Biểu trưng của làng Ba Nghè hôm nay
Nguyên văn của “Bích Hào tứ kiệt” ấy là: Nhất Sỹ, Nhì Đình, Tam Kinh, Tứ Thái. Đây là 4 người trong vùng từng đỗ giải nguyên (đỗ đầu trong các kỳ thi hương). Trong đó nhất Sỹ là Nguyễn Sỹ Giáo, nhì Đình là Nguyễn Đình Cổn, tam Kinh là Phạm Kinh Vỹ, tứ Thái là Nguyễn Lâm Thái. Câu ca vừa nhắc được tên 4 người vừa nói đến các công việc, ước mơ của người học trò xưa là phải học tức là Sỹ; học giỏi để đi thi Đình; đỗ đạt làm quan ở Kinh; lập công danh để được ghi danh tại cửa Thái học của Văn miếu Quốc tử giám. Sau khi đỗ đầu trong các kỳ thi hương, cả “tứ kiệt” Bích Hào đều đã đi thi Hội, thi Đình và đều đỗ đạt thành những ông nghè với sự nghiệp lẫy lừng.
Tiến sỹ Nguyễn Sỹ Giáo (1638 - ?), người xã Mi Sơn (sau này là Thanh Mai) huyện Thanh Chương, nay là xã Bích Hào tỉnh Nghệ An, sinh ra trong một gia đình Nho giáo, có bốn anh em ruột đỗ Hương cống và đều được bổ làm Giám sinh Quốc Tử Giám, nhưng ông là người nổi tiếng nhất. Nguyễn Sỹ Giáo thi Hương đỗ đầu khoa. Năm 1664, thi Đình đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn đời Lê Huyền Tông. Ông làm quan giữ các chức Thiêm đô ngự sử (1676), Hàn lâm Thị độc trông coi việc soạn thảo những chế, cáo, chiếu, chỉ của vua. Sau đó là các chức vụ: Bồi tòng Ngự sử đài Đô ngự lại, Hiến sát sứ, Đề hình, An Nhân tử…giữ việc giảng đọc thư sử, giảng giải kinh nghĩa cho vua nghe và thường được nhà vua hỏi ý kiến khi bàn chính sự. Cuối đời ông được đặc phong: vinh lộc đại phu, ban thụy chất trực và được hưởng lệ định phong ấm cho tôn thất. Theo sách Nghệ An ký của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch: “lúc tuổi cao ông xin về trí sĩ rồi mất ở quê nhà, dân xã lập đền thờ tự, tiền triều tặng sắc văn”.
Tiến sỹ Nguyễn Đình Cổn (1652-1685), còn gọi là Nguyễn Đình Nhượng, sinh năm 1652 tại xã Bích Triều, huyện Thanh Chương, nay là xã Bích Hào, tỉnh Nghệ An. Lúc còn nhỏ Nguyễn Đình Cổn đã có tướng mạo khôi ngô, nổi tiếng thông tuệ, có tài đối đáp sáng suốt hơn người. Năm 1667, niên hiệu Cảnh Trị thứ 5, mới 15 tuổi ông đã đỗ Giải Nguyên nhưng chưa đủ tuổi để làm quan. Năm Bính Thìn (1676), đời vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị năm thứ nhất, Nguyễn Đình Cổn tiếp tục đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân lúc 25 tuổi. Cùng năm đó, triều đình lại mở khoa thi Tư khoa Đông các Tiến sỹ, Nguyễn Đình Cổn đỗ hàng thứ ba, được sung Đông các hiệu thư. Nhiều sử sách chép rằng: “Ông là người cao minh tài trí hơn người. Trong một năm đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân và Đông các Tiến sỹ. Hai lần bái tổ vinh quy. Người như thế xưa nay hiếm có”. Vua Lê ban thưởng ông năm chữ vàng “Nhất niên lưỡng vinh quy” (Tạm dịch: Một năm hai lần vinh quy bái tổ). Lần bái tổ vinh quy thứ nhất, Nguyễn Đình Cổn được hàng tổng rước theo đường Nam Đường (Nam Đàn trước đây, ở phía tả ngạn Sông Lam) về quê (phía bên hữu ngạn). Lần thứ hai, hai tổng Bích Hào và Thổ Hào phải mở con đường mới từ núi Cơ Sơn (thuộc xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn, nay là xã Thiên Nhẫn, tỉnh Nghệ An) để rước. Theo mô tả, đây chính là tuyến đường sau này thành đường tỉnh lộ 533 (nay là QL 46c). Sau khi đỗ đạt ông được chúa Trịnh Tạc cử làm Giám sát Ngự sử đạo Lạng Sơn. Năm 1676 ông được Đặc tiến gia phong đại phu - Thiêm đô Ngự sử. Năm Chính Hòa thứ 6 -1685 (tức năm 24 đời vua Khang Hy nhà Thanh) được cử làm chánh sứ cùng phó sứ Nguyễn Tiến Tài (cũng là một danh nhân cùng xã) đi sứ nhà Thanh. Ông mất trên đường đi sứ khi mới 33 tuổi. Vua Lê Hy Tông cử hành lễ nghi trang trọng, đưa về quê, sức phát cho các quan thân, văn võ rước, đón, an táng thi hài ông ở Cồn Lăng. Vua Lê truy tặng ông 3 chữ “tử vì quốc” và chức “Tả thị lang bộ Hình, Đông triều Nam tước", giao cho dân huyện lập đền thờ phụng. Nhiều sử sách lưu giữ tên ông như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt lịch triều đăng khoa, Lịch triều đăng khoa bị khảo, Nghệ An ký, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Việt sử ký tục biên...Ông có tên trong văn bia ở Văn miếu Quốc tử giám và Văn miếu đình Võ Liệt huyện Thanh Chương. Tên ông đã được đặt cho một tuyến đường ở khối 13, phường Trung Đô, thành phố Vinh (trước đây), nay là phường Trường Vinh, tỉnh Nghệ An và một tuyến đường ở Thị trấn Thanh Chương (trước đây).
