Bất chấp sự phản đối của R.McNamara, cuối cùng, “yêu cầu gửi 10.500 quân tiếp viện của Westmoreland được Tổng thống phê chuẩn vào ngày 12 tháng 2 năm 1968”. Có điều, nhằm ràng buộc Nhà trắng một cách chặt chẽ vào cam kết dấn sâu hơn vào cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quânyêu cầu Tổng thống phải gọi quân trù bị trước khi gửi bất cứ đơn vị nào tới chiến trường. Trong tình hình đó, một mặt, R.McNamarađành chấp thuận gửi sang miền Nam Việt Nam 10.500 quân;mặt khác, khuyến nghị Johnson không động viên quân trù bị. Ông xem đó như một cử chỉ phản đối thái độ hiếu chiến của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân và Westmoreland.
Nhằm ứng phó với những đợt tấn công của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đang lên đến đỉnh cao, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ và Tướng Westmoreland yêu cầu được tăng viện thêm 206.756 quân vào miền Nam - bao gồm 3 sư đoàn bộ binh, 15 phi đoàn máy bay chiến thuật cùng một số phi đoàn khác. Điều đó có nghĩa là Mỹ phải công khai đặt đất nước vào trạng thái có chiến tranh, đẩy quy mô chiến tranh lên mức độ mới mà hậu quả của nó là hết sức khó lường. Chính vì lẽ đó mà yêu cầu tăng quân này đã khiến các quan chức của Nhà trắng rơi vào tình trạng sững sờvà làm nổ ra sự tranh cãi gay gắt ở trong giới chức cao cấp Washington. Clark Clifford đã phải kêu lên rằng: "Chúng ta (Mỹ) hình như đang có một cái thùng không đáy. Chúng ta càng đổ thêm quân vào thì đối phương cũng tăng quân. Tôi chỉ thấy càng giao tranh nhiều thì càng gây ra nhiều thương vong hơn cho phía Mỹ và đó là điều sẽ liên tục diễn ra, tiếp nối nhau không bao giờ ngừng". Nhiều nghị sĩ Mỹ thậm chí đã hoàn toàn mất lòng tin vào thắng lợi mà Mỹ đang theo đuổi: "Tôi không tin chúng ta có thể giành thắng lợi ở miền Nam Việt Nam...".
Cuối tháng 2 năm 1968, một Ủy ban bao gồm những lãnh đạo cao cấp của nước Mỹ do người mới được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ thayR.McNamara là Clark Clifford đứng đầu cấp tốc được thành lập để nghiên cứu/xem xét về yêu cầu tăng viện. Điều đáng nói là thay vì đi vào nghiên cứu yêu cầu đó, thì Ủy ban Clifford lại quay sang kiểm điểm toàn bộ chính sách chiến tranh và chiến lược quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Sở dĩ có sự thay đổi trong cách thức tiếp cận đối tượng như thế là bởi dưới tác động dữ dội và rộng lớn của "Tết Mậu Thân" - như chính Clifford sau này nhắc lại, "toàn bộ đối tượng của công tác nghiên cứu, tìm hiểu đã bắt đầu thay đổi" . Theo ông, "khi chúng tôi bắt đầu nói đến ảnh hưởng của việc gửi 206.000 quân đến việc gọi nhập ngũ lực lượng dự bị cần thiết, đến tính cách bấp bênh của đồng đôla, chúng tôi thấy là đang đứng trước hậu quả của việc ấy đối với đất nước sẽ thực sự vô cùng to lớn. Chỉ riêng các vấn đề tài chính đã là khủng khiếp rồi".
