Những góc nhìn Văn hoá

Truyền thông Mỹ và sự kiện Tết Mậu Thân 1968 ở miền Nam Việt Nam

Tết Mậu Thân 1968 không chỉ là sự kiện tạo nên những thay đổi quan trọng trong quan điểm về chiến tranh Việt Nam của chính giới Mỹ cũng như các tầng lớp khác nhau của xã hội Mỹ, mà còn tạo nên bước ngoặt quan trọng đối với truyền thông nước Mỹ. Cũng từ thời điểm này, truyền thông nước Mỹ đã trở thành một trong những yếu tố thúc đẩy phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, tác động trực tiếp tới nhiều quyết sách chiến tranh của Nhà trắng.

 

Những năm đầu chiến tranh Việt Nam, trên các phương tiện truyền thông của nước Mỹ, những tin tức về cuộc chiến tranh tại Việt Nam khá thưa thớt, nước Mỹ chưa mấy quan tâm tới sự kiện này. Từ những năm 60 (XX) trở đi, một số vấn đề của chiến tranh Việt Nam bắt đầu xuất hiện nhiều hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng nước Mỹ. Tuy nhiên, người dân nước Mỹ biết tới chiến tranh Việt Nam qua những bài báo, những đoạn phim tài liệu được "định hướng" một cách khéo léo khiến họ tin rằng cuộc chiến Việt Nam chỉ đơn giản là một chuyến "du lịch tới miền rừng rậm nhiệt đới.Các phương tiện truyền thông Mỹ đã miêu tả cuộc xung đột ở Việt Namphù hợp với bối cảnh của cuộc Chiến tranh Lạnh  lúc bấy giờ theo cách những lính Mỹ khoác áo “ông Thiện” diệt trừ “kẻ ác” là những người “cộng sản man rợ”.Tin tức về chiến tranh Việt Nam tràn ngập sự lạc quan: các kế hoạch quân sự đã và đang thành công; các cuộc tấn công của Việt cộng ngày càng sụt giảm, số lược Việt công bị tiêu diệt không ngừng gia tăng và quân đội Bắc Việt hầu như không thể vượt qua giới tuyến[1].

Năm 1963, cuộc khủng hoảng Phật giáo với vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ở miền Nam Việt Nam đã khiến truyền thông Mỹ quan tâm nhiều hơn tới những sự kiện nóng bỏng ở một miền đất vốn không mấy quen thuộc với người Mỹ. Các hãng truyền thông lớn như New York Times, Reuters,... nhanh chóng gửi phóng viên tới Sài Gòn và lượng phóng viên ở đây tăng lên đột biến: Nếu như năm 1964, mới chỉ có khoảng trên dưới 40 phóng viên Mỹ thì đến tháng 8 năm 1965, con số này đã tăng vọt, lên đến 419 người[2]. Cũng cần phải nói thêm rằng, vào những năm 60 (XX), truyền thông có sự phát triển vượt bậc cùng với sự phát triển như vũ bão của truyền hình. Nếu như năm 1950, mới chỉ có 9% gia đình Mỹ sở hữu một chiếc ti vi, thì năm 1966con số này đã tăng đột biến, lên đến 93%[3], còn đến năm 1968- năm xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân thì con số này đã lên tới 96%. Truyền hình trở thành kênh phổ biến thông tin quan trọng hàng đầu đối với người Mỹ, 58% người Mỹ tiếp nhận các thông tin và các kiến thức chủ yếu từ truyền hình[4]. Để đối phó với truyền thông, năm 1964, Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) quyết định bổ nhiệm Barry Zorthian[5]làm người phát ngôn của Chính phủ Hoa Kỳ tại Việt Nam; đồng thời, là người tư vấn cho Tướng Westmoreland về chính sách thông tin. Từ năm 1965 đến năm 1967, với kinh nghiệm của mình khi làm việc tronggiới truyền thông, Barry Zorthianđã hoạt động khá hiệu quảHầu hết mạng lưới truyền thông nhất là các “ông lớn” truyền hình như CBS và NBC đều đưa những tin tức tích cực về chiến tranh Việt Nam; sự tham gia của người Mỹ ở Việt Nam thường được các phương tiện truyền thông ủng hộ; nhờ đó, cuộc chiến nhận được sự đồng thuận của công chúng và Quốc hội.Một vài tuần trước Tết Mậu Thân, Phó tổng Tư lệnh Bộ chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam Tướng Bruce Palmertuyên bố trên chương trình Today của đài NBC: "Việt Cộng đã bị đánh bại từ Đà Nẵng xuống đến những điểm cuối cùng của khu vực có dân cư”[6], “họ (Việt cộng) không có gì để ăn và không thể tuyển mộ được người, họ đã buộc phải thay đổi chiến lược từ cố gắng kiểm soát vùng đồng bằng đến cố gắng tồn tại ở những vùng rừng núi”[7].Trong một buổi họp báo tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia (National Press Club) vào ngày 21 tháng 11 năm 1967,Tướng Westmoreland còn tuyên bố mạnh hơn rằng, đến cuối năm 1967, Việt cộng không thể tổ chức một cuộc tấn công lớn, rằng chắc chắn kẻ thù (Việt cộng) của chúng ta (của Mỹ) đã thua, rằng chúng ta (nước Mỹ) đang ở thời điểm quan trọng khi đang đi gần đến kết thúc. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn khác, thậm chíWestmoreland còn thách thức những người cộng sản tổ chức một cuộc tấn công quy mô: "Tôi hy vọng họ cố gắng một cái gì đó, bởi vì chúng tôi đang tìm kiếm một cuộc chiến”[8].

