Những góc nhìn Văn hoá

Nhịp cầu văn hóa (3)

Làm phim và đi Pháp

Trong công tác tuyên truyền đối ngoại, ngoài sách, báo, tôi có tham gia làm một số phim.

 Tháng 6/1972, giữa lúc Mỹ trở lại thả bom miền Bắc, đánh phá Hải Phòng, Đảng Cộng sản Pháp gửi một đoàn điện ảnh sang Hà Nội để làm một phim vô tuyến truyền hình dài về Việt Nam. Lúc đầu, theo thói quen, một ban gồm đại diện một số cơ quan được cử ra để làm cố vấn cho đoàn. Đến khi vào việc thì thấy cách làm theo kiểu bàn tập thể, có gì quan trọng lại phải xin ý kiến cấp trên... thì mấy năm cũng không xong, mà đoàn chỉ có thời gian một tháng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là không cần ban nữa, mà chỉ cần một người làm cố vấn cho đoàn. Trên giao cho tôi trách nhiệm đó. Tôi nêu ý kiến: Nếu giao tôi làm thì giao toàn quyền, tôi chịu trách nhiệm, không phải hỏi ý kiến ai, vì nếu hỏi đi hỏi lại thì không thể xong trong một tháng, thà đừng làm, làm mà dở dang thì tôi không làm.

 

Nội dung phim gồm 3 đoạn, sẽ chiếu thành 3 kỳ, mỗi kỳ 52 phút. Đoạn thứ nhất là lịch sử truyền thống của Việt Nam, đoạn thứ hai là cuộc kháng chiến đánh Pháp xâm lược, đoạn thứ ba là miền Bắc đối đầu với bom đạn Mỹ. Đoàn đề nghị lấy nội dung tôi trả lời phỏng vấn để thuyết minh phim. Để cho tự nhiên, cuộc phỏng vấn được tiến hành ngay tại nhà tôi ở số 8 Nguyễn Chế Nghĩa. Phần lớn nhân dân Hà Nội đã đi sơ tán, nhưng cũng phải đợi đến 10 giờ tối để khu phố được yên tĩnh, đoàn mới mang đèn đuốc, máy móc đến. Phòng tôi ở không có gì đẹp đẽ cả, ngoài bàn làm việc ra, chỉ toàn là sách.

Phải quay 4 đêm liền, từ 10 giờ đến 12 giờ. Ở Hà Nội giữa mùa hè, phòng thì nhỏ, phải đóng hết cửa để giảm tiếng động từ ngoài vào, đèn rọi sáng trưng, tôi cùng 4 đồng chí trong đoàn phải nói là toát mồ hôi. Đến lúc quay xong, anh em cũng thấy thoải mái vì đồng chí trưởng đoàn đã nghiên cứu kỹ, đặt vấn đề hỏi rất đúng, mà tôi cũng đã quen nên trả lời nhanh gọn, không vấp váp gì.

Cuối năm đó, Đảng Cộng sản Pháp mời tôi sang để cùng dựng phim. Tháng 12/1972, tôi từ nơi sơ tán về Hà Nội để chuẩn bị đi Pháp, đúng vào những ngày đêm Mỹ dùng máy bay B52 thả bom ở Đông Anh, Gia Lâm, Bạch Mai, Văn Điển, Khâm Thiên... Tôi sang trú bên hầm Nhà xuất bản Ngoại văn gần nhà tôi. Hầm rất kiên cố, có tường dày, có cửa sổ song sắt nom như chiếc tàu thủy. Đứng trong hầm nhìn qua cửa tròn có thể thấy một góc bầu trời, lúc máy bay Mỹ đi qua, súng cao xạ của ta bắn lên rầm rầm, lửa sáng rực trời trông rất đẹp như bắn pháo hoa. Lúc nào bắn trúng B52 thì khối dầu cháy lóa ra đỏ cả một góc trời. Lúc Mỹ buộc phải ngừng ném bom, tôi đáp máy bay sang Pháp và đến Paris vào tháng 1/1973. Hội nghị Paris bàn về vấn đề Việt Nam sắp kết thúc, báo chí, tivi đều sôi sục về chuyện Việt Nam.

