I. “ ĐẾN HIỆN ĐẠI TỪ TRUYỀN THỐNG” - độc lập đặc hành với một tư tưởng nhất quán
Đọc các bài viết của ông trong Tuyển tập, đặc biệt là Đến hiện đại từ truyền thống, có thể nhận thấy một cách nhìn và quan điểm nhất quán. Điều này chính ông cũng khẳng định khi viết tựa cho cuốn sách : “ … tư tưởng chung là nhất quán, từng bài một nói rõ một vấn đề…”[1]. Cái nhất quán đó theo tôi có thể gọi là cách nhìn, là mô thức tư duy “ Đến hiện đại từ truyền thống”. Cũng không phải ngẫu nhiên ông chọn nó làm tên của cuốn sách. Vấn đề là nội hàm của quan điểm này như thế nào, nó được thể hiện ra sao trong nội dung cuốn sách cũng như có vị trí như thế nào trong tổng thể tư tưởng và trước thuật của ông.
Trước khi bàn tới tư tưởng “ đến hiện đại trừ truyền thống” của Trần Đình Hượu, cần điểm qua một vài quan điểm về truyền thống và hiện đại, đặc biệt là quan hệ giữa truyền thống và hiện đại nổi bật ở Đông Á thế kỷ XX, đây là vấn đề có tính chất bối cảnh và nền tảng để qua đó có thể thấy cái đặc sắc trong quan niệm của Trần Đình Hượu.
Thế kỷ XX chứng kiến những bước chuyển và sự đổi thay sâu sắc và toàn diện của các dân tộc phương Đông. Đó cũng cính là quá trình hội nhập của phương Đông với thế giới mà dòng chủ lưu là Âu Mỹ. Đó là quá trình mà các nước phương Đông thay đổi hoặc tự nguyện, hoặc cưỡng bức theo dòng chảy chung của nhân loại. Sự thay đổi và khác biệt quá lớn của các quốc gia phương Đông trong thời kỳ hiện đại với thời kỳ trước thế kỷ XX khiến nhiều người cho rằng đã có sự đứt gãy về văn hóa, có sự gián đoạn giữa truyền thống và hiện đại. Nhưng lại cũng có quan điểm cho rằng, dẫu sự thay đổi về các phương diện xã hội diễn ra mạnh mẽ và sự khác biệt có lớn tới đâu thì truyền thống và hiện đại cũng vấn là dòng chảy liên tục không ngừng nghỉ, không gián đoạn.
Lịch sử tư tưởng thế kỷ XX về một phương diện nào đó có thể xem là lịch sử đấu tranh, cọ xát, giữa hai dòng mạch tư tưởng: dòng truyền thống và phản truyền thống. Những người chủ trương cần phải thay đổi quá khứ, cần phải thoát ra khỏi ảnh hưởng của tư tưởng truyền thống, của Nho giáo, một loại tư tưởng phong kiến, cổ hủ để hội nhập và đi vào hiện đại. Muốn hiện đại hóa triệt để phải thanh toán những ảnh hưởng của quá khứ, đặc biệt là Nho giáo để thoát Á, thoát Nho. Cần khơi dòng mới cho tân chính trị và văn hóa, khai dòng cho xã hội mới. Dòng mạch phản truyền thống này bắt đầu từ thời kỳ Tân văn hóa vận động ở thập kỷ thứ hai và ba của thế kỷ XX và được nhân lên theo một cách thức khác trong cách mạng Văn hóa thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Cũng chính từ trong không khí phản truyền thống, phê phán Nho giáo, phê phán chuyên chế và lễ giáo, đã hình thành dòng tư tưởng kế thừa di sản quá khứ, phát huy các giá trị mà họ cho là tích cực, tinh hoa của Nho giáo, của truyền thống để không xảy ra đứt gãy về mặt giá trị văn hóa. Đó là dòng của các học giả Tân Nho gia, những người hô hào “ vị vãng thánh kế tuyệt học”, khơi dòng mới và hiện đại hoa cho chính tư tưởng của Nho gia.
Cả hai dòng truyền thống và phản truyền thống đề đồng thời dẫn tới một quan điểm coi Nho giáo là cốt lõi, là trục tâm của tư tưởng và văn hóa Trung Quốc và văn hóa Đông Á. Một dòng nhận diện cốt lõi để phê phán loại trừ thanh toán cho bằng được và một dòng khẳng định cốt lõi để cố bảo vệ, còn Nho giáo thì còn bản sắc của văn hóa Trung Quốc, không còn Nho giáo thì không còn bản sắc Trung Quốc. Phái truyền thống nhiệt tâm điều chỉnh học thuyết Nho giáo, gắng dung hòa nó với tự do, dân chủ, bình đẳng và cá nhân- những giá trị cốt lõi của hiện đại hóa mà vốn dĩ đối với Nho giáo như nước với lửa[2].
Trần Đình Hượu nhiều lần khẳng định rằng, cái từng tồn tại trong quá khứ, người ta tưởng đã thanh lý, gột sạch được nó thì nó vẫn cách này hay cách khác còn tồn tại, còn ảnh hưởng, nó có thể thay đổi, biến thiên, thậm chí là biến tướng nhưng không mất đi. Yếu tố truyền thống được tiếp tục, vẫn duy trì và tiếp nối trong hiện đại là một thực tế khách quan. Ông cũng khẳng định trong các yếu tố của truyền thống, Nho giáo là thành tố quan trọng nổi bật nhất.
