủ hiệu buôn.

Sang năm 1929, phong trào lan rộng sang cả hàng ngũ học sinh, bà con tiểu thương và nông dân. Ngày 16/5/1929, công nhân Nhà máy Trường Thi bãi công vì lính Pháp khủng bố. Học sinh Quốc học Vinh rải truyền đơn phản đối giáo viên người Pháp miệt thị học sinh người Việt và cấm tham gia các phong trào yêu nước. Nông dân nhiều nơi phản đối và tấn công Tây đoan và lính thương chính đi thu thuế.

Nhìn chung, vì cả hai tổ chức cùng có chí hướng song trùng nên trong quá trình hoạt động không xảy ra tình trạng công kích, tranh giành quần chúng lẫn nhau mà ngược lại có sự liên hệ, phối hợp khá chặt chẽ, nhịp nhàng và hiệu quả. Do ngay từ đầu Thanh Niên có tổ chức chặt chẽ bơn, chính cương rõ ràng hơn nên đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm nhiều của các lực lượng quần chúng, kể các thành viên của Hội Hưng Nam/Tân Việt.

Mặc dù cả hai tổ chức đều có mong muốn sáp nhập lại thành một tổ chức thống nhất từ khá sớm nhưng mãi đến cuối năm 1929 vẫn chưa thực hiện được vì sự bất đồng về phương thức sáp nhập. Thời kì đầu, Thanh Niên chủ trương sáp nhập thành viên tức là kết nạp các hội viên của Hưng Nam vào tổ chức của mình; ngược lại Hội Hưng Nam lại chủ trương sáp nhập tập thể, hai tổ chức thành một tổ chức thống nhất. Đến giai đoạn sau, năm 1928, trong khi Thanh Niên đồng ý sáp nhập tập thể thì trong nội bộ lãnh đạo Hưng Nam/Tân Việt có sự phân hóa, hình thành hai phái, một phái chủ trương kiên định theo xu hướng của Thanh Niên, đại diện là Phan Đăng Lưu và Hà Huy Tập; phái còn lại cho rằng ở Việt Nam chưa thể hình thành tổ chức Đảng Cộng sản mà chủ trương cải tổ hội theo xu hướng quốc gia chủ nghĩa, chỉ thành lập một Đảng “chung của Nhân dân”.

Từ Đông Dương Cộng sản Đảng đến Đảng Cộng sản Việt Nam và Tỉnh ủy lâm thời Nghệ An

Tháng 5/1929, Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội tổ chức đại hội toàn quốc tại Hồng Kông. Đoàn đại biểu Bắc Kì đề nghị giải tán Hội và thành lập Đảng Cộng sản nhưng bị phản đối nên đã bỏ ra về và đến ngày 17/6/1929 thì thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng (ĐDCSĐ). Tháng 9/1929, các thành viên tích cực của Tân Việt đã thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn (ĐDCSLĐ). Trước đó, tháng 8/1929, tại Sài Gòn, Tổng bộ Thanh Niên và Kì bộ Nam Kì đã quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng.

Tháng 6/1929, ĐDCSĐ cử Nguyễn Phong Sắc, Trần Văn Cung vào Nghệ An gặp Võ Mai/Quốc Hoa và lập ra kì bộ ĐDCSĐ ở Trung Kì, trụ sở ở Vinh. Kì bộ phát truyền đơn tuyên truyền vận động, ra báo Bôn Sê Vích (Trung ương ĐDCSĐ có báo Búa Liềm). Trong một thời gian ngắn, phần lớn các cơ sở của Thanh Niên chuyển thành các chi bộ cộng sản. ĐDCSĐ còn xây dựng các tổ chức quần chúng là Tổng Công Hội Nghệ An, Tổng Nông Hội Nghệ An, Tổng Sinh Hội Nghệ An.

Ngoài ra, trên địa bàn Nghệ An, vào năm 1929, còn có một số chi bộ cộng sản ở thành phố Vinh và Thanh Chương do Nguyễn Sỹ Sách thành lập theo chủ trương của Hội nghị trù bị tổ chức Đảng Cộng sản (5/1929) sau khi về nước.

Như vậy, đến cuối năm 1929, trên địa bàn có 2 tổ chức cộng sản (Kì Bộ Trung Kì của ĐDCSĐ, ĐDCSLĐ) và các chi bộ độc lập do Nguyễn Sỹ Sách tổ chức.

Phong trào cách mạng trong nước phát triển đòi hỏi phải có sự thống nhất lãnh đạo; sự ra đời của một đảng cộng sản để dẫn dắt phong trào là đòi hỏi bức thiết. Đệ tam Quốc tế cộng sản đã cử Nguyễn Ái Quốc trở lại Hồng Kông để thực hiện sứ mệnh này.

Ngày 03/02/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản được tiến hành tại Cửu Long (Hồng Kông), Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) được thành lập và thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngoài ra còn thông qua Điều lệ vắn tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Phản đế đồng minh và Hội Cứu tế.

Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Công sản Việt Nam đã phân công Nguyễn Phong Sắc - Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Xứ ủy Trung Kì ĐDCSĐ tại Trung Kì phối hợp với ĐDCSLĐ tổ chức hội nghị bầu Ban Chấp hành lâm thời Phân cục Trung ương ĐCSVN. Ngày 24/02/1930, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN ra Quyết nghị công nhận ĐDCSLĐ gia nhập ĐCSVN. Tháng 3/1930, Phân cục Trung ương lâm thời ở Trung Kì được thành lập, có trụ sở ở Vinh và Đà Nẵng. Phân cục Trung ương ở Trung Kì đã chỉ định hai Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ ĐCSVN tại Nghệ An là: i). Tỉnh bộ Vinh (bao gồm Vinh, Bến Thủy, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và thị xã Thanh Hóa) do Lê Mao phụ trách; ii). Tỉnh bộ Nghệ An (gồm các huyện còn lại của Nghệ An), do Nguyễn Liễn phụ trách.

Đồng chí Lê Mao

Việc hình thành các Đảng bộ ĐCSVN ở Nghệ An là kết quả của một quá trình chuyển hóa lâu dài cả về phương diện tư tưởng và tổ chức của rất nhiều lực lượng yêu nước và cách mạng, trong đó có vai trò tiếp nhận, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của tầng lớp trí thức. Trên nền tảng tinh thần đấu tranh yêu nước và cách mạng của các thế hệ thuộc nhiều giai tầng, sự phát triển của phong trào, chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã trở thành chất keo dính kết các tổ chức, các giai cấp thành một tổ chức cách mạng đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Các Đảng bộ ĐCSVN được thành lập là tiền đề có tính chất quyết định sự phát triển và thắng lợi của tiến trình cách mạng ở Nghệ An trong gần 100 năm qua./.

 

(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số Tết Ất Tỵ - Tháng 01/2025)

 

 

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114546884

Hôm nay

258

Hôm qua

2340

Tuần này

21450

Tháng này

217206

Tháng qua

1114325557

Tất cả

114546884