Ngày 12/11/2017 sẽ đi vào lịch sử đất nước. Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Tổng Bí thư ĐCS Trung Quốc Tập Cận Bình đều duyệt đội danh dự tại Phủ Chủ tịch. Mở đầu cho các cuộc viếng thăm cấp nhà nước của hai “kỳ phùng địch thủ” đến Việt Nam. Cũng có thể đó chỉ là một sự ngẫu nhiên, ngẫu nhiên trong cái tất yếu. Bởi vì, từ mùa Xân này, thế giới sẽ chứng kiến cuộc triển khai chiến lược “Ấn—Thái—Dương” (Indo—Pacific), tên gọi mô tả không gian địa lý kết nối hai đại dương kéo dài từ bờ tây nước Mỹ sang bờ tây Ấn Độ, đã và đang trở thành từ khoá của chính trị an ninh thế giới. Nói ngẫu nhiên trong cái tất yếu là vì, mới trước đây không lâu, ngày 11/11/2017, tại Đà Nẵng, nơi hướng ra Biển Đông, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã mô tả cách tiếp cận mới của Mỹ đối với khu vực là “Ấn—Thái—Dương tự do và rộng mở”[1]. Và sau đó chỉ hơn một tháng, ngày 18/12/2017, khái niệm ấy đã chính thức trở thành một nội dung trụ cột trong Chiến lược An ninh Quốc gia mới của Hoa Kỳ (NSS).
Chữ “THỜI” từ nay
Và cũng chỉ hơn hai tuần sau đó, ngày 3/1/2018, Tổng Bí thư ĐCS—Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đích thân phát lệnh tổng diễn tập quân sự toàn quân năm 2018, một loạt hoạt động tập trận mùa đông được triển khai trên toàn lục địa Trung Hoa. Trong bộ quân phục dã chiến, Tập Cận Bình cùng các tướng lĩnh trong Quân ủy trung ương đã có mặt tại Bộ Tư lệnh Chiến khu trung tâm, cùng lúc phát lệnh tổng diễn tập trên 4.000 địa điểm khác nhau. Tờ “Quân Giải phóng Trung Quốc” dẫn lời ông Tập Cận Bình kêu gọi: “Chúng ta hãy xây dựng một quân đội hùng mạnh, sẵn sàng đợi lệnh, sẵn sàng chiến đấu và giành chiến thắng trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào!” Ông Tập Cận Bình đến sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Chiến khu trung tâm quan sát các cuộc tập trận được tường thuật trực tiếp trên các màn hình. Đại tá quân đội Trung Quốc Yue Gang nói với tờ “Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng /SCMP/”: “Đây là lần đầu tiên lãnh đạo tối cao ra lệnh diễn tập thường niên, trước đây thường do Tổng Tham mưu trưởng phát lệnh. Lần này, cuộc tập trận có quy mô lớn chưa từng có và được phát lệnh bởi lãnh đạo cao nhất”. Theo giới quan sát, việc Trung Quốc tập trung vào tập trận và huấn luyện vài năm trở lại đây nằm trong kế hoạch của ông Tập Cận Bình nhằm tái cấu trúc quân đội. Nó cũng mang một thông điệp đến với thế giới rằng, Trung Quốc đang sẵn sàng cho chiến tranh.
Xem thế để thấy, ngay từ bây giờ cũng như từ những thập niên sắp tới đây, nhận định của Huntington[2] sẽ ngày càng được củng cố. Mỹ là hiện thân của những gì mà Huntington coi là nền văn minh phương Tây. Căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc về hệ giá trị, truyền thống và triết lý sẽ làm trầm trọng thêm sự căng thẳng có tính chất nền tảng xảy ra khi một thế lực đang lên, chẳng hạn như Trung Quốc, đe dọa thay thế vị trí của một thế lực đã được thiết lập, chẳng hạn là Mỹ. Lý do mà những sự chuyển dịch như vậy thường dẫn tới xung đột chính là cái bẫy Thucydides[3]. Các cường quốc đang lên có ý thức ngày càng mãnh liệt về quyền lực, đòi hỏi những ảnh hưởng lớn hơn và những tham vọng cao hơn. Đối mặt với những thách thức như vậy, các cường quốc đã định hình có khuynh hướng bất an và phòng thủ. Trong một môi trường bất toàn như thế, mọi sự hiểu lầm có nguy cơ bị phóng đại, sự đồng cảm trở nên hiếm hoi, những sự cố và hành động của một bên thứ ba nào đó, lẽ ra chỉ là chuyện vặt hoặc có thể xử lý được, lại có thể kích hoạt thành chiến tranh mà những tay chơi chủ chốt không bao giờ muốn xảy ra.