Nhìn thoáng qua về mặt hình thức thì ta thấy Trần Đình Hượu giống tân Nho gia, tức khẳng định truyền thống và hiện đại là dòng liên tục, Nho gia không chết, không mất đi, không xếp vào một chỗ như những tử vật câm lặng trong bảo tàng mà tiếp tục tồn tại, tiếp tục ảnh hưởng, tiếp tục sống. Truyền thống và hiện đại là một chuổi liên tục, có phủ định nhưng có kế thừa và phát triển. Truyền thống hiện diện trong hiện đại và hiện đại xây dựng trên nền tảng của truyền thống. Mặc dù khẳng định hiện đại cần có xuất phát từ truyền thống, nhưng Trần Đình Hượu khác cả hai phái truyền thống và phản truyền thống đã và đang còn ảnh hưởng ở Trung Quốc và các nước và khu vực Đông Á khác. Cách đặt vấn đề đến hiện đại từ truyền thống đã là sự khác biệt với dòng phản truyền thống, nhưng Trần Đình Hượu lại giống các nhà Tân văn hóa ở sự nhiệt thành với hiện đại, sự chào đón với tự do dân chủ của Tây phương. Nhưng ông không coi truyền thống là cái gì đó có thể thanh toán giản đơn, cơ giới, một chiều. Ông không coi truyền thống Nho gia là sản phẩm có thể thanh toán một cách dễ dàng. Trần Đình Hượu cũng khác Tân Nho gia ở điểm, Tân Nho gia lấy truyền thống và lấy Nho giáo làm bản vị, là phái vị truyền thống, phái làm mới Nho giáo để thích nghi với xã hội hiện đại, một thực tế không thể chối bỏ được. Họ thay đổi Nho gia để Nho gia tồn tại mãi. Trần Đình Hượu thừa Nhận Nho còn tồn tại, nhưng ông lại lấy chỗ đứng và bản vị ở xã hội hiện đại, vì mục tiêu hiện đại mà nhìn nhận Nho gia, để xem cái gì là cản trở, cái gì có thể lợi dụng, cái gì cần thanh toán. Cùng một trục kết nối truyền thống và hiện đại, nhưng Trần Đình Hượu và Tân Nho gia mỗi bên đứng ở một đầu khác nhau và cùng quan chú đặc biệt tới Nho giáo. Tân Nho nhập thân vào Nho, họ là chủ thể tư tưởng mới của học phái Nho gia. Còn Trần Đình Hượu coi Nho giáo là một khách thể để nghiên cứu, cũng có sự chiêm nghiệm, thể nghiệm bản thân nhưng đó là một công việc nghiên cứu cần thể nghiệm mà không phải vai trò chủ thể tư tưởng.
Trong cách nhìn của Trần Đình Hượu, “ HIỆN ĐẠI” là phạm trù quan trọng nhất, là cái cần có của xã hội và là đích con người, và các dân tộc phương Đông cần hướng tới trong thời đại thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Ông đặc biệt nhiệt thành và quan tâm tới mục tiêu hiện đại và quá trình hiện đại hóa, thậm chí có thể coi đó là một lý tưởng quán xuyến và xuyên suốt. Ông đề cao nó với những giá trị cốt lõi, đặc trưng là dân chủ, tự do, nhân cách cá thể độc lập được thừa nhận và phát triển, là đô thị hóa, là xã hội tổ chức theo hình thức nghiệp đoàn ( xã hội hóa, xã hội dân sự). Trong các bài viết của ông, các vấn đề tự do, dân chủ được đề cập tới rất nhiều, chúng được đặt trong sự đối lập với bộ ba: thể chế chuyên chế phương Đông; làng họ, hộ gia đình kết hợp công nông thương và con người tiểu kỷ. Bản vị mà ông đứng là hiện đại. Khát vọng không ngừng nghỉ của ông là hướng tới hiện đạivới những đặc trưng cần có, thực chất, nhân văn, tiến bộ, dẫu với nhiều cách gọi khác nhau được ông nhắc tới.
Cái hiện đại như vậy không phải xuất hiện từ không trung, nó cũng không khởi đầu từ con số không. Nó tạo dựng trên nền của truyền thống. Truyền thống không phải tất cả cái gì thuộc về quá khứ. Trong cách nhìn của Trần Đình Hượu, truyền thống là những ổn định và còn đang hiện hữu và ảnh hưởng với các dạng thức khác nhau của đời sống hiện đại.
Với quan niệm về truyền thống, về hiện đại như vậy, có thể coi ông là nhà tư tưởng của thời ông và của tương lai. Cái ông đau đáu là hiện đại, đi vào hiện đại, tiến vào hiện đại, có được hiện đại một cách nhanh nhất, đúng nhất, ít trả giá nhất… bởi thời của ông con đường tới hiện đại còn quá cheo leo gập gềnh và người ta đang sống ở thời điện đại nhưng không hiểu đúng cả truyền thống lẫn hiện đại. Người ta đang không hiểu đúng cả xuất phát, mục tiêu và đường đi tới hiện đại.
Tư tưởng đến hiện đại từ truyền thống của Trần Đình Hượu khác với cả hai dòng lớn trong tư tưởng Đông Á, vừa khác với cách quan niệm về Nho giáo, về truyền thống, về hiện đại của các nhà nghiên cứu của Việt Nam suốt mấy thập kỷ cả trước và sau Đổi mới. Ông độc lập đặc hành trên con đường tư tưởng riêng của mình và đã đóng góp và thể hiện bằng chính cách thức ấy, con đường và cách thức ấy mang tên Trần Đình Hượu.
II. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG TƯ TƯỞNG
Mô thức tư duy “ Đến hiện đại từ truyền thống” là nhất quán, nhưng nó cũng có quá trình vận động qua một số chặng của tư tưởng và ở mỗi giai đoạn trong lộ trình nhận thức đó có sự chi phối nhất định của thời cuộc, có sự điều chỉnh qua từng giai đoạn. Có thể nhận thấy lộ trình tìm đường tới hiện đại của ông chia ra làm 3 giai đoạn khá rõ nét.
Giai đoạn đầu từ khoảng 1982 trở về trước. Đặc trưng tư tưởng của thời kỳ này thể hiện chủ yếu trong tiểu luận “Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo”[3]. Tiểu luận dài trên 50 trang này vốn được đăng tải lần lượt trên 3 số tạp chí Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, số 1,2 và 3 năm 1984. Bài viết này khi được tập hợp lại in trong “ Đến hiện đại từ truyền thống”, tác giả ghi thời gian viết nó là “ 4/5/1974 đến 19/8/1982). Đây là một lộ trình tư duy của ông và đó cũng chính là lý do tôi chọn thời điểm 1982 trở về trước làm một giai đoạn của sự nhận diện “ Đến hiện đại từ truyền thống”.
Trong giai đoạn này trước phong trào muốn quét sạch ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo tại Việt Nam và phong trào phê Lâm phê Khổng rầm rộ ở Trung Quốc, ông đã nhận thấy quan niệm về việc giải quyết ảnh hưởng của quá khứ của các phong trào đó đều không ổn, là sai lầm, ngộ nhận, ngộ nhận cả về truyền thống và cách thức giải quyết những vấn đề của truyền thống, đặc biệt là ngộ nhận về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo. Tiểu luận này có ý nghĩa nhận đường, ý nghĩa tuyên ngôn quan trọng. Trước hết ông nêu quan niệm về truyền thống, truyền thống không phải chỉ có vấn đề tinh thần yêu nước, anh hùng bất khuất, sản vật của lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc. Truyền thống gồm nhiều thành tố và kết cấu phức hợp trong đó có Nho giáo. Nho giáo cũng không phải đồng nhất với phong kiến bảo thủ lạc hậu, phản động cần quét và quét một cái là xong. Ông cho rằng truyền thống, ( trong đó có Nho giáo) gắn với một cơ chế kinh tế- xã hội đặc định. Truyền thống gắn với chủ thể tính của nó là những mẫu người đặc định. Ông viết: “ Nho giáo ra đời và tồn tại gắn bó với một cơ chế kinh tế- chính trị- xã hội, biểu hiện tập trung là nhà nước chuyên chế phương Đông. Cơ chế đó lựa chọn Nho giáo, một mặt, vạch ra con đường phát triển, mặt khác, tạo ra một cuộc sống. Bị điều kiện hóa trong đó, con người không chỉ buộc phải thích ứng mà còn tự lựa chọn Nho giáo, sống thành những mẫu người đặc định: vua, quan, lại, hào, cường, thân sĩ, nhà nho, nông dân tiểu kỷ… Khi cơ chế làm môi trường xã hội đó chưa thày đổi căn bản thì con người vẫn tự động thích ứng theo nó, sống theo những mẫu người cũ, vẫn nghĩ, vẫn sống theo cách Nho giáo hóa. Có nhiều người tự coi là rũ sạch ảnh hưởng Nho giáo, lên án Nho giáo kịch liệt, nhưng vẫn sống và vẫn nghĩ rất “ Nho”. Nhưng trong thực tế như vậy, Nho giáo không chỉ là còn, mà tư tưởng mới từ ngoài vào cũng bị Nho hóa; ở một chỗ nào đó, Nho giáo được coi là bị quét sạch thì nó vẫn có khả năng tái sinh.”[4]
Đây là giai đoạn mà ông chủ trương cần hiểu đúng truyền thống, hiểu đúng quá khứ, hiểu đúng cái quá khứ đang chi phối, đang hiện hữu, đang ảnh hưởng, cái quá khứ còn ảnh hưởng còn tồn tại mới là truyền thống. Muốn hiểu quá khứ không thể không hiểu Nho giáo, cần “ cắm những tiêu vè” để không lệch đường và ngộ nhận. Ông cho rằng có hiểu đúng được Nho giáo, có hiểu đúng sự tồn tại dai dẳng và biến hóa của nó thì mới thanh toán được nó, mới hết nợ với quá khứ. Với mục tiêu đó, ông tập trung tư duy và đặt vấn đề về các dạng tồn tại, ảnh hưởng của Nho giáo trong quá khứ. Chính cố gắng này đã đưa ông tới việc đưa ra một cách nhìn mới mẻ, toàn diện, hiện thực đối với Nho giáo mà trước ông chưa ai có được. Ông đã vạch ra con đường để hiểu Nho giáo trong truyền thống một cách toàn diện nhất và gần nhất với chính nó. Ồn đã đóng góp về phương diện quan điểm nghiên cứu, quan điểm nhận diện và phương pháp luận để nghiên cứu khách quan đối với Nho giáo.