Kiểm điểm chính sách Việt Nam và chiến lược quân sự mà nước Mỹ đang triển khai thực hiện trên chiến trường, Ủy ban Clifford nhận thấy rằng toàn bộ những mục tiêu mà nước Mỹ đề ra đã không đạt được.Ủy ban này đã nghiệm ra một sự thực hết sức cay đắng rằng, "sự đáp ứng chính trị không có hiệu quả của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa có thể còn giúp cho Việt cộng cải thiện sự nghiệp của họ trong các đô thị cũng như nông thôn". Cuộc tấn công vào dịp Tết chứng tỏ rằng "Hoa Kỳ còn ở xa đích hơn là chúng ta (tức Hoa Kỳ) tưởng. Còn xa bao nhiêu thì đó là điều cần phải xem xét".Clark Clifford phải đặt ra câu hỏi: "Liệu có ai thấy quân địch đã nhụt ý chí sau 4 năm chúng ta có mặt ở đấy, sau những tổn thất nặng nề, sau những trận ném bom hủy diệt hàng loạt của ta không". Câu trả lời là: Không!Quả thật (theo lời Alen Ethôven), "mặc dù ồ ạt đưa vào 500.000 quân Hoa Kỳ; 1,2 triệu tấn bom mỗi năm, 400.000 phi xuất hằng năm... và Hoa Kỳ tử thương 20.000 người.... nhưng sự kiểm soát của chúng ta ở nông thôn và việc phòng thủ ở các khu vực thành thị trong lúc này lại chủ yếu ở mức trước tháng 8 năm 1965. Càng dính líu sâu, Hoa Kỳ chỉ đã đi đến chỗ bế tắc mà thôi". Điều đó cho phép Clifford kết lận rằng, “việc tăng thêm quân Mỹ chỉ có thể làm tăng sự tàn phá và Mỹ hóa cuộc chiến tranh mà thôi và do đó càng đưa chúng ta rời mục tiêu hoà bình là điều cho phép người Việt Nam thích ứng với thể chế chính trị và kinh tế riêng của họ. Từ đấy, tôi cũng tin chắc mục tiêu đầu tiên của chúng ta là chấm dứt sự dính líu và tiến tới cởi bỏ dần dần".
Trước thực trạng mà nước Mỹ đang lâm vào ở Việt Nam, Clark Clifford nhận thấy, "kế hoạch của Hoa Kỳ hình như là cứ gây tiêu hao liên tục và điều đó sẽ có cơ hội buộc đối phương vào một thời điểm nào đó không rõ trong tương lai, phải đi tới chỗ thỏa thuận". Thế nhưng, như là lời thừa nhận của chính ông: "Khi tôi cố tìm hiểu sẽ phải cần bao nhiêu thời gian để đạt được mục tiêu của chúng ta thì không một ai giải đáp được. Khi tôi hỏi cần thêm bao nhiêu quân nữa, liệu 206.000 quân có thể hoàn thành nhiệm vụ không, thì không một ai có thể đoán chắc cả". Sau này, nhớ lại những phiên họp khẩn trương, đầy căng thẳng cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1968, Clark Clifford cho biết ông "không thể nhận thấy bao giờ chiến tranh kết thúc; không biết nó kết thúc bằng cách nào; không biết liệu những yêu cầu tăng quân và trang bị như vậy bao lâu nữa; không biết liệu đến bao giờ quân đội Nam Việt Nam có thể thay thế được quân Mỹ". Clark Clifford đi đến kết luận rằng, đường lối quân sự mà Mỹ theo đuổi ở Việt Nam suốt những năm chiến tranh cục bộ "không chỉ không có tận cùng mà còn vô vọng" và "chính sách của Mỹ ở Việt Nam phải được xem xét dưới ánh sáng của chiến lược chính trị - quân sự toàn cầu của Mỹ". Bình luận về lời khuyến cáo này, Don Oberdorfer viết: Điều đó chứng tỏ các thành viên của Ủy ban đã để lộ ra rằng, Mỹ "không còn có thể kiểm soát được cuộc chiến tranh" mà Mỹ đang theo đuổi ở Việt Nam. Còn giới lãnh đạo Mỹ ngày đó phải thừa nhận rằng: "Tết Mậu Thân" đã đặt họ "trước một bước rẽ trên đường đi", "các giải pháp để lựa chọn đã bày ra trong một thực tế tàn nhẫn". Và tất nhiên, trong bản báo cáo chính thức gửi lên Tổng thống Johnson của Ủy ban Clifford, nhiều vấn đề liên quan tới đường lối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam vẫn còn bỏ ngỏ, bởi "có thể họ quá chán nản, không muốn đưa dòng suy nghĩ của họ đến kết luận lôgích cuối cùng" – điều đó vừa thể hiện sự khủng hoảng về chiến lược của Mỹ ở Việt Nam, vừa bố cáo về mộtsự thật đau đớn hơn nữa: mâu