2. Ý nghĩa.
“Xang Khan”, theo nghĩa đen của tiếng Thái Nghệ An thì “xang” là “đóng lại”, “khan” là “bịt lại, hàn lại” một vật nào đó. Theo các ông Mo Môn thì, làm Lễ hội Xang Khan là để “bày tỏ sự tưởng nhớ, sự cảm ơn ‘tổ sư Môn’ (Phi Môn) và cảm ơn các ‘Phi’ (thần) khác đã giúp Mo Môn trong quá trình hành nghề” của họ.
Dựa vào câu cuối cùng của mỗi nghi thức, của mỗi bài cúng trong Lễ hội, ông mo đều nói câu “xang thu xang khan” (rất biết ơn, rất cảm ơn), cùng với sự giả thích của các ông mo, ta có thể kết luận rằng, Lễ hội Xang Khan là Lễ hội cúng tổ sư nghề của những người làm nghề Mo Môn.
3.Vài nét về Mo Môn.
Trong cộng đồng người Thái Nghệ An, những người có khả năng chuyên nghiệp về lĩnh vực nào đó, có ảnh hưởng đến đời sống của cộng đồng, được suy tôn với một danh hiệu kính trọng là “Mo” (mó), có nghĩa là “thầy, nghệ nhân”. Có Mo Môn, Mo Một (như đã nói ở trên), Mo Lăm, Mo Xuối, Mo Nhuôn (nghệ nhân hát dân ca), Mo Xư (thầy giáo), v.v. Trong thực tế, ông mo là người trí thức của dân tộc, người nắm vững chữ Thái, lịch sử dân tộc, hiểu biết phong tục tập quán, biết đối nhân xử thế, có nhiều vốn sống, nhiều
kinh nghiệm trong giao tiếp, làm ăn, biết chữa bệnh bằng kinh nghiệm dân gian, v.v. Vì vậy, các ông mo được cộng đồng rất tôn trọng, kính nể, nhất là các ông Mo Môn lại biết chữ bệnh bằng khài cúng, diệt tà, trừ ma, làm cho người ta tai qua nạn khỏi… Đồng bào trước đây quan niệm rằng, mọi sự bất ổn, hoạn nạn trong gia đình, nhất là ốm đau, bệnh tật đều do “con ma” làm. Ông MO Môn là người có khả năng “liên lạc, tiếp xúc” được với các thần linh, với các “con ma”, để điều khiển nó, nên càng được đồng bào kính nể. Vì vậy, ngày tổ chức Lễ hội Xang Khan của ông Mo Môn có nhiều người đến giúp công, giúp của, nhất là những người được ông cứu chữa khỏi bệnh tật gọi là “con bệnh”, nhân ngày này đều có quà đến chúc mừng, trả ơn như rượu cần, gà lợn, áo quần mới cho thầy, chăn đệm, mũ nón (cúp hụm), tiền bạc, v.v.
Để trở thành mo, nhất là Mo Môn, thì phải đi học nghề, phải mất tiền và làm công cho người dạy. Trong quá trình dạy phải chịu cảnh sinh hoạt rất khắt khe, như phải học thuộc lòng, phải nhớ, không được ghi chép. Hàng ngày không được trò chuyện với người ngoài; cơm ăn mỗi bữa chỉ được một bát; ban ngày đi làm công cho thầy, ban đêm phải học bài đến khuya… Qua sát hạch, thầy cho hành nghề đến đâu thì hành nghề đến đó, sau mới nâng bậc dần. Càng khổ học, học càng nhiều năm, thì hành nghề mới giỏi, mới điều khiển được nhiều “ma”, chữa được nhiều bệnh…
Ngoài bàn thờ ma nhà (tổ tiên), ông Mo Môn còn có bàn thờ ma Môn ( tổ nghề) riêng, đặt ở buồng kín trên đầu giường, nơi ông nghỉ. Bàn thờ ma Môn là một tấm phên hình chữ nhật dài khoảng 60 cm, rộng 40 cm. Phía trong được gác lên đòn tay của mái nhà, phía ngoài được buộc 2 dây ở đầu gốc tấm phên và treo lên phía trên của mái nhà. Trên bàn thờ có một đĩa hoa gồm các miếng sáp ong (số lượng tùy từng nhà), trên miếng sáp ong là chùm hoa bằng ruột bấc cây Tàng nhuộm nhiều màu gọi là “khắn hà”, và vài cái chén nhỏ. Phía dưới treo từ một đến 2 cuộn sợi vải, kiếm, túi vải, trong đó có các thứ “ép” (giỏ) mây đan đẹp, trong “ép” có vài cái chén nhỏ, những thỏi đồng bằng ngón tay, gọi là “ngân xiên”, 1 cái quạt giấy và một cái khăn thổ cẩm dài khoảng 2 m, rộng 30 cm (gọi là “khắn môn”, tức là khăn của Mo Môn) và áo của những người đang được ông chữa bệnh…
Khi đi hành nghề chữa bệnh, hoặc làm lễ, ông Mo Môn đeo kiếm vào thắt lưng, vai đeo túi vải lấy ở bàn thờ ma Môn ra, đầu chít khăn thổ cẩm, tay cầm quạt giấy… Đó cũng là lễ phục và đồ hành nghề tùy thân của ông Mo Môn (khăn tổ cẩm, quạt giấy, kiếm).