Giai đoạn này ông nhìn thấy quan hệ khăng khít, chạt chẽ giữa truyền thống và hiện đại. Chặng đường là chặng đầu tiên khẳng định bản vị là hiện đại, hình thành mô thức đến hiện đại tù truyền thống, ông nhận thấy hiện đại không tách rời truyền thống, hiện đại chịu sự dan díu với quá khứ và bị quá khứ chi phối. Truyền thống hiện hữu trong hiện đại, trên con đường đi vào hiện đại có chi phối, thậm chí làm lệch đường đi, làm biến thiên đường đi. Muốn đến hiện đại thì phải thanh toán được quá khứ, muốn vậy phải hiểu đúng, mới cắt được sự níu kéo của truyền thống, mới không bị trượt vào rãnh mòn của quá khứ và đi nhanh về hiện đại. Ông viết: “Tôi hình dung một con đường lịch sử mà bước đi ban đầu chi phối định hướng những bước sau. Con người bị điều kiện hóa trong môi trường xã hội, trong ý thức hệ truyền thống, ra sức vươn lên phía trước, có khi tưởng mình đã hết nợ với quá khứ lại đẩy bánh xe trượt vào rãnh mòn của quá khứ! Với truyền thống văn hóa phương Đông mà tôi xác định là chịu ảnh hưởng chủ yếu của Nho giáo, tôi chỉ thấy sức mạnh níu kéo trở ngại cho sự phát triển”[5] Sự ám ảnh của chủ nghĩa Mao, con đường Cách mạng văn hóa và sự ảnh hưởng tiêu cực của quá khứ tới sự hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội phương Đông kiểu Trung Quốc đã có tác động tới quan điểm nêu trên của ông.
Có thể nói trong dòng vận động phê Nho, phản truyền thống mạnh mẽ của thập kỷ 60- 70 một cách cực đoan và giản đơn, ông đã thể hiện sự kiến giải riêng của mình, cảnh tỉnh giới nghiên cứu về sự ngộ nhận, đưa ra các tiêu chí riêng để nhận diện Nho giáo và vị trí của nó trong truyền thống. Nó cho thấy sự độc lập cho kiến giải và bản lĩnh tư tưởng và khoa học của ông. Dẫu trong giai đoạn này, ông chỉ nhìn thấy Nho giáo là cản trở, là sức mạnh níu kéo và trở ngại cho sự phát triển, nhưng chính đòi hỏi của suy niệm tìm đường hiện đại hóa đúng nghĩa và tinh thần mong muốn hiểu Nho giáo một cách khách quan như nó vốn có trong sự đa dạng và thực tiễn đã đưa ông tới một số điều chỉnh trong cách nhìn vào giai đoạn sau theo hướng mền dẻo linh hoạt hơn.
Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ những năm giữa thập kỷ 80, khi mà quan điểm đề cao và chú ý tới truyền thống được cả nước quan tâm hơn, khi mà các vấn đề của xã hội hiện đại như dân chủ, phát triển kinh tế thị trường, xây dựng con người mới được thảo luận cụ thể cởi mở hơn, ông tiếp tục hành trình “ Đến hiện đại từ truyền thống” trong một loạt nhận thức mới.
Ông tiếp tục phát triển tầm nhìn của mình về sự kết nối và quan hệ của truyền thống với hiện đại. Ông cho rằng : “ Trên con đường phát triển, hiện đại hóa không chỉ cần chú ý tới điểm xuất phát, mà cũng cần chú ý tới điểm đến, tức là đích. Điểm xuất phát là thực tế kinh tế, xã hội, con người… có tính phương Đông. Còn đích phải đến là những mục tiêu dự kiến cho đầu thế kỷ XXI, những dự kiến có cơ sở, không phải ảo tưởng. Hiện đại hóa là phải giải phóng nền kinh tế, xã hội và con người khỏi cơ chế chuyên chế phương Đông, nhưng phải tiến hành với những dữ kiện có sẵn do cơ chế đó để lại.”[6] Vẫn với bản vị hiện đại, để kiến tạo cho xã hội hiện đại, mở đường cho tự do, dân chủ, cá nhân, phát triển, ông thảo luận sâu về những vấn đề của quá khứ mà thực sự đang có những ảnh hưởng níu kéo và tiếp tục ảnh hưởng hiện đại. Đó là các bài viết về vấn đề dân chủ, vấn đề làng- họ, về gia đình truyền thống, về các mẫu hình ông quan liêu, nhân vật quan lại, nhà nho. Ông bàn về các mẫu hình nhân cách cần có cho con người hiện đại… Dù ở bất kỳ nghiên cứu phân tích sâu về vấn đề nào, ông cũng đặt nó trong tầm nhìn hiện đại hóa, nó sẽ có cản trở gì, có thể phát sinh điều gì trong việc hình thành con người và đời sống con người, xã hội hiện đại. Giai đoạn này, các kiến giải về diện mạo Nho giáo trong truyền thống được đẩy sâu hơn, các mô hình đưa ra có sức khái quát hóa hơn và thực sự là những đóng góp quan trọng đối vói việc nghiên cứu xã hội và con người Việt Nam truyền thống, như quan niệm về mô hình Làng – Họ. Các mẫu hình nhân cách nhà Nho…Gia đình Việt Nam truyền thống…Các bài viết: “Ông quan liêu, ông quan và việc phát hiện nó theo cách nhìn của thơ trào phúng”, “ Tìm mô hình nhân cách và chiến lược phát triển”… là những bài rất tiêu biểu thời kỳ này.