thuẫn, chia rẽ gay gắt trong giới lãnh đạo Mỹ đang từng bước được đẩy lên. Johnsoncũng đã phải cay đắng thừa nhận: "Chính sách của chúng ta bị chất vấn gay gắt và bị chỉ trích nặng nề ở Quốc hội”. Thật vậy, tại Hạ nghị viện Mỹ, ngày 18 tháng 3 năm 1968, 139 nghị sĩ (trong đó có 89 nghị sĩ thuộc Đảng Cộng hòa và 41 nghị sĩ thuộc Đảng Dân chủ của Johnson) đã ra nghị quyết yêu cầu Quốc hội Mỹ duyệt xét lại toàn bộ chính sách và chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam; các nghị sĩ "ngày càng chán ghét chiến lược chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam". Thậm chí, Dean Acheson - nguyên Ngoại trưởng Mỹ thời Truman, người từng ủng hộ một cách kiên quyết và mạnh mẽ chính sách chiến tranh của Johnsonthì đến ngày 15 tháng 3 năm 1968, sau khi tìm hiểu kỹ tình hình chiến tranh Việt Nam, cũng đã buộc phải nói với Johnson rằng: "Tổng thống đang bị Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân lừa dối. Những gì mà Westmoreland đang cố gắng ở Việt Nam đều không thể thực hiện được, nếu không sử dụng vào đó các nguồn kinh tế và quân sự hoàn toàn không hạn chế".Theo Dean Acheson, Mỹ không còn hy vọng gì khác ngoài việc "cần phải đánh giá lại và thay đổi hoạt động của các lực lượng mặt đất, cần phải ngừng hay giảm nhiều các cuộc ném bom và chấm dứt chiến tranh sao cho Mỹ bị ít thiệt hại nhất". Cuối cùng, ông kết luận một cách tuyệt vọng: "Đất nước không còn ủng hộ cuộc chiến tranh nữa". Thái độ này của Dean Acheson cũng chính là thái độ của các "nhà thông thái" - đại diện cho các trùm tư bản Mỹ.
Ngay sau cuộc gặp giữa Johnson với Dean Acheson, ngày 19 tháng 3 năm 1968, Clark Clifford - người vừa thay R.McNamaralàm Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, đã yêu cầu Johnson triệu tập các phiên họp của nhóm cố vấn cấp cao "Những nhà thông thái" để giải quyết các vấn đề mà Ủy ban Clifford còn bỏ ngỏ. Đề nghị này của Clark Clifford thực chất là nhằm để nhóm cố vấn cấp cao - mà đằng sau là giới tài phiệt Mỹ - nói thay cái điều mà "Ủy ban Clifford "đã nêu ra trước đó nhưng chưa dám kết luận. Tất cả những điều trên đây đã buộc Tổng thống Mỹ phải thông báo sự thay đổi nhân sự trong chính phủ (chủ yếu là đối với một số tướng lĩnh cao cấp liên quan chặt chẽ tới cuộc chiến tranh Việt Nam). Vì thế, ngày 23 tháng 3 năm 1968, tại phòng Bầu dục, trước đông đảo giới báo chí và phóng viên truyền hình, Tổng thống Johnson đã tuyên bố: Đô đốc G. Sáp- người chủ trương tăng quân vào miền Nam, đẩy mạnh ném bom miền Bắc, thôi giữ chức Tư lệnh Thái Bình Dương. Tướng Westmoreland thôi giữ chức Tư lệnh Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Sài Gòn (M.A.C.V)2. Tướng Creighton W. Abrams - cấp phó của Westmoreland trong M.A.C.V được gọi về Washington để "luận chứng" về kế hoạch quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam... Ngay ngày hôm sau, ngày 23 tháng 3 năm 1968, Giônxơn đã cử tướng Earle Wheeler bí mật bay tới căn cứ quân sự Mỹ ở Philippines gặp Westmoreland. Tại đây, ông thông báo cho Westmoreland rằng: số quân 206.000 mà ông và Westmoreland xin tăng viện đã hoàn toàn bị bác bỏ, chiến lược "tìm và diệt" đang bị chê trách ở Mỹ. Ông yêu cầu Westmoreland, trong khi vẫn còn ở lại Nam Việt Nam, phải tìm một tên gọi khác thay thế cho tên gọi "tìm và diệt". Sau đó, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn đã lệnh cho các cấp chỉ huy dưới quyền trong các văn bản không được dùng từ "tìm và diệt". Thay vào đó, từ đây, các cuộc hành quân cơ động tấn công bắt đầu được gọi bằng tên mới: các cuộc "càn quét chiến đấu", "trinh sát có vũ trang" hoặc đơn giản là các "cuộc càn quét".