Với tất cả sự tự tin kể trên, thì sự kiện đêm 29 rạng ngày 30 và đêm 30 rạng ngày 31tháng1năm 1968 (tức đêm giao thừa và đêm 1 rạng ngày mùng hai theo lịch miền Nam), Quân giải phóng đã đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và hàng loạt căn cứ, kho tàng, sở chỉ huy, sân bay, bến cảng... của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên khắp miền Nam Việt Nam, quả thật, đã trở thành quả bom tấn không chỉ đối với giới lãnh đạo Nhà Trắng mà còn với toàn thể giới truyền thông nước Mỹ và nhân dân Mỹ.

Kỹ thuật truyền thông hiện đại cùng với những bài tốc ký, những hình ảnh mà giới phóng viên truyền hình và báo chí Mỹ ghi lại được trên chiến trường đô thị trong dịp Tết Mậu Thân đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phơi bàyhiện thực chiến tranh, giúp cho nhân dân Mỹ thấy được những gì đã và đang xảy ra trên thực tế.Trong nhiều trận đánh của “Tết”,cuộc tấn công vào Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn được coi là một sự kiện đặc biệt, tác động sâu sắc đến tâm lý người Mỹ- nó trở nên nổi bật không hẳn vì chiều kích của trận đánh cũng như số lượng thương vong mà nằm ở cách nó được chuyển tải đến công chúng Mỹ. Tin tức về cuộc tấn công Đại sứ quán Hoa Kỳ xuất hiện trên các tờ báo lớn như New York Times, Washington Post, Christian Science Monitor, Los Angeles Times, Time, Newsweek và Life…- những tờ báo này được phát hành trên toàn nước Mỹ và có số lượng độc giả đông đảo. Các tờ báo đó đăng tải những tin tức và hình ảnh về binh lính Mỹ bị thương hoặc chết cùng với các mô tả, tường trình chi tiết về trận đánh đã cho thấy hình tượng binh lính Mỹ dưới một ánh sáng khác- nó không hoàn hảo và "ma thuật" như bộ máy tuyên truyền của Nhà Trắng vẫn thường vẽ ra trước đó.