Trong giai đoạn thứ hai này, quan điểm “ Đến hiện đại từ truyền thống” nhất quán, sự ảnh hưởng và hiện hữu của truyền thống tới hiện đại là biện chứng không thể phủ định, tuy nhiên kiến giải có một sự chuyển biến. Giai đoạn trước ông nhấn mạnh có phần cực đoan về các phương diện tiêu cực, cản trở thì giai đoạn này, ông cho rằng: “ Hiện đại hóa là phải giải phóng nền kinh tế, xã hội và con người khỏi cơ chế chuyên chế phương Đông… Phải phát huy những cái tốt mà cũng phải biết cải tạo và lợi dụng những cái có sẵn. Có người góp ý kiến với tôi là không nên dùng chữ “ lợi dụng” nhưng tôi vẫn nghĩ có những cái rồi phải vứt bỏ, nhưng hiện tại thì đang có ích, đang dùng được. Với những cái như vậy sử dụng có ý nghĩa lợi dụng”[7]Có sự chuyển biến từ chỗ nhìn Nho giáo chỉ là cản trở, tiêu cực, phải gạt bỏ triệt để nó trên đường tới hiện đại một cách tốt nhất và phù hợp chuyển sang thừa nhận trong Nho giáo có cái tốt, có nhiều cái dở phải loại bỏ, nhưng nhiều cái chưa bỏ ngay được thì lợi dụng. Sự chuyển biến theo chiều hướng nhìn Nho giáo mền dẻo hơn, không cực đoan và cũng thực tiễn hơn. Chuyển biến điều chỉnh nhưng luôn có kiến giải và phương pháp cụ thể. Chuyển biến điều chỉnh nhưng về tư tưởng chỉ đạo không thay đổi, vẫn nhìn truyền thống và hiện đại trong mạch vận động liên tục không ngừng, không gián đoạn. Ông vẫn kiên trì việc cho rằng truyền thống ảnh hưởng hiện đại bằng cả một cơ chế, mang tính hệ thống và gắn với, thông qua chủ thể tính là con người với những mẫu hình nhân cách khác nhau.
Giai đoạn thứ ba, khoảng 1987 trở về sau:
Dấu mốc cho sự chuyển biến tư tưởng của ông có thể chọn mốc là bài viết “ Thử suy nghĩ theo hướng khác: đi con đường thích hợp với thực tế phương Đông lên chủ nghĩa xã hội”. Bài học thành công trong đi vào hiện đại hóa của nhiều quốc gia phương Đông khác khiến ông trăn trở nhiều hơn về phương thức đi vào hiện đại, con đường không phải chỉ có con đường của phương Tây, thậm chí tiêu chí của hiện đại hóa cũng không hoàn toàn theo tiêu chuẩn của phương Tây. Bài viết “ Thử suy nghĩ theo hướng khác: đi con đường thích hợp với thực tế phương Đông lên chủ nghĩa xã hội”[8] là một đột phá mạnh mẽ của chính ông. Thử nghĩ theo hướng khác vừa là nghĩ khác cách nghĩ của “ chúng ta” thời đó, nhưng cũng có nghĩa là đặt vấn đề là suy nghĩ theo cách khác mà ông đã từng nghĩ ở giai đoạn trước. Cũng vấn là Phương Đông, nhưng trong cách nhìn của ông có những mới mẻ. Nó không hoàn toàn chỉ là sự níu kéo, ngăn trở, còn có cái gì đó khác nữa. Ông viết: “Trên bước đường thực hiện mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội, biết đâu truyền thống và kinh nghiệm các nước đồng văn không mách bảo ta những cung cách, những hình thức hài hòa hơn, đễ thực hiện hơn. Điều đó đòi hỏi ta quan tâm nhiều hơn đến các nước trong vùng và hướng khoa học xã hội nước ta vào việc tìm những câu giải đáp cho những vấn đề như thế[9]”.
Đây là giai đoạn ông có nhiều thêm sự bàn luận về các vấn đề của hiện đại, như vấn đề xã hội hóa, vấn đề cơ chế dân chủ, vấn con người cá nhân, nhân cách cá thể. Những vấn đề này được ông thảo luận sâu thêm và thành vấn đề cấp thiết hơn giai đoạn trước. Ông nhận thấy vấn đề con đường chủ nghĩa cá nhân tư bản phương Tây và chủ nghĩa tập thể kiểu phương Đông đều là con đường cực đoan. Ông cho rằng không có nhân cách độc lập thì không có cơ sở để xây dựng chế độ dân chủ. Mô hình quản lý xã hội theo hội, xã của Nhật Bản là những mô hình xã hội dân sự hấp dẫn và nhiều điểm hay. Những băn khoăn và kiến giải trên đều có liên quan tới vấn đề truyền thống và hiện đại và liên quan tới Nho giáo quá khứ và hiện tại. Quan điểm của ông có phần gặp gỡ với Lưu Thuật Tiên trong các bài viết về vấn đề “ Từ dân bản tới dân chủ”[10]. Ông cho rằng: “ xã hội hóa là phá vỡ cơ chế xã hội chỉ tập trung vào hai khâu nhà nước và gia đình. Nhà nước chỉ huy và ban phát, gia đình thành hộ dân cư để đóng góp cho làng, cho nước. Con người đó là của cộng đồng, không có nhân cách độc lập, cơ sở để xây dựng chế độ dân chủ. Trên cơ sở con người cộng đồng đẻ ra chủ nghĩa tập thể, còn trên cơ sở con người xã hội có nhân cách độc lập là sự hợp tác tự nguyện để hình thành những tổ chức tự quản…”[11] Đây là những quan điểm quan trọng về xã hội dân sự theo cách nói của các học giả hiện nay. Các kiến giải này có liên quan tới Nho giáo. Ông tiếp tục nhận thấy có nhiều điều Nho giáo làm cản trở quá trình dân chủ hóa và xây dựng xã hội hiện đại, tuy nhiên quan điểm đối với Nho giáo cũng có phần chuyển biến tiếp tục. Các bài viết quan trọng thời kỳ này phải kể tới : “ Nghiên cứu các hệ tư tưởng Nho , Phật , Đạo từ góc độ lịch sử tư tưởng và đạo đức học”; “ Con người Việt Nam với truyền thống văn hóa Nho giao hóa”; “ Nho giáo và Nho học ở Việt Nam, vài vấn đề về đặc điểm và vai trò cảu nó trước thực tế phát triển thời cận – hiện đại” … là những bài viết quan trọng, tiêu biểu.