Liền trong hai ngày 25 và 26 tháng 3 năm 1968, nhóm cố vấn cấp cao "Những nhà thông thái" đã họp ở Washington để chính thức bày tỏ quan điểm của họ đối với cuộc chiến tranh Việt Nam. Tham dự cuộc họp có các khuôn mặt đầy quyền lực và ảnh hưởng đối với hệ thống kinh tế- chính trị nước Mỹ. Để có căn cứ ra quyết định, trước đó, nhóm "Những nhà thông thái" đã có cuộc gặp với các quan chức chính quyền như Bộ trưởng Ngoại giaoS. Averall Harriman, Bộ trưởng Quốc phòngRosstow, Giám đốc Cục tình báo Trung ương Richard Helms, Tướng Earle Wheeler, các ông Nitze, Nicholas Katzenbac, William Bundy.... Tiếp đó, nhóm nghe các báo cáo của một số quan chức chính phủ khác như Philip C. Habib, Tướng William E. Depuy...
Ngày 26 tháng 3 năm 1968, tại Nhà Trắng, Johnson chính thức gặp gỡ các thành viên nhóm "Những nhà thông thái". Dự cuộc gặp còn có Tướng Abrams) - người sẽ thay Westmoreland trên cương vị Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và Tướng Wheeler. Tại cuộc họp, cuộc họp này, Henry Cabot Lodge - người từng hai lần làm Đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam, người chuyên theo dõi tình hình Việt Nam cho Kennơđi và Johnson, đã yêu cầu Johnson phải khẩn cấp xem xét để chuyển từ chiến lược "chiến tranh tiêu hao" và biện pháp chiến lược "tìm và diệt" sang một chiến lược mới. Chiến lược mới này nhấn mạnh vai trò của lực lượng quân sự Mỹ chỉ là "Tấm lá chắn", dựa vào đó, quân đội và chính quyền Nam Việt Nam phải được tổ chức lại để đảm nhận trách nhiệm chiến tranh.Thái độ "quay ngoắt" của hầu hết thành viên nhóm "Những nhà thông thái" đối với cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm cho Johnson dao động một cách sâu sắc. Ông buồn bã nhận ra rằng, nếu “Những nhà thông thái” đã bị ảnh hưởng “bởi những báo cáo về việc tấn công Tếtsâu sắc đến như thế thì thử hỏi người dân bình thường trên đất nước này phải suy nghĩ đến thế nào". Và như thế, "bản án tử hình" cho cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ ở Việt Nam đã được tuyên đọc bằng chính cái xoay lưng của nhóm cố vấn cấp cao nhằm kết thúc cái công việc mà người Mỹ đã khởi sự 3 năm trước đó.
Ba năm trước, khi tung các đơn vị thiện chiến và khét tiếng quân Mỹ vào chiến trường miền Nam Việt Nam, leo thang đánh phá miền Bắc Việt Nam, Nhà trắng luôn tin vào một thắng lợi quân sự dễ dàng, chớp nhoáng, mang tính quyết định. Thế nhưng, cuộc tổng tiến công và nổi dậy dịp Tết Mậu Thân đã góp một phần quyết định đốt cháy tham vọng của Mỹ. “Tết”đã khiến nước Mỹ nhận thấy "cái giá phải trả về nhân lực (để thực hiện các mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam) bây giờ đã đến một mức mà không còn có thể đáp ứng được nếu không thực hiện việc gọi nhập ngũ một số lớn quân dự bị và thực hiện những điều chỉnh nghiêm trọng về kinh tế".