Tiến sỹ Phạm Kinh Vỹ (1691-1758) sinh ngày 16/9/1691 tại xã Thổ Hào, huyện Thanh Chương, nay là xã Bích Hào, tỉnh Nghệ An. Từ lúc còn nhỏ “đã có tướng mạo đường hoàng và ham đọc sách”. Năm 1708, ông đỗ Tam Trường. Đến năm 1714, tại kỳ thi Hương khoa Giáp Ngọ dưới triều Vĩnh Thịnh năm thứ 10, ông đỗ Giải nguyên. Mười năm sau, vào năm 1724, ông tiếp tục đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi Giáp Thìn, dưới thời vua Lê Dụ Tông. Năm Canh Thân (1740), vua thăng cho ông chức: Hiệu thảo giám sát ngự sử các đạo Sơn Nam, Tuyên Quang và lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng. Là người văn võ toàn tài Phạm Kinh Vỹ làm quan qua 5 đời vua gồm: Lê Dụ Tông, Lê Duy Phường, Lê Thuần Tông, Lê Ý Tông và Lê Hiển Tông. Tước vị cao nhất của ông là Tòng tam phẩm Bồi tụng, Đổng lý Cơ mật viện Đại thần. Ông mất tại quê nhà vào ngày 22 tháng 1 năm 1758, thọ 68 tuổi. Thi hài ông được chôn cất trong vườn nhà. Bên cạnh nhà thờ hiện còn lưu giữ phần mộ của ông cùng phu nhân chính thất. Sau khi mất, ông được dựng bia tại Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Ngoài sự nghiệp chính trị lẫy lừng, Phạm Kinh Vỹ còn là cha đẻ - người đưa một loài sâm quý về trồng tại quê hương và được gọi là sâm Thổ Hào. Có tài liệu ghi rằng: vào khoảng những năm 1742-1743, trong một chiến dịch tiễu trừ quân phản loạn ở vùng biên giới, tướng quân Phạm Kinh Vỹ và quân lính gặp phải tình trạng dịch bệnh, sức khỏe suy giảm. Lúc đó, theo lời mộng báo, ông đã được hướng dẫn tìm kiếm một loài sâm có khả năng hồi phục sinh lực cho quân sỹ. Sau khi tìm được và sử dụng loài sâm này, khi trở về quê, ông đã mang theo về trồng trên đất Thổ Hào. Qua thời gian, loài sâm này vẫn đang được trồng phổ biến tại một số địa phương trong vùng Bích Hào, và vùng Hưng Nguyên, Hà Tĩnh đưa lại nhiều giá trị kinh tế - xã hội…

Mộ Đại khoa Tướng công Phạm Kinh Vỹ
“Tứ kiệt” cuối cùng trong danh sách được truyền tụng của đất Bích Hào là Tiến Sỹ Nguyễn Lâm Thái. Ông sinh năm 1686, mất năm 1743. Sinh thời ông là người thông minh nhanh nhẹn, học giỏi. Ông đậu tiến sỹ năm 1739 làm quan đến chức “hàn lâm viện thị chế”. Có một tài liệu là Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Kỷ Mùi (1739) do Hàn lâm viện Thừa chỉ Bạch Phấn Ưng vâng sắc soạn, có đoạn: “Mùa Xuân tháng 3 năm Kỷ Mùi tổ chức thi Hội cho các cống sĩ trong nước. Lúc bấy giờ, số người dự thi có đến 3.000 người. Viện quan tâu chọn được hạng xuất sắc là bọn Nguyễn Lâm Thái và 8 người khác...”. Điều này chứng tỏ ông là người xuất sắc nhất khoa thi. Nguyễn Lâm Thái mất năm 58 tuổi do bệnh tình. Sau khi ông mất, triều đình nhà Lê và Phủ Chúa đã sức cho địa phương sở tại và dòng họ xây cất phần mộ, đền miếu để thờ phụng. Trong sắc phong các triều đại phong kiến đều ca ngợi công đức: “bề trên thì tuyệt đối trung thành với triều đình, bên dưới thì vỗ yên dân chúng, là người cương trực, liêm chính hiếm có”. Sau này vào năm 1891, vua Thành Thái đã ban tiếp đạo sắc phong thần cho ông với tước vị: “dực bảo trung hưng, chi thần”. Đến năm 1924 vua Khải Định tiếp tục phong tiếp một đạo sắc, truy phong là: “đoan túc dực bảo trung hưng gia quang ý thượng đẳng tôn thần”.