Lúc cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968 của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam nổ ra, có khoảng 700 phóng viên nước ngoài có mặt ở Sài Gòn và con số này liên tục tăng nhanh trong những ngày sau đó. Những phóng viên này bám tương đối sát các diễn biến chiến trường và nhiều người trong số họ (nếu không muốn nói là phần đông) đưa tin, phản ánh khá trung thực, nhất là về tinh thần chiến đấu của các "chiến binh cộng sản" cũng như những thất bại nặng nề mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn đang phải gánh chịu. Do đó, mặc dù trong các cuộc họp báo cũng như những báo cáo gửi về Nhà Trắng, tướng Westmoreland đã vẽ nên một bức tranh khá sáng sủa về sự đáp trả của quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam cộng hòa trước những đợt tấn công như vũ bão của “phiến quân cộng sản”, nhưng lòng tin của công chúng Mỹ đã vơi nhanh, đã sụt giảm đến mức khó có thể gìm lại được.Các hoạt động thông tin đại chúng này đã đưa cuộc chiến tranh Việt Nam vào từng căn phòng của mọi gia đình Mỹ, phơi bày trước công chúng Mỹ về sai lầm của Nhà Trắng trong dịp Tết Mậu Thân, phản ánh thực tế thất bại về cả quân sự lẫn chính trị của Mỹ và quân đội Sài Gòn trên chiến trường, ghi nhận mức độ tiến công đồng loạt và sức chống trả quyết liệt của Quân giải phóng miền Nam.Phần lớn người dân Mỹ rơi vào trạng thái sốc khi trước đó họ hình dung và tin tưởng rằng kẻ thù của nước Mỹ đang ở bên bờ vực thẳm thì bất ngờ chính những kẻ thù ấy lại có đủ lực lượng (cả vật chất và tinh thần) để tiến hành một cuộc tổng công kích rộng khắp, gây ra những thương vong to lớn cho quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn, chiếm được những vị trí mang tính đầu não và quan trọng trong một khoảng thời gian không hề ngắn ngủi.Người Mỹ cảm thấy bất lực, bị lừa dối, mất lòng tin vào nội các Johnson và sự phẫn nộ đối với Chính phủ tăng lên từng ngày. Bên cạnh đó, những thước phim quay trực tiếp cảnh tàn phá do bom đạn Mỹ gây ra ở các đô thị và đặc biệt là cảnh tượng rùng rợn mà ở đó người ta thấy viên tướng trùm cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan đã chĩa súng bắn vào đầu tù binh tay không[9] là những sự thật trần trụi đến ghê rợn, gây rúng động nước Mỹ, làm người Mỹ bừng tỉnh trước hiện thực khốc liệt.Những hình ảnh từ Đại sứ quán Mỹ, hình ảnh của các nạn nhân là người Mỹ, hình ảnh vềnhững trận chiến kéo dài đặc biệt thu hút sự chú ý của dân chúng Mỹ. TờLife Magazine đã đăng tải  hình ảnh rùng rợn về những cái bao đựng xác chết trở về, có những  số phát hành công bố hình ảnh của từng người hy sinh, chỉ có đầu và vai khiến bức tranh chiến sự ở Việt Nam càng trở nên khủng khiếp hơn. Sự khách quan đến lạnh lùng trong các cảnh ghê rợn máu me quay cận cảnh và được chiếu trên màn hình tivi màu đã phá vỡ bức tường bưng bít tin tức chiến trường Việt Nam mà chính quyền Johnson đã dựng lên trước đây, khiến cho các tầng lớp xã hội Mỹ thấy được sự trái ngược giữa thực tế xảy ra trên chiến trường miền Nam Việt Nam với những "thắng lợi" mà chiến dịch tuyên truyền của chính quyền Mỹ thường cổ vũ. Cộng thêm vào đó, hàng ngàn cựu chiến binh Mỹ cũng lên các phương tiện truyền thông để kể lại khoảng thời gian đẫm máu ác mộng mà họ đã trải qua trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Qua sự tường thuật của các phóng viên chiến trường, người dân Mỹ bàng hoàng nhận ra rằng cuộc chiến này dữ dội hơn rất nhiều lần những gì người Mỹ tưởng tượng. Những hình ảnh đẫm máu của binh lính Mỹ và quân đội đồng minh trên chiến trường Việt Nam được truyền tải trực tiếp về nước Mỹ với tần suất dày đặc khiến lượng người theo dõi ngày càng lớn và ngay cả những kênh truyền hình chuyên về quảng cáo của Mỹ cũng chèn thêm những giờ phát sóng đưa tin về cuộc chiến này để thu hút thêm lượng người xem đã gây nên một cuộc khủng hoảng tâm lý chưa từng thấy của nước Mỹ được tạo ra bởi chiến tranh Việt Nam. Những hình ảnh thảm khốc về một cuộc chiến tranh xưa nay vốn vẫn bị giới truyền thông Mỹ cố gắng hạn chế đăng tải nay đã được đưa tới cho khán giả Mỹ và toàn thế giới qua các đoạn phim truyền hình trực tiếp từ hiện trường- những hình ảnh chưa hề qua kiểm duyệt, lột tả một cách trần trụi và chân thật, “đen tối đến nỗi đã tạo ra một cuộc tranh luận chưa từng có trong công chúng Mỹ”[10]. Trước cảnh tượng bi thảm và gần như hỗn loạn này, nhân dân Mỹ và ngay cả một số quan chức trong Chính phủđã bắt đầu nghĩ rằng: Chắc hẳn là Mỹ đã bị thất bại[11]. Những người dân Mỹ tiến bộ, đề cao tinh thần nhân văn, bác ái không thể tin được và không thể tha thứ khi những đồng tiền đóng thuế của mình lại được sử dụng vào một cuộc chiến tranh tàn bạo và phi nhân tính đến vậy.Nước Mỹ sục sôi và có lẽ chưa bao giờ căm ghét chiến tranh đến như thế, sự chán nản lan tràn, tâm lý chán ghét chiến tranh trở nên phổ biến. Thêm vào đó, ngày 23 tháng 2 năm 1968, một bài viết trên Wall Street Journal đã nêu cảnh báo: "Tốt nhất là mọi người nên chuẩn bị cho điều cay đắng nhất là sự bại trận mà sức mạnh của nước Mỹ không ngăn chặn được"[12]. Tờ Times cũng đưa ra những nhận định hết sức bi quan: “Năm 1968 đưa đến sự thừa nhận rằng một chiến thắng ở Việt Nam hoặc ngay cả một giải pháp thoả đáng không còn nằm trong tầm tay của nước lớn nhất thế giới"[13].Còn nhà báo Joseph Krafthì phát biểu: “Chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là không thể thắng được. Chiến tranh ấy càng kéo dài thì người Mỹ càng chịu tổn thất và nhục nhã”[14]. Ngay như tờ The New York times - một tờ báo lớn ở Mỹ từng kiên trì ủng hộ một cách mạnh mẽ và đầy sức thuyết phục cho cố gắng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam thì giờ đây cũng thay đổi lập trường. Sự "trở cờ" của tờ báo lớn này đã là một đòn nặng giáng vào chính phủ Mỹ[15] và là bằng chứng đau lòng về sự rạn nứt, khủng hoảng lòng tin của nhân dân và chính giới Mỹ đối với giới cầm quyền.Câu truyện càng trở nên nóng hơn và chuyển sang một diễn biến bất ngờ khi ngày 27-2-1968, Walter Cronkite –một nhà báo được đánh giá là có uy tín và đáng tin cậy trở về sau cuộc viếng thăm miền Nam Việt Nam đãđưa ra quan điểm phản đối chiến tranh trên truyền hình trong chương trình phát sóng của đài CBS. Ông đề nghị: “Cách hợp lý duy nhất để thoát ra khỏi chiến tranh Việt Nam là thương thuyết, không phải với tư cách những người chiến thắng, mà như những người chính trực làm điều tốt nhất họ có thể làm”[16]. Tiếp đó, ngày 10 tháng 3, khi tờ The New York timestiết lộ tin Tướng Westmorelandxin thêm 206.000 quân gửi sang tham chiến ở Việt Nam nhằm ứng phó với "Tết Mậu Thân". Ngay khi tin tối mật này bị tiết lộ, nó đã trở thành sự kiện lớn ở Mỹ, trở thành "tiêu điểm" cho cuộc tranh luận chính trị và làm tăng thêm "tinh thần bất mãn của công chúng Mỹ"[17].Sự bất mãn đó được đã biến thành hiện thực xám xịt thể hiện qua kết quả cuộc bầu cử thử của Đảng Dân chủ ở New Hampshire hai ngày sau đó: McCarthy - người chống đối chính sách chiến tranh của Johnson, đã giành được 42% số phiếu, ít hơn đương kim Tổng thống chỉ 7%[18]. Sự kiện này chứng tỏ rằng: "L.B. Johnson, nhà chính trị bậc thầy đã bị thách thức không phải bởi một người tranh phiếu hấp dẫn và được nhiều người hưởng ứng, mà bởi một ứng cửviên đã có khả năng động viên và thâu tóm được mọi sự bất bình và chán ngán đối với chiến tranh"[19].Thắng lợi của McCarthy đã cổ vũ cho địch thủ không đội trời chung của Johnson làthượng nghị sĩ Đảng Dân chủRobert Kennedy, cân nhắc việc tự mình ra ứng cử cho chức vụ tổng thống và đến ngày 16 tháng 3, đã tuyên bố ra tranh cử; đồng thời, tiến công gay gắt vào đường lối hiếu chiến của Johnson[20].