Thế nên, ngày 31 tháng 3 năm 1968, trong Điện văn gửi Đại sứ Mỹ tại các nước Australia, New Zealand, Thailand, Laos, Philippines và South Korea, Bộ Ngoại giao Mỹ đã "nhấn mạnh chủ yếu đến ý nghĩa quan trọng của việc tăng cường hiệu lực chiến đấu của Chính phủ Nam Việt Nam và Quân đội Việt Nam Cộng hòa với trang bị và các thứ chi viện cần thiết khác của Mỹ, coi đó là ưu tiên hàng đầu trong các hành động của Mỹ". Thực chất quyết định này là một sự giữ thể diện cho Mỹ bằng cách rút lui dần và đẩy vị trí của Quân lực Việt Nam cộng hòa lên hàng thứ nhất. Mấy giờ sau khi Điện văn được chuyển đi, vào đêm 31 tháng 3 năm 1968 lịch sử ấy, Tổng thống Mỹ Johnson xuất hiện trên vô tuyến truyền hình toàn Liên bang đọc bài diễn văn quan trọng nhất mà cũng bi thảm nhất trong cuộc đời chính trị của mình, chính thức tuyên bố về những bước lùi “trong danh dự” của nước Mỹ; đồng thời, tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo. Sau này, trong hồi ký, Johnson viết: "Kết thúc năm 1968, sau nhiều năm điều hành cuộc chiến tranh gay cấn nhất ở Việt Nam, tôi thực sự không tin mình có thể sống sót nếu ở lại Nhà Trắng thêm một nhiệm kỳ nữa. Vì tình hình đen tối của chúng ta ở Việt Nam đã làm cho tôi phải căng thẳng suốt 1.886 đêm, ít khi ngủ trước hai giờ sáng”. Có một thực tế nổi bật là: “Cuộc Tổng tấn công 1968 đã thuyết phục cử tri Mỹ và Tổng thống Mỹ Johnson, rằng khó lòng mà thắng được trong cuộc chiến Việt Nam” và rằng, “cần phải bắt đầu đàm phán giải quyết và rút dần quân Mỹ. Đó là một bước ngoặt trong chiến tranh, một xu thế không thể đảo ngược”.
Cuối cùng, ngay cả khi không muốn thua cuộc chiến hay không muốn thương lượng, thì Johnson đã “phải đưa ra các quyết định quan trọng nhất trong thời gian giữ chức Tổng thống của mình”. Bài diễn văn lập tức gây nên "tác động mãnh liệt ở Hoa Kỳ và khắp thế giới". Nó chứng tỏ một điều hiển nhiên rằng: "Hoa Kỳ đã vượt qua một bước ngoặt quan trọng trong cuộc chiến tranh cũng như trong chính sách và không có chuyện quay trở lại nữa". Sau ba năm leo thang từng bước, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam đã rơi vào một ngõ cụt. Tình thế khó xử, “tiến thoái lưỡng nan” của Mỹ được Theodore Sorensen (cố vấn cho Kennedy trước đây), diễn tả như sau: “Sự thống trị về quân sự trên khắp thế giới của chúng ta không đủ để giành lấy chiến thắng. Sự thống trị về chính trị trên khắp thế giới của chúng ta không cho phép rút lui”.
Như vậy, với quyết định ngày 31 tháng 3 năm 1968, Johnsonmặc nhiên thừa nhận sự thất bại hoàn toàn của chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở Việt Nam. Ngày 31 tháng 3 đã mở ra "một chương rất nhiều ý nghĩa trong lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ: Cuộc chiến tranh Việt Nam đã đi đến hồi kết thúc". Sau Tết Mậu Thân, Quốc hội Mỹ lần lượt ban hành các nghị quyết hạn chế hoạt động chiến đấu của lực lượng Mỹ ở nước ngoài. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968 ở miền Nam Việt Nam đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng trong chính giới Mỹ, gây nên sự chia rẽ chưa từng có giữa Chính phủ vàQuốc hội, khiến cho hai cơ quan này không thể đoàn kết, ủng hộ nỗ lực của Tổng thống trong giải quyết cuộc chiến vô vọng này.
Cho dù chiến tranh vẫn diễn ra ngày càng ác liệt sau đó nhiều năm, cho dù dính líu quân sự của Mỹ vẫn còn tiếp tục dưới thời Chính quyền Richard Nixon thêm 5 năm nữa và phải 7 năm sau chế độ Việt Nam Cộng hòa mới hoàn toàn sụp đổ..., nhưng, về mặt chiến lược, Mỹ đã bắt đầu thừa nhận sự thất bại của mình chính từ tháng 3 năm 1968. Từ sau ngày 31 tháng 3 năm 1968, mọi nỗ lực liên quan tới cuộc chiến tranh Việt Nam của chính giới Mỹ chỉ là những cái gồng mình cuối cùng trước khi gục xuống- một kết cục đã được báo trước từ mùa Xuân năm 1968.