Bài học thành công của Nhật Bản, Đài Loan ( Trung Quốc), Hồng Kông ( Trung Quốc), Hàn Quốc, Singapore trong hiện đại hóa khiến ông suy nghĩ nhiều về vài trò của Nho giáo và buộc ông phải có những điều chỉnh. Ông bộc bạch: “ Truyền thống tồn tại bám vào cơ chế, bám vào thói quen, vào cách sống, cách nghĩ, không dễ bỏ, và quan trọng hơn là phải tìm ra cách lợi dụng nó để phát triển. Cách tiến hành giáo dục trong gia đình và tác dụng của những “ ông thầy” là những cái nên cải tạo, sử dụng để hiện đại hóa”[12]Đây là những điều đã được nêu ra từ giai đoạn thứ hai trước đó và được khẳng định lại. Bên cạnh đó, còn một dấu hỏi lớn đang được đặt ra làm tiền đề cho những điều chỉnh lớn tiếp theo. Đó là ông nhận thấy cách làm của Hàn, Nhật và cả Trung Quốc có cái gì đó hay cần học tập, nhưng nó hay như thế nào thì cần làm sáng tỏ tiếp. Ông nói: “ Với những hiểu biết ít ỏi về kinh nghiệm Nhật Bản và Nam Triều Tiên, tôi cũng bắt đầu hiểu truyền thống văn hóa phương Đông không chỉ là sự níu kéo, sự cản trở công cuộc phát triển, hiện đại hóa. Vấn đề ở chỗ biết nhìn đúng, có biện pháp cải tạo và lợi dụng đúng. Tôi nghĩ rằng Nhật Bản và Nam Triều Tiên và cả Trung Quốc nữa – đã thành công vì làm tốt công việc đó.”[13]
Cũng cần nói thêm rằng, đến hiện đại từ truyền thống mà Trần Phu tử chủ trương, về thực chất là đến chủ nghĩa xã hội từ truyền thống Nho giáo[14]. Phạm trù “Hiện đại” và “ hiện đại hóa” mà ông nói tới rất nhiều là hiện đại của chủ nghĩa xã hội theo sự lĩnh hội của chính ông, một loại chủ nghĩa xã hội tự do, bình đẳng, cá nhân và xã hội hóa thực sự. Ông phản đối xã hội chủ nghĩa kiểu Mao ở TQ thập kỷ 60 và trăn trở về chủ nghĩa tập thể và chuyên chính vô sản thời kỳ trước đổi mới. Từ đó ông tiên ưu về những nguy cơ phát sinh khiến cho lý tưởng chủ nghĩa xã hội chân chính không thể thành hiện thực trong môi trường Phương Đông Nho giáo hóa. Ông có cái nhiệt thành và tự nhiệm của Nhà nho cộng với xả thân của một học gỉa. Tuy nhiên, trong nhận thức của ông, suốt lộ trình trên 20 năm là đi từ việc tìm mọi cách xác lập phạm trù hiện đại chuẩn CNXH theo mẫu hình Đông Âu, nhìn mọi thứ của Nho giáo là cản trở sang đặt vấn đề về con đường Phương Đông lên chủ nghĩa xã hội, từ chỗ coi Nho giáo với hiện đại hóa là mâu thuẫn không thể dung hòa chuyển sang nhìn nhận hiện đại hóa có thể thực hiện được trên nền tảng di sản của Nho giáo miễn là có một cách làm và xử lý thích hợp[15].
III. TỪ TRỤC TÂM TỚI CÁC THÀNH TỰU KHÁC TRONG HỆ THỐNG
Việc nhận diện lộ trình tư tưởng và nghiên cứu của ông thành mấy chặng như trên không phải là một phát hiện của người viết bài này, chính tác giả đã nói về điều đó một cách khá tập trung trong lời tựa cuốn sách “ Đến hiện đại từ truyền thống”, công việc của tôi chỉ là chia ra một cách rạch ròi hơn và nhìn chúng trong sự điều chỉnh, so sánh sự phát triển và đặc biệt là nhìn thấy trong sự vận động đó một sự nhất dĩ quán chi, một mô thức tư duy mang tính xâu chuỗi và chi phối có hệ thống toàn thể các vấn đề nghiên cứu của Trần Đình Hượu. Mặt khác, dựa theo các chặng đó người viết đánh giá đóng góp của ông, đối chiếu các ý kiến tự thuật với các bài viết để sáng tỏ thêm, đem cái nhất quán đó để nhìn toàn thể các bài viết rải rác trong thời gian dài của ông.