Diễn biến tâm lý của xã hội Mỹ sau sự kiện "Tết Mậu Thân"do hiệu ứng truyền thông khiến "khó mà nói công chúng Mỹ phẫn nộ với những người Cộng sản ở châu Á hơn hay với Chính phủ Mỹ hơn"[21] và dẫn đến một cuộc tập hợp lực lượng phản đối chiến tranh, phản đối chính quyền trên quy mô toàn quốc ở Mỹ. Trong lúc chính quyền Mỹ đang lúng túng ứng phó với "Tết Mậu Thân", đang ngập ngừng trước sự chọn lựa leo thang hoặc xuống thang chiến tranh..., thì ở ngay trong các thành phố và các trường đại học Mỹ, phong trào phản đối chiến tranh, phản đối chính quyền bùng lên  và lan rộng. Hàng loạt các thanh niên đến tuổi quân dịch rầm rộ biểu tình, đốt thẻ quân dịch, không gia nhập quân đội và sang tham chiến trên chiến trường Việt Nam. Phong trào phản đối chiến tranh tiến triển đếnmột điểm mà nó có thể tác động một cách dứt khoát và mạnh mẽ đến các quyết định của chính phủ Hoa Kỳ. Cùng thời gian này (năm 1968), điều tra của Viện Gallup cho thấy số người ủng hộ đường lối chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam xuống tới mức kỷ lục: 26%[22], còn số người ủng hộ Johnson chỉ còn 36%. "Cuộc tổng tiến công Tết như một tia chớp soi sáng để những ai còn hồ nghi và những người đang bất mãn nhận thấy nhau", giúp họ "có dũng khí để bây giờ công khai đấu tranh cho một chiến lược mới của Mỹ nhằm kết thúc cuộc chiến tranh không cần thắng lợi, không cần vinh quang”[23].Nhiều người dân Mỹ hiểu rằng, nước Mỹ không thể thắng được trong chiến tranh Việt Nam và quá trình rút quân Mỹ khỏi nơi đây phải diễn ra.Nhiều người dân bình thường ở Mỹ cuối cùng đi tới kết luận rằng: “nếu chúng ta [tức chính phủ Mỹ] không thể nói cho họ biết lúc nào cuộc chiến tranh này kết thúc thì chúng ta nên vứt nó đi”[24].Như vậy, những sang chấn tâm lý của xã hội Mỹ sau sự kiện Tết Mậu Thân đã dẫn dắtđông đảo các tầng lớp xã hội Mỹđi đến những thay đổi thái độ mang tính bước ngoặt về chiến tranh Việt Nam.