Phần tôi, thế là sau 10 năm, lần đầu tiên trở lại nước Pháp, được gặp lại những anh em cùng hoạt động, những kiều bào trước đã cùng chia sẻ bao nỗi vui buồn, những đồng chí trong Đảng Cộng sản Pháp, những anh em tiến bộ trong các đảng anh em ở châu Phi và một số nước khác. Hồi tôi rời nước Pháp, nhiều anh em biết tôi bị bệnh nặng. Không ngờ 10 năm sau, nhất là sau thời kỳ bom đạn, sau những trận bom B52 ác liệt, tưởng chừng Hà Nội chẳng còn gì nữa, thấy tôi trở lại, anh em hết sức vui mừng, tôi cũng vô cùng xúc động. Trong 40 ngày, ngoài thời gian đến xí nghiệp phim, tính lại có đến 36 buổi gặp gỡ trò chuyện với bạn bè, trả lời phỏng vấn...

Hôm 27/01/1973, Hiệp định Paris được ký tại hội trường Kléber, một Trung tâm diễn đàn quốc tế (Centre international de conférences). Bạn bè Pháp, anh em Việt kiều..., chúng tôi đứng trước cửa chờ đón đoàn. Đoàn đại biểu của Mỹ đến, nhân dân la ó lên, nên họ cúi đầu xuống, khi đoàn bà Nguyễn Thị Bình đến, cùng với nhân dân quanh phố đấy, chúng tôi hoan hô vang dậy, bà Bình tươi cười vẫy chào.

Trong 40 ngày ở Pháp, ngày nào tôi cũng có những cuộc tiếp xúc, từ 9 giờ sáng đến nửa đêm, có lúc phải đi sang các tỉnh khác, nhưng không thấy mệt. Đi đâu cũng gặp một sự ân cần đón tiếp niềm nở, một không khí hân hoan, làm cho mình cảm thấy vinh dự, tự hào. Vinh dự được làm người Việt Nam, đi đâu ai cũng hỏi: Thế nào? Tại sao thắng được Mỹ? Làm thế nào thắng được Mỹ? Tổn thương, đau khổ thế nào? Ngày mai thế nào?... Có lần, tôi đi taxi, anh lái xe nói chuyện: “Việt Nam có Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất tài. Ngày xưa chúng tôi có Napoléon. Nhưng cũng có trận thua. Còn Đại tướng Giáp thì chưa thua trận nào, thắng Pháp, thắng cả Mỹ”.

Có tờ báo Jeune Afrique của châu Phi non trẻ cử đồng chí Tổng biên tập phỏng vấn tôi đến 3 tiếng đồng hồ, sau đó dành hầu như cả một số tạp chí để nói lý do Việt Nam làm thế nào để thắng Mỹ.

Những anh em thời gian qua đã đóng góp tiền bạc mua sách báo gửi về cũng tổ chức một cuộc gặp mấy tiếng đồng hồ, nói chuyện như phỏng vấn, có ghi âm rồi chép lại đầy đủ.

Có một cuộc họp với một Giáo sư nổi tiếng của Pháp về nghiên cứu nông học nhiệt đới cùng với khoảng 30 nhà nông học của Pháp. Ông giới thiệu: “Đây là những người chuyên về cây lúa, cây chuối, cây dừa, cây tiêu... Anh cho chúng tôi biết tình hình nông nghiệp Việt Nam bây giờ hướng phát triển như thế nào, cần những gì, chúng tôi sẽ giúp”.

Một số trí thức ở Thụy Điển gọi dây nói sang muốn gặp tôi. Theo lời mời của tôi, họ sang Paris, ngỏ ý muốn tặng trẻ em Việt Nam một món quà. Tôi nói trẻ em Việt Nam khổ nhất là sách toàn giấy xấu, không in màu. Nếu các bạn in cho trẻ em Việt Nam một cuốn truyện, giấy đẹp, có hình vẽ in màu thì rất quý. Chúng tôi bàn sẽ lấy truyện cổ tích Việt Nam gửi sang nhờ các bạn Thụy Điển quyên tiền in giúp cho. Họ sang Paris với tôi một ngày, xong họ về. Sau đó, tôi bàn với Nhà xuất bản Kim Đồng lấy cuốn Tấm Cám do Mai Long vẽ, 5-6 màu rất đẹp, có tính dân tộc, gửi sang cho họ. Các bạn Thụy Điển đã in cho 400.000 cuốn, gửi đến Việt Nam, qua Nhà xuất bản Kim Đồng phân phối cho trẻ em trong nước. Hồi ấy, miền Nam chưa được giải phóng, bà con ở những vùng đã giải phóng được nhận sách, tấm tắc khen sao miền Bắc in sách cho trẻ con đẹp thế? Buồn cười là có một ông vụ phó hỏi tôi: Anh nhờ Thụy Điển in cuốn này có thỉnh thị ai không? Tôi bảo là làm việc có ích như thế này thì thỉnh thị chả là vấn đề gì cả, 40 vạn cuốn Tấm Cám này phân phát cho trẻ con, anh thấy đúng hay không đúng? Việc gì phải thỉnh thị. Làm nghề đối ngoại nhiều khi phải quyết định lấy, chờ thỉnh thị có khi mất thời cơ.