Có thể khẳng định quan điểm đến hiện đại từ truyền thống là đặc sắc và xâu chuổi tư tưởng của Trần Đình Hượu, và quan trọng nữa nó chi phối các nghiên cứu khác. Quan điểm này về thực chất là sự vận dụng một cách thực chất và sáng tạo phương pháp luận Mác xít để nghiên cứu xã hội và lịch sử. Việc coi truyền thống là một tổng thể với cơ chế chặt chẽ, với ảnh hưởng không phải giản đơn, một chiều cũng là một sản phẩm tư duy biện chứng. Phương pháp quan trọng mà ông đã áp dụng là xã hội học Mac- xit. Các nghiên cứu về làng – họ, gia đình cũng các vấn đề khác là thể hiện việc xem xét thực tại xuất phát từ tính lịch sử cụ thể của xã hội Nho giáo hóa. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn từ góc độ phương pháp như trên thì chưa thể lý giải được tại sao ông lại có cái nhìn độc đáo, độc lập như vậy. Ở ông có sự kết hợp giữa tư duy khoa học, lý tính và cả sự thể nghiệm bản thân, sự chiêm nghiệm và đúc rút thực tế sống, kinh nghiệm sống của mình. Cả hai điều đó cùng với bản lĩnh riêng có đã tạo nên cách kiến giải và thành tựu học thuật của ông.
Cần nhắc lại rằng, Trần Đình Hượu luôn nhấn mạnh truyền thống ảnh hưởng hiện đại bằng cả một cơ chế, mang tính hệ thống và gắn với, thông qua chủ thể tính là con người với những mẫu hình nhân cách khác nhau. Quan điểm này khiến ông cố gắng lý giải hiện trạng của xã hội truyền thống với tính hệ thống của nó, trong cái ngổn ngang, biến hóa tưởng như phi hệ thống. Có thể nói ông là người đầu tiên đưa ra một loạt thao tác nhằm mô hình hóa và đưa ra các khái niệm để định danh và khu biệt cho một loạt các phạm trù mang tính thành tố và hệ thống của xã hội Nho giáo truyền thống. Nghiên cứu Nho giáo với tư cách là một lĩnh vực học thuật thì đã định hình từ đầu thế kỷ XX, nhưng tính học thuật thực sự của lĩnh vực nghiên cứu này được xác lập bởi tên tuổi Trần Đình Hượu.
Trong sự nghiên cứu về xã hội và lịch sử, ông đã đặc biệt chú ý tới chủ thể của tư tưởng và của lịch sử. Việc chú ý chủ thể của tư tưởng và văn hóa này vừa là một kết quả của học tập phương pháp của những năm tại Liên Xô trước đây, nhưng có thể cũng là một gợi ý từ chính đối tượng nghiên cứu. Minh triết phương Đông đặc biệt chú ý tới tinh thần chủ thể, lấy con người làm trung tâm, nó trọng chiêm nghiệm và thực tiễn đạo đức và rèn luyện. Sự chú ý tới chủ thể tư tưởng trong các nghiên cứu triết học và tư tưởng đã đưa ông tới các kết quả độc đáo, thuyết phục, người ta sẽ còn nhắc nhiều tới ông với thao tác phân chia các mẫu hình nhà Nho và mẫu hình nhân cách… đồng thời đó chính là thế mạnh khi ông đi vào nghiên cứu lịch sử văn học và các tác gia văn học, các sự nghiệp văn học cụ thể.
IV. ĐÔI ĐIỀU CÒN NGỎ
Khi nhìn lại các công trình mà mình đã dầy công xây dựng trong suốt hơn 20 năm, Trần Đình Hượu vẫn nhấn mạnh các bài viết của ông mới là làm công việc “ cắm những tiêu vè”, tức nét vé phác và định hướng lớn có tính khu biệt và giới hạn cho công việc nghiên cưu, đó chưa phải là đi sâu vào các vấn đề nội dung học thuyết hay tìm hiểu chi tiết. Ông cũng cho rằng các bài viết về truyền thống , về Nho giáo, con đường phương Đông, từ truyền thống đến hiện đại, vấn đề con người mà ông đã đề cập sâu sắc và tinh tường đến ngạc nhiêu vẫn chỉ là “…đề cập từng điểm và không giải quyết dứt điểm”[16] Những suy nghĩ mang tính định hướng của ông đã có đóng góp to lớn mang tính vạch đường, nhưng đủ tạo ra những khoảng rộng lớn khiến cho nhiều người, nhiều thế hệ kế tiếp bận rộn miệt mài để làm tiếp, kể cả những người cùng đường và không cùng đường hướng với ông.
Ông cũng nói các bài viết của ông “ bây giờ nếu viết lại chắc cũng có chỗ viết khác”. Nhận thức là một quá trình, ông để lại bài học về sự cầu thị, nhưng quan trọng hơn, nó là câu hỏi lớn cho thế hệ sau, rằng nếu viết khác thì ông viết khác như thế nào, theo hướng nào, chỗ nào viết khác?