Tránh cân bằng lệch
Cuộc xung đột về văn minh gây khó khăn lớn nhất cho Washington và Bắc Kinh khi tìm cách thoát khỏi chiếc bẫy Thucydides lại nổi lên từ các quan điểm đang cạnh tranh giữa hai bên về trật tự thế giới. Cách đối xử của Trung Quốc với dân chúng của mình cung cấp một kịch bản để hiểu quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước láng giềng nhỏ hơn và yếu hơn. Đảng Cộng sản Trung Quốc duy trì trật tự bằng cách áp đặt một hệ thống tôn ti trật tự có tính chất toàn trị, đòi hỏi dân chúng của họ phải tôn kính và tuân phục. Hành vi của Trung Quốc trên trường quốc tế cũng phản ánh các kỳ vọng tương tự về trật tự thế giới: trong một khoảnh khắc bất ngờ tại hội nghị Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Asean) ở Hà Nội năm 2010, đáp lại những lời than phiền về sự xác quyết của Trung Quốc ngoài Biển Đông, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc lúc đó là Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã nói thẳng với những người đồng nhiệm khu vực và ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng “Trung Quốc là một nước lớn, các nước khác là nước nhỏ và đó là một thực tế”.
Trong bối cảnh các dự báo về tương lai bang giao Trung—Mỹ lẫn lộn, cả tích cực lẫn tiêu cực, nhiều nhà quan sát cho rằng chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (29—31/5/2017) không chỉ là một bước đi chủ động để Việt Nam tăng cường quan hệ với Hoa Kỳ, mà nó còn cho thấy những nỗ lực của Việt Nam trong việc tiếp tục cố gắng tìm cách cân bằng quan hệ với hai cường quốc quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chuyến đi ấy diễn ra trong bối cảnh Tổng thống Mỹ, Donald Trump, mới nhậm chức được hơn ba tháng và bản thân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng là một nhà lãnh đạo mới đảm nhiệm chức vụ từ tháng Tư năm 2016, cho nên chuyến công du, theo quan sát của một số nhà phân tích, có thể giúp lãnh đạo hai nước thiết lập quan hệ. Tuy nhiên, quan trọng hơn, đây là bước đi kịp thời để giúp Việt Nam có thể tìm hiểu rõ hơn các ý định về kinh tế và chiến lược của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và qua đó tạo đà giúp phát triển hơn nữa quan hệ song phương trong thời gian tới.
Một cách tương tự, chuyến thăm được cho là “bước ngoặt”, “chưa từng có” tới Hoa Kỳ (5—10/7/2015) và đặc biệt là, chuyến sang Trung Quốc (12-15/1/2017) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng với hai chuyến thăm cấp nhà nước của cả hai nguyên thủ, Mỹ và Trung Quốc, vào cùng một ngày 12/11/2017, cho thấy cả hai cường quốc đều muốn gửi đến Việt Nam và khu vực những thông điệp quan trọng. Bởi vì, ván cờ lớn nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, bắt nguồn từ ý đồ của các chiến lược: Con đường Tơ lụa trên Biển của Trung Quốc, Hành động phía Đông của Ấn Độ, Chính sách hướng Đông của Nhật Bản, Chính sách châu Á của Úc và Tái cân bằng châu Á của Mỹ. Tuy nhiên, 2018 này, cả năm chiến lược ấy có thể đã tích hợp thành chiến lược “Ấn—Thái—Dương” duy nhất, dù đấy mới chỉ là những nước cờ khai cuộc.