Việc trả lời phỏng vấn báo chí, đài phát thanh... cũng vậy. Tài liệu tuyên truyền của ta gửi sang các nước phương Tây rất ít, vì vậy trả lời phỏng vấn là dịp rất tốt để nói cho hàng triệu người nghe, để người ta hiểu rõ, hiểu đúng Việt Nam và đồng tình ủng hộ mình nhiều hơn. Nếu chờ thỉnh thị trong nước, thì họ không chấp nhận, vì báo phải ra ngay, đài phải phát ngay, nến chậm thì họ không làm nữa. Vì vậy, ai phỏng vấn là tôi trả lời ngay, với điều kiện là không được cắt xén, xuyên tạc, bảo đảm in đúng, phát đúng những câu tôi nói, tôi viết.

Sau Hiệp định Paris, Đài truyền hình Pháp cho chiếu phim về Việt nam đã nói trên. Lúc đầu, nhà chức trách Pháp chỉ cho chiếu đoạn 1 về truyền thống và đoạn 3 về đánh Mỹ, không cho chiếu đoạn 2 về kháng chiến chống Pháp, vì trong đó có cảnh đoàn tù binh Pháp sau Điện Biên Phủ đi thành một hàng dài. Lệnh cấm này gây ra một phong trào phản đối khá mạnh trong khán giả Pháp, nhiều thư gửi đến Đài truyền hình đòi xem đoạn 2. Sau đó, nhà cầm quyền Pháp phải bỏ lệnh đó, cho chiếu cả đoạn 2.

Nói chuyện làm phim thì một điều đáng nhớ là việc cộng tác với anh Lương Đức, cô Lệ Mỹ và Xưởng phim để xây dựng bộ phim Đất tổ nghìn xưa. Lúc sắp đến năm 1980, kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đảng, Trung ương muốn có một phim đầy đủ về đất nước con người. Tôi nhận việc chuẩn bị nội dung, bắt tay vào viết năm 1980. Quá trình làm gặp khó khăn là phải duyệt qua nhiều cấp, mà nói về đất nước lúc này thì có nhiều chuyện quá. Nếu làm kiểu này thì không được. Tôi chuyển thành bộ phim Đất tổ nghìn xưa để tránh cái chuyện ngày nay đi, trước hết, giới thiệu cho được sự hình thành đất nước, nền văn hóa của dân tộc, nói rõ tinh thần yêu nước chống ngoại xâm là một yếu tố, chứ không phải là yếu tố quan trọng nhất. Trong 3 truyền thuyết của ta (Sơn Tinh – Thủy Tinh, Con Rồng Cháu Tiên, Thánh Gióng) chỉ có truyền thuyết Thánh Gióng là chống ngoại xâm; còn Sơn Tinh – Thủy Tinh là chống thiên tai; truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên nêu lên tính chất lưỡng đoàn hai phía của dân tộc ta, một là miền núi, hai là miền xuôi, hai miền này có mối quan hệ mật thiết với nhau mới đoàn kết thành đất nước Việt Nam. Phim này là phim đầu tiên được giải “Bông sen vàng”. Sau đưa ra quốc tế được hoan nghênh, vì nói lên được tổng thể của cả lịch sử của dân tộc.