Như vậy, truyền thông Mỹ đã góp phần làm cho sự kiện “Tết Mậu Thân 1968" trở thành một "phép thử” đến độ đủ để phơi bày toàn bộ sự thất bại những chiến lược chiến tranh của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, gây ra những sang chấn tâm lý rộng lớn và kéo dài dai dẳng trong nhiều tầng lớp nhân dân Mỹ cũng như trong chính giới Mỹ. Nó đặt Tổng thống Johnson vào một tình cảnh trớ triêu khi phải đối phó cùng một lúc với diễn tiến quân sự ở Việt Nam và với tình hình chính trị rối ren ngay tại nước Mỹ trong năm bầu cử tổng thống, “dẫn tới một sự thay đổi quan trọng trong chiến lược chiến tranh của Mỹ”[25]. Dưới tác động của truyền thông, “Tết” đã biến thành một thất bại chính trị và tâm lý đối với Mỹ- một thất bại không có cơ hội sửa chữa, tạo nên những phân liệt trong xã hội Mỹ trong vấn đề về chiến tranh Việt Nam. Cuộc Tổng tấn công 1968 “đã thuyết phục cử tri Mỹ và Tổng thống Mỹ Johnson, rằng nước Mỹ khó lòng mà thắng được trong cuộc chiến Việt Nam”[26] và rằng, cần phải bắt đầu đàm phán giải quyết và rút dần quân Mỹ. Đó là một bước ngoặt trong chiến tranh, một xu thế không thể đảo ngược”[27],đặt Hoa Kỳ vào thế bị động trên con đường dần rút lui khỏi cuộc chiến.Những sang chấn tâm lý trong lòng nước Mỹ gây ra bởi sự kiện “Tết” đã khiến Quốc hội và nhân dân Mỹ không thể đoàn kết, ủng hộ nỗ lực của Chính phủ và Tổng thống trong giải quyết chiến tranh Việt Nam.Tết đã cuốn theo nó sự ủng hộ của người dân Mỹ,đưasự ủng hộ ấy xoay chiều quay sang đối phương của nước Mỹ và gieo những hạt giống quan trọng cho chiến thắng cuối cùng của Việt Nam Dân chủ cộng hòa vào năm 1975.