Ôn cố tri tân
Mùa Xuân Mậu Tuất này làm chúng ta nhớ tới hai mùa Xuân thời “mở nước”[4]. Tháng 4/1945, để tranh thủ Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh đã chủ động trao trả viên phi công cho không quân Mỹ tại Trung Quốc và quyết định tiếp xúc với tướng Claire Chennaul, Tư lệnh trưởng Bộ Tư lệnh không quân 14 của Mỹ ở Trung Quốc. Chennaul cảm ơn Việt Minh đã cứu thoát, chăm sóc hết sức tử tế viên phi công. Hồ Chí Minh nói đấy là bổn phận của những người Việt Nam chống phát xít. Họ có thể làm tất cả những gì trong phạm vi khả năng làm được để giúp Đồng Minh. Chữ “thời” ngày ấy gắn với thời cơ và thời cuộc là như vậy. Chúng ta đã “gan góc đứng về phe đồng minh…” như Tuyên ngôn Độc lập về sau đã nhắc lại. Còn trước đó, tháng 3/1944, lúc trò chuyện với các đại biểu dự Đại hội quốc tế chống xâm lược (tại Liễu Châu), Hồ Chí Minh đã nói: Lịch sử chống xâm lược của Việt Nam “vừa oanh liệt lại vừa bi tráng”. Nó dạy chúng tôi biết rằng, ''lãnh thổ Việt Nam tuy bị dìm đắm dưới gót sắt đẫm máu của dị tộc, nhưng tinh thần dân tộc của nhân dân Việt Nam vĩnh viễn không thể vì thế mà bị tiêu diệt''. Nó để lại cho chúng tôi một bài học là: ''Thiếu một sức mạnh nhất trí của cả nước, thiếu sự giúp đỡ mạnh mẽ của bên ngoài, thì cuộc vận động giải phóng khó mà thành công được…''.
Vậy là, nếu như chuyến đi đầu năm 1945 sang Côn Minh để tranh thủ Đồng Minh, chủ yếu là tranh thủ Mỹ, thì chuyến đi sau đó mấy tháng, Hồ Chí Minh đến Bách Sắc chủ yếu là để tranh thủ lực lượng của Tưởng. Hồ Chí Minh đã làm hết sức để kéo Đồng Minh (cả Mỹ lẫn Tưởng) ủng hộ Cách mạng Việt Nam. Tầm chiến lược của Người thể hiện ở việc nắm bắt một cách nhanh nhậy các chiều kích của chữ “thời” lúc bấy giờ: biết rất rõ “bụng dạ” của cả hai, nhưng cũng ra sức tranh thủ tới ngưỡng có thể tranh thủ được. “Thời” lúc ấy không chỉ là thời cơ (chance, opportunity), hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, phải hết sức tranh thủ, không được bỏ lỡ. Chữ “thời” bấy giờ (fortune, fate) còn là vận khí quốc gia. Người xưa dạy: “Bôn ba không qua thời vận” là nói trong ý nghĩa ấy. Bài học này đã được Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người phát huy cao độ trong những ngày Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám. Nếu không có một chính phủ liên hiệp, một Hiến pháp thực sự cởi mở thì thử hỏi làm thế nào để nền cộng hòa dân chủ non trẻ có thể tồn tại trong vòng vây của 20 vạn quân Tưởng?
*
Từ mùa Xuân Mậu Tuất 2018 này, công việc giải mã chính sách các nước lớn, nhất là phần liên quan đến Việt Nam, cần được tiến hành khẩn trương hơn. Xin mượn lời của Giáo sư Graham Allison, chuyên gia hàng đầu về chính quyền, từ trường Hành chính Kennedy thuộc Đại học Harvard để kết thúc bài viết[5]: “Ông Tập và ông Trump đều đưa ra những đòi hỏi tối đa, đặc biệt là trong vấn đề Biển Đông. Nhưng cả hai ông lại là những nhà thương lượng dày dạn. Tổng thống Trump hiểu rõ cách thức Bắc Kinh nhìn nhận vai trò của Trung Quốc trên thế giới và các lợi ích cốt lõi của quốc gia, thì họ càng chuẩn bị tốt hơn khi bước vào các cuộc thương lượng. Vấn đề còn lại là tâm lý: ngay cả những quan chức dày dạn của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn thường quan niệm sai lầm rằng lợi ích cốt lõi của Trung Quốc phản ánh lợi ích của Mỹ. Sẽ là khôn ngoan nếu các quan chức đang soạn thảo cách tiếp cận của chính phủ Trump với Trung Quốc chịu đọc lại Tôn Tử (Sun Tzu), nhà triết học cổ đại bên Tàu: “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng; biết ta không biết địch, có thua có thắng; không biết ta cũng không biết địch, trận nào cũng thua”./.