Như vậy là không hổ danh với sự tôn vinh, đánh giá của dân gian, cả bốn “tứ kiệt” của Bích Hào đều đã đỗ đạt cao, công thành danh toại. Ngoài “tứ kiệt”, vùng đất này còn có nhiều người cùng đỗ đạt. Theo thống kê trong thời phong kiến cả huyện Thanh Chương có 15 người đỗ đại khoa thì riêng Bích Hào đã có 8 người. Trong đó xuất sắc nhất là Tiến sỹ Nguyễn Tiến Tài. Để tri ân và ghi nhớ công đức, tất cả các vị đại khoa đều được nhà nước, dân làng và dòng họ lập đền thờ, tôn làm thành hoàng thờ cúng quanh năm. Nhà, đền, miếu thờ, phần mộ của họ cũng đã được Nhà nước và ngành Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa. Riêng nhà thờ Tiến sỹ Nguyễn Tiến Tài được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Tên, họ các vị cũng đều được chọn để đặt tên đường ở thành phố Vinh và Thị Trấn huyện Thanh Chương (trước đây).

Nhà thờ Tiến sỹ Nguyễn Tiến Tài - Di tích lịch sử cấp quốc gia tại xã Bích Hào
Ngoài sự nổi tiếng về học hành đậu đạt, do là người cùng làng xã nên các vị đều vinh quy bái tổ trên một con đường, một bến sông. Trong đó bến sông mà những “tứ kiệt” đất Bích Hào rời làng ra đi, trở về trong vinh hiển được gọi là bến Ba Nghè. Ba vị tiến sỹ này chính là Nguyễn Tiến Tài (đăng khoa năm 1664), Phạm Kinh Vỹ (đăng khoa năm 1724) và Nguyễn Lâm Thái (đăng khoa năm 1739).

Bến Ba Nghè tại xã Bích Hào, Nghệ An
Bến Ba Nghè thuộc dòng Hói Nậy, khởi nguồn từ các xã giáp biên giới Việt - Lào và hợp lưu với sông Lam tại cuối làng Ba Nghè. Dấu tích bến Ba Nghè vẫn còn hiện hữu, là doi đất nhô ra phía hữu ngạn và làng có bến Ba Nghè cũng được đặt tên là làng Ba Nghè. Những tên gọi dân dã nhưng chứa đựng biết bao niềm tự hào về truyền thống hiếu học của một làng quê.
Tiếp nối mạch nguồn hiếu học của các bậc tiền nhân, con cháu Ba Nghè ngày nay đang ra sức bồi đắp cho truyền thống ấy. Theo một thống kê sơ bộ, tuy là làng nhỏ nhưng Ba Nghè hiện có trên 50 người có bằng đại học, trên 10 người có bằng thạc sỹ và 6 người có bằng tiến sỹ. Để khuyến khích sự học, người dân ở đây luôn truyền đời về sự tích “tứ kiệt” và sự tích bến Ba Nghè. Cấp ủy chính quyền địa phương và làng đã xây dựng được quỹ khuyến học, trao thưởng cho các em có thành tích học tập tốt vào dịp Tết Trung thu. Các dòng họ cũng đều vận động xây dựng nguồn quỹ này để động viên con cháu cố gắng vươn lên trong học tập. Người Ba Nghè quan niệm, thành công của một người không chỉ là niềm vui của gia đình, mà của cả dòng họ và làng xã.
Con cháu thành đạt đều trở về góp phần xây dựng từ đường, khuôn viên của dòng họ và các công trình nông thôn mới để quê hương ngày một khang trang, bề thế. Một số người đang có dự định vận động những người con quê hương thành đạt chung tay khôi phục lại bến Ba Nghè giống như ngày trước. Ý tưởng này nếu trở thành hiện thực sẽ bồi đắp thêm truyền thống hiếu học của quê hương, giữ gìn câu ngạn ngôn về “Bích Hào tứ kiệt” và bến Ba Nghè. Chắc chắn rằng nơi đây sẽ là điểm dừng chân của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội và du khách gần xa...
TĐH.
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số 19 - Tháng 11/2025)