
Đền Quan giáo
Nguyễn Lâm Tuấn quê ở xã Thổ Hào, tổng Thổ Hào, huyện Thanh Chương (nay là xã Bích Hào, tỉnh Nghệ An). Ông sinh khoảng đầu thế kỷ XVIII, trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, cha, chú, bác đều là những bậc túc nho đại khoa (cha đậu Hương cống, bác đậu Tiến sĩ, chú đậu Tam tràng - tương đương Phó bảng thời Nguyễn). Được thừa hưởng sự giáo dục ấy nên từ nhỏ ông Nguyễn Lâm Tuấn đã nổi tiếng là người thông minh, hay chữ, hiểu sâu biết rộng. Nói về tài năng của ông, gia phả dòng họ có đoạn chép “thiếu tập bá phúc phụ chi giáo huấn, văn chương cơ trữ, đắc tự gia truyền, nghĩa lý uyên nguyên truyền vi thế phạm. Phương kì thiếu thời, thức gia hàm viết: giáp khôi môn địa, phục xuất tài hoa” (nghĩa là: lúc nhỏ được sự giáo huấn của cha, chú, bác nên văn chương lỗi lạc. Được tiếp nối truyền thống của gia đình, nghĩa lý thâm uyên truyền đời làm khuôn mẫu. Khi (ông) còn nhỏ, những bậc thức giả thường nói rằng: nhà khoa bảng sinh con tài hoa xuất chúng).
Khoảng niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786), đời Lê Hiển Tông, ông thi Hương trúng Giải nguyên Hương cống. Năm sau, ông dự thi Hội và đậu Tam tràng, được tuyển vào làm Giám sinh trường Quốc tử giám ở Thăng Long. Sau đó, liên tiếp nhiều khoa thi Hội, ông đều trúng Tam tràng và được bổ làm chức nho học Huấn đạo phủ Gia Hưng, trấn Sơn Tây, sau thăng làm Giáo thụ. Ông là một học quan có kiến thức uyên bác, tư cách mẫu mực, làm khuôn vàng thước ngọc chốn cửa Khổng sân Trình. Học trò của ông nhiều người thành danh. Ông còn sáng tác rất nhiều thơ phú nhưng tiếc là cơ bản bị thất lạc, đến nay chỉ còn bài “vịnh Tây uyển” lưu lại trong gia phả.
Nguyễn Lâm Tuấn vốn tính cương trực, lại hào hoa phong nhã, thích giao du bạn bè, có tài “cầm kỳ thi tửu”, trong đó, nổi tiếng nhất là tài chơi cờ tướng. Lúc này, “khi vui chén rượu cuộc cờ, khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên” được coi là sinh hoạt văn hóa tao nhã của tầng lớp trí thức đương thời. Trong giới tri thức ấy, Nguyễn Lâm Tuấn nức tiếng là người chơi cờ cao tay. Khi chơi cờ, dù tay ôm đàn Cầm, tay bầu rượu nhưng ông vẫn khiến đối thủ phải kinh ngạc bởi lối chơi uyển chuyển, khéo léo và bất ngờ làm cho đối thủ trở tay không kịp. Chính nhờ tài chơi cờ tướng mà ông đã giải cứu cho anh ruột khỏi vòng lao lý.
Chuyện kể rằng: Lúc bấy giờ, anh cả của ông là quan Thiếu Khanh chơi đấu cờ với quan Thượng quận công và bị thua liền mấy ván, nợ tới hàng ngàn quan tiền. Quan Thiếu Khanh lúng túng, liền giục nhạn đưa thư, nhắn em về kinh cứu giúp. Nguyễn Lâm Tuấn sắm sửa hành trang lên đường giúp anh. Tới kinh Đô, ông tự xưng là đầy tớ của quan Thiếu Khanh rồi tìm cớ vào đánh cờ hầu Thượng quận công. Ông đã đánh thắng, gỡ được nợ cho quan Thiếu Khanh và còn thắng thêm được 3, 4 ván. Thượng quân công vô cùng ngạc nhiên và thốt lên rằng “tài đánh cờ của ta xưa nay không ai sánh kịp sao nay lại bị khốn thế này?” Lúc đó, ông mới chấp tay xin lỗi Thượng quân công và thú thật: “tôi là Ba tràng Tuấn, em ruột quan Thiếu Khanh, nghe tin anh bị thua cờ mắc nợ nên phải vờ làm đầy tớ để giúp anh, nay xin lỗi thật với quan lớn.” Thượng quận công biết ông Tuấn học rộng, cờ giỏi nên kết bạn để có dịp cùng các quan trong triều cùng nhau tranh tài.
Lúc bấy giờ, chúa Trịnh nghe tiếng Nguyễn Lâm Tuấn cao cờ bèn triệu ông vào phủ hầu cờ. Ông đánh cờ với chúa, chúa thua liền liên tiếp nhiều ván, khiến chúa phải thốt lên “Rượu mơ, cờ Tuấn” (ngon nhất là rượu làng Mơ, giỏi cờ nhất nước Nam là ông Tuấn), như một sự ghi nhận tài năng đặc biệt của vị học quan này. Người đương thời đều khen ông là cao thủ: “Trường An nhiều nhất mã, thiên hạ cự song xa” nghĩa là các kỳ tài ở kinh kỳ ông chấp một “mã”, người trong thiên hạ ông chấp cả hai “xe”. Lúc bấy giờ, nhiều người nghe tiếng ông hay cờ, cũng đến xin thách đấu, so tài, trong đó có cả tên lái buôn người Trung Hoa xảo quyệt nhưng đều bị thất bại trước tài năng xuất chúng của ông.
Cả đời ông Giáo Tuấn gắn liền với chức học quan và sự nghiệp đào tạo nhân tài, không màng đến danh lợi mà chỉ mong bền chí chấn chỉnh quần cương. Ông mất ngày mồng 6 tháng 9 (không rõ năm), mộ táng tại xứ Đầu Pheo. Sau khi ông mất, để tưởng nhớ một con người đức độ, tài hoa và những cống hiến của ông đối với quê hương đất nước, học trò, Nhân dân và con cháu đã lập đền thờ ông ở trong vườn cũ. Đền thờ ông được gọi là đền Quan Giáo (lấy theo tên chức danh của ông lúc làm quan: Giáo thụ). Năm Khải Định thứ 2 (1917), ông được sắc phong là “Hiển Minh Linh Ứng, Dực bảo Trung hưng, Linh phù Tôn thần” giao cho xã Thổ Hào, huyện Thanh Chương phụng sự. Đền thờ ông rất linh thiêng, Nhân dân trong vùng đến cầu đảo nhiều việc như cầu tự, cầu thi, xin bùa, xin thuốc, cầu bình an... đều linh ứng nên khách qua lại lễ bái rất đông. Cùng với Nhà thờ họ Nguyễn Lâm Trung chi hai, đền Quan Giáo đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh.
Như vậy, dấu ấn của Nguyễn Lâm Tuấn để lại trong lịch sử tương đối đặc biệt, là vị quan được triều đình phong kiến trọng dụng, được bạn bè đồng liêu nể trọng, quý mến, có nhiều đóng góp cho triều Lê Trung hưng không chỉ vì học vấn uyên thâm mà phần lớn lại thông qua tài năng chơi cờ xuất chúng. Ông cũng là minh chứng khẳng định mảnh đất Nghệ An “địa linh nhân kiệt”, thời kỳ nào cũng có những tài nhân góp phần xây dựng quê hương, đất nước thông qua nhiều con đường, phương thức khác nhau./.