Tổ làm phim gồm anh Lương Đức, cô Lệ Mỹ và tôi, sau này còn làm một số bộ phim khác: Đất nước và con người, Vịnh Hạ Long, Đất Tây Sơn. Phim Vịnh Hạ Long không đưa hình ảnh những hòn đảo nổi lên mặt nước như thường làm. Chúng tôi đi sâu vào trong các hang động mà khách du lịch chưa bao giờ đi tới, việc mang đèn và máy vào rất khó khăn, anh Lương Đức có nhiều lần ngã suýt chết. Bộ phim Đất Tây Sơn được làm năm 1984, nhân kỷ niệm 195 năm về Quang Trung. Chúng tôi vào Quy Nhơn, Bình Định, ở đây gần 1 tháng, được dự lễ kỷ niệm Quang Trung. Lễ được tổ chức rất trang trọng ở xã Tây Sơn, có hàng vạn người tham dự, kể cả cán bộ, nhân dân ở các tỉnh lân cận, Sài Gòn và một số tỉnh phía Bắc. Xứ Tây Sơn gần đèo An Khê, là nơi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sống từ bé. Chương trình buổi lễ có nhiều trò chơi, có voi biểu diễn. Anh Tô Đình Cơ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh băn khoăn: “Nếu mình đọc một diễn văn như báo cáo chính trị giữa một biển người mênh mông như thế này, thì loãng lắm, rất chán”. Anh Cơ trước kia hát tuồng hay nổi tiếng. Tôi gợi ý: “Nếu anh đồng ý thì tôi sẽ viết giúp một bài phỏng vấn theo hịch của Tây Sơn như giọng hát tuồng, có trầm có bổng, có vần có điệu, có trống có chiêng đệm vào, đọc lên sẽ rất là thú vị, có thể gây được ấn tượng sâu sắc trong quần chúng”. Chủ tịch tỉnh đồng ý, nhưng bàn trong Ủy ban, tập thể không nhất trí nên đành thôi. Đến ngày lễ, Chủ tịch tỉnh đọc bài diễn văn, trẻ con chạy nháo nhác, mấy vạn người chẳng ai nghe được gì.

 

Sắp xếp lại cơ quan và chuyện trả lương cho người giỏi

Vào năm 1969, Ủy ban liên lạc văn hóa đối ngoại giải thể, lúc đầu định chuyển các đơn vị báo, tạp chí, Nhà xuất bản Ngoại văn sang cơ quan khác. Tôi đề nghị tập trung 3 đơn vị ấy lại, giao cho tôi phụ trách, vừa làm giám đốc, vừa Tổng biên tập, tất cả vẫn làm việc ở 46 Trần Hưng Đạo. Thực ra, 3 đơn vị này xét về nội dung công việc thì giống nhau (tuyên truyền đối ngoại về đánh Mỹ, truyền thống, văn hóa, xây dựng...) chỉ khác nhau về hình thức thể hiện. Nếu chia ra 3 cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan đều phải có người lo về từng chuyên đề (như nông nghiệp, y tế, giáo dục...) thì biên chế cồng kềnh, từng người cũng không sử dụng hết thời gian, phát huy hết khả năng. Nếu tập trung lại thì người phụ trách chuyên đề nào sẽ đảm trách chuyên đề ấy trong cả báo thời sự, tạp chí nghiên cứu và sách cơ bản, tận dụng được những tư liệu, kiến thức đã tích luỹ được, sử dụng thời gian hợp lý hơn. Về đội ngũ phiên dịch cũng vậy, phải dịch ra 4, 5 thứ tiếng, nếu rải ra thì năng suất thấp. Về công tác hành chính, quản trị cũng vậy. Sắp xếp lại như thế này biên chế giảm từ 100 xuống còn 70 người, bớt 30 người không có nghiệp vụ dịch, viết gì cả. Cơ quan nhà nước mình thường vẫn làm như thế, kéo nhau vào cho đông, làm không được việc, lại hay sinh ra chuyện lủng củng nội bộ. Giải quyết vấn đề này đụng chạm đến nhiều người nên rất căng thẳng.