 



[1]Thomas Ladenburg: The Tet Offensive, Digital History, p.38.

[2]William M. Hammond: Public Affairs: The Military and the Media, 1962-1968,Government Printing Office, 1988, p.197.

[3] Bonier, D. E., Champlain, S. M., Kolly, T. S. (1985), The Vietnam Veteran, A History of Neglect, p.18.

[4]Bonier, D. E., Champlain, S. M., Kolly, T. S. (1985), The Vietnam Veteran, Ibid, p.18.

[5]Barry Zorthian lúc đầu làm việc cho Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Bên cạnh chức vụ là người liên lạc với giới truyền thông, ông còn chỉ huy các chiến dịch tâm lý ở Việt Nam. Ngoài các hoạt động cho Chính phủ Mỹ, Zorthian còn làm việc cho Time Magazine.

[7]David F. Schmit: The Tet Offensive: Politics, War, and Public Opinion (Westport, CT:  Praeger, 2004), pp. 56-57. 

[8]Stanley Karnow, Vietnam: A History, (NY: Viking, 1983), p.514.

[9]Bức ảnh này do nhiếp ảnh gia người Mỹ Eddie Adams chụp. Ông được biết đến qua các bức chân dung của các nhân vật, các chính trị gia nổi tiếng.  Eddie Adams còn là phóng viên chiến trường, nhà báo ảnh trong 13 cuộc chiến tranh khác nhau. Adams đã giành được Giải thưởng Ảnh Báo chí Thế giới năm 1968 và giải Pulitzer năm 1969 cho ảnh sự kiện nhờ bức ảnh này (bức ảnh được đặt tên là "Saigon Execution").

[10] John B. Henry II: February, 1968, Foreign Policy,No. 4 (Autumn, 1971), p.5.

[11]Hồi ký của Linđơn Giônxơn, Việt Nam Thông tấn xã dịch và phát hành, Hà Nội, 1972, tr. 294.

[12]Wall Street Journal, 23 - 2 – 1968.

[13]Times, 15 - 3-1968.

[14]George C. Herring, America’s Longest War – The United States and Vietnam 1950 – 1975, McGraw – Hill, New York, 1979, p.218.

[15] Đôn Obớcđoiphơ: Tết, Nxb. An Giang, 1988, tr.47.

[16]"Who, What, When, Where, Why: Report from Vietnam by Walter Cronkite", CBS Evening News. February 27, 1968. Retrieved August 3, 2012.

[17]Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Việt Nam Thông tấn xã dịch và phát hành, Hà Nội, 1971, t. 2, tr. 254.

[18]Vietnam Eskalation Reicht nicht,Der Spiegel (18 /1968), (18-03-1968.

[19]Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Tlđd, t. 2, tr. 255.

[20]Vietnam Eskalation Reicht nicht,Ibid.

[21] Đôn Obớcđoiphơ: Tết,Sđd, tr. 104.

[22] Tờ báo Tây Đức Der Spiegel đưa ra một con số khác: 49% người Mỹ cho rằng sự tham chiến của Hoa Kỳ là một sai lầm- con số cao nhất kể từ khi Chiến tranh Việt Nam bắt đầu (Vietnam Eskalation Reicht nicht,Ibid).

[23] Tauxen Húppơxơ: Những giới hạn của sự can thiệp, Thư viện Quân đội, 1980.

[24]Starr, Jerold M., Ed: The Lessons of Vietnam War, Center for Social Studies Education, 1988, p.19.

[25]William J. Duiker: Vietnam – Nation in Revolution, Westview Press, Colorado, 1983, p.64.

[26]Merle L. Pribbenow II: General Võ Nguyên Giáp and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tết Offensive,Published by: University of California  Press, p.25.

[27]Merle L. Pribbenow II: General Võ Nguyên Giáp and the Mysterious Evolution…, Ibid, p.25.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578269

Hôm nay

287

Hôm qua

2352

Tuần này

21468

Tháng này

225326

Tháng qua

130677

Tất cả

114578269