Ông nhất quán và trung thành với quan điểm, rằng cơ chế, điều kiện kinh tế xã hội kiểu phong kiến phương Đông còn thì nho giáo vẫn được người đời lựa chọn và làm theo một cách có ý thức hay không ý thức. Đây là phương pháp luận mang tính hòn đá tảng. Nhưng một vấn đề phải đặt ra tiếp là liệu khi điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi, khi tự do cho con người đã được đảm bảo, khi con người cá nhân với nhân cách độc lập có chỗ đứng thì liệu con người tiểu kỷ có thực sự mất đi không? Nho có còn ảnh hưởng nữa hay không? Cái ngày hôm nay lại là một thứ truyền thống cho ngày hôm sau. Mối liên hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là một tất yếu không có gì phải nghi ngờ, nhưng nó là liên hệ trực tiếp, thẳng một đường hay nó khúc xạ và biến thiên thông qua chủ thể mang đầy tính năng động là con người? Có những di sản tinh thần khi đã đi vào đời sống tâm lý, phong tục và ứng xử xã hội thì các điều kiện kinh tế xã hội sản sinh ra nó đã mất đi, nhưng nó vẫn tồn tại dai dẳng và biến thiên sang những dạng thức mới. Và theo cách như vậy, khi các điều kiện xã hội đã thay đổi, chưa chắc tư tưởng Nho giáo đã mất đi. Có thể đây sẽ là một chủ đề lớn của những người nghiên cứu Nho giáo đương đại.
Người xưa viết về đạo của thầy: Càng ngước nhìn càng thấy cao, càng dùi đẽo càng thấy cứng. Với tư cách là học trò, tôi cũng đã đọc nhiền lần trước thuật của Phu tử, có nhiều đoạn thậm chí đã thuộc lòng, nhưng cũng chưa dám chắc thấu được chỉ ý sâu xa. Nay nhân dịp đọc lại trước thuật của thầy để viết bài cho hội thảo này, đọc bài thầy sau khi đã có thêm khoảng thời gian trải nghiệm thực tế cũng vài chục năm, một lần nữa nhìn qua toàn thể, nhìn ra xung quanh, nhìn ra khu vực xem việc nghiên cứu Nho giáo thế kỷ XX trên thế giới, thấy quả là càng thấy tầm vóc của thầy cao hơn nhiều, đột xuất giữa thời đại, nhưng lại tự thấy thầy gần gũi hơn mà không xa cách. Rất nhiều vấn đề mà phu tử đề cập của thập kỷ 80 thế kỷ trước tới nay vẫn còn nóng tính thời sự.
Mỗi lần đọc một lần thấy mới, mỗi lần đọc lại thấy cần phải đọc nữa
Ngày 1/2/2015
[1]Lời tựa ĐHDTTT. Tuyển tập Trần Đình Hượu. NXBGD. HN 207. Tr 52.
[2]Những đại diện của Tân Nho gia – dòng truyền thống, trong thế kỷ XX có thể chia làm 3 thế hệ, thế hệ đầu có thể kể tới Lương Thấu Minh, Hùng Thập Lực, Từ Phục Quan... Thế hệ kế tiếp có thể kể tới Trương Quân Lệ, Mâu Tông Tam, Đường Quân Nghị… và thế hệ thứ 3 có các đại diện như: Phương Đông Mỹ, Đỗ Duy Minh, Lưu Thuật Tiêee, Thành Trung Anh…
[8]Bài viết được hoàn thành 1987
[9]Đến hiện đại từ truyền thống. NXB Văn hóa. HN 1995. Tr270
[10]Lưu Thuật Tiên là lãnh tụ tân Nho gia, cổ vũ cho sự phục hưng Nho giáo, nhưng ông vẫn cho rằng, từ dân bản truyền thống không thể có cách gì tới dân chủ thực sự”. Xem : “ K”.
[14]GS Trịnh Văn Thảo đặt vấn đề và hướng tiếp cận từ Khổng giáo tới chủ nghĩa Cộng sản, còn Trần Đình Hượu thì xác định trục tâm tư tưởng là đến chủ nghĩa xã hội từ truyền thống Nho giáo. Về chiều hướng và phương pháp, cách tư duy khác nhau, nhưng không hẹn mà gặp, họ lại có nhiều điểm chung trong cách nhìn. Không phải vô cớ mà họ trở thành những người tâm đắc trong học thuật vào những năm cuối đời của Trần Đình Hượu. Cả hai người đều đã dùng phương pháp xã hội học để nghiên cứu và nhìn nhận Nho giáo. Chỉ có điều xã hội học của Trần Đình Hượu là xã hội học theo hướng Xô Viết, còn Trịnh Văn Thảo là theo cách của học giả Tây Âu, nhưng có lẽ lợi thế của Trần Đình Hượu chính là từ vốn sống và việc giải đáp những vấn đề đặt ra của người trong cuộc, người tìm đường về tư tưởng cho sự nghiệp của chính mình, còn Trịnh Văn Thảo có cái khách quan, lãnh tĩnh của một học giả.
[15]Vào khoảng thời gian từ 1992 tới 1994, trong không khí mở cửa và quan hệ quốc tế được rộng mở, khi đó sách vở của Trung Quốc Đại lục và Đài Loan xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Lúc đó tôi thấy ông đặc biệt hào hứng đi chọn và mua sách. Chúng tôi cũng bị cuốn theo hướng này. Ông có nói với các học trò rằng, hãy tìm đọc kỹ các học giả Tân Nho gia, từ Lương Thấu Minh, Hùng Thập Lực tới các vị đương đại, xem xem cách họ giải quyết các vấn đề của Nho giáo thế nào, giải bài toán truyền thống và hiện đại ra sao. Khi tôi tìm được những bộ sách tập hợp bài viết của Lưu Thuật Tiên, Dư Anh Thời, Thành Trung Anh…về các vấn đề Nho giáo và dân chủ, Nho giáo và vấn đề cá nhân… và đem tới khoe với ông, thì lúc đó đã là giữa năm 1994…