Trong việc sắp xếp tổ chức, sửa đổi lối làm việc, còn phải chấn chỉnh hàng loạt vấn đề khác nữa. Vấn đề lao động tiền lương còn rất nhiều điều phi lý. Lương do tổ chức cấp trên xét duyệt, giám đốc không có quyền gì. Tạp chí Etudes Vietnamiennes có anh Vũ Cận, rất giỏi, làm việc năng suất rất cao, nhưng tính cũng ngang, có khi làm mất lòng người khác. Mấy lần đề nghị lên lương cũng không được. Tôi đề nghị, ngoài mức lương cố định hàng tháng, phải có định mức lao động. Từng thời gian 3, 6 tháng chẳng hạn, đối chiếu với định mức, ai vượt sẽ được thưởng, ai kém thì yêu cầu phải cố gắng thêm, nếu không, sẽ không xứng. Lần đầu tiên, vấn đề này được nêu ra trong một cơ quan báo chí, gây nên sự bàn cãi xôn xao. Đến lúc đề xuất lên cấp trên thì được đồng ý cho thí điểm. Qua thực tế tiến hành vấn đề này, rõ ràng những người giỏi, năng suất cao, tuy lương thấp, nhưng cuối cùng thu nhập lại nhiều hơn người xếp bậc lương cao hơn.

Lương người đánh máy cũng vậy, người đánh máy tiếng Việt cũng như tiếng các nước khác đều xếp ngang nhau. Yêu cầu ở đây không chỉ là đánh máy giỏi, mà phải có trình độ ngoại ngữ. Nếu ngoại ngữ yếu, đánh máy sai, đưa in, phải chữa đi chữa lại rất khổ và kéo dài thời gian. Tôi đề nghị phụ cấp thêm cho người đánh máy giỏi ngoại ngữ 5đ/tháng mà không được, đến nỗi tôi phải viết giấy gửi lên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, vì đây là vấn đề chung của hàng trăm con người đánh máy ngoại ngữ, không riêng gì ở cơ quan tôi. Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi vào công văn: “Bên Tài chính xem, tôi đồng ý”. Nhưng rồi Bộ Tài chính còn họp bàn với Bộ Lao động, rút cục vẫn không giải quyết được. Có trường hợp, anh bạn trẻ là anh Cư, tiếng Nga rất giỏi vì anh học trường Nga từ bé. Anh lại có khiếu về văn học nên dịch rất tốt. Anh được xếp lương cán sự cấp 3. Nhiều người hơn anh mấy bậc lương nhưng làm không bằng anh. Tôi thấy như vậy thiệt thòi quá, nên đề nghị cho vượt cấp lên cán sự 6. Xảy ra một sự giằng co giữa chi bộ, công đoàn, tổ chức cấp trên với tôi, cãi nhau không biết bao nhiêu lần. Cuối cùng, anh cũng được xếp cán sự 5. Vài năm sau, anh chán cơ quan này chuyển sang giảng dạy bên trường Nguyễn Du (bồi dưỡng nhà văn trẻ). Chúng tôi lại phải thuê anh dịch và chữa bài. Tiền thuê này lại nhiều hơn số tiền lương tăng thêm nếu nâng lương cho anh.

Cơ chế quản lý theo kiểu bao cấp cũng bất hợp lý. Nhà xuất bản cứ giao bản thảo, in đúng kế hoạch, cơ quan khác lo việc bán ra, chi phí lỗ lãi bao nhiêu không cần biết. Việc đánh giá chỉ căn cứ theo đạt hay vượt chỉ tiêu kế hoạch về số lượng sản phẩm, còn chất lượng, hiệu quả không tính đến, dẫn đến cách làm việc chỉ chạy theo thành tích về số lượng một cách hình thức, không quan tâm đến việc tìm tòi mọi biện pháp để thực sự mang lại hiệu quả thực tế. Sau này, nghĩ lại thấy cả một cơ chế quản lý kinh doanh, quản lý kinh tế như thế khó mà tồn tại lâu dài được, tôi giảm biên chế chỉ còn 70%, 70 người còn lại phải cố gắng bảo đảm công việc của số người giảm bớt mà lại không được hưởng thêm gì, nên chẳng cơ quan nào muốn giảm biên chế.

Mấy năm đó, tôi vừa viết sách, báo vừa phải làm công tác quản lý, mất rất nhiều thời giờ giải quyết những sự vụ (lương, thi đua, nhà cửa...), có lúc cũng ngán. May nhờ tập hợp được những anh em viết giỏi, dịch giỏi, vừa năng động, vừa chịu khó, nên đã cùng nhau làm việc có kết quả, ra được những tác phẩm được nhân dân Pháp, Viện Hàn lâm Pháp chú ý.

 

Còn nữa...

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578192

Hôm nay

210

Hôm qua

2352

Tuần này

21391

Tháng này

225249

Tháng qua

130677

Tất cả

114578192