4. Thời gian và không gian tổ chức Lễ hội Xang Khan.
Theo quy định của tổ tiên truyền lại, cứ 3 – 4 năm (tùy theo từng môn phái), ông Mo Môn phải một lần tổ chức Lễ hội Xang Khan. Lễ hội Xang Khan được tổ chức tại nhà ông mo (gồm trên nhà, dưới sân, dưới gốc cây to) và do chính ông chủ trì.
Các ông mo thường chọn ngày “khóa ngang” của tháng chẵn sau vụ thu hoạch lúa mùa (rẫy) theo lịch Thái để tổ chức Lễ hội Xang Khan. Quy mô cuộc Lễ lớn hay nhỏ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế gia đình.
II. Nội dung Lễ hội Xang Khan.
1. Lễ vật cúng tế và người hành lễ.
Để tổ chức một Lễ hội Xang Khan, gia đình ông mo phải chuẩn bị lương thực, thực phẩm như; tiền, gạo, gà (tối thiểu hàng chục con), lợn (1 con trên 50 kg), rượu siêu (rượu cất, hàng chục lít), rượu cần (trên vài chục vò), … Số lương thực, thực phẩm này có nhà phải chuẩn bị trước hàng năm. Khi vào lễ chính thức, phải có đầy đủ các đồ thờ cúng, các mâm lễ và một ban hành lễ như sau:
1.1. Đồ thờ cúng.
a/ Một mâm cúng (phướn khài), gồm: 1 đĩa trầu cau, 2 chai rượu, 4 cái chén nhỏ, 1 đĩa hoa thờ, gọi là “khắn hà”, 1 cuộn sợi vải trắng, gọi là “phài cọọng ò”, 1 cái kiếm (dài chừng 50 – 60 cm, bản rộng khoảng 4 cm), 1 bát gạo đầy, trong đó cắm 1 quả trứng gà (chưa luộc), 5 – 6 thỏi đồng hình thuyền bằng ngón tay, gọi là “ngân xiều”, 1 ngọn nến … Tất cả được bày trong 1 cái mâm, trong có lót 1 tấm vải thổ cẩm. Mâm cúng này gọi là mâm “phướn khài”.
b/ Các “dù vải” màu hình vuông (mỗi cạnh khoảng 40 cm, các cạnh viền rua bằng các sợi vải màu thắt nút lại, giữa các nút thắt ấy lại xâu vào các các con sót trúc nhỏ). Các “dù vải” này có cán cầm là những đoạn nứa hoặc trúc (đường kính từ 3 – 4 cm, dài khoảng 50 cm, được lau mắt trơn đẹp), 2 thanh nứa (mỗi thanh dài khoảng 40 cm, đặt vuông góc với cán cầm để căng 4 góc tấm vải dù ra). Dù vải này gọi là “Cúp hụm”. Số lượng “Cúp hụm” của mỗi cuộc lễ phải có từ 8 cái trở lên.
c/ Một cây “hoa thờ” (xặng tàng) cao khoảng 4 m, trên cùng là 1 “cúp hụm” đẹp, tiếp đến là “giàn hoa”, bao gồm các thứ như: dây “tàng xòi”, cành “tàng chỏ”, (dài từ 40 – 50 cm, làm bằng những mẩu ruột bấc cây “Có Tàng”, nhuộm màu, xâu lại bằng sợi tơ bền; cành “tàng chỏ” được xâu bằng các thanh tre vót tròn, trơn. Các con chim, con vật, các vật dụng khác được nhuộm nhiều màu, mỗi thứ được cột vào 1 thanh nứa để làm cán cắm vào các lỗ hổng quanh cây nứa to, dài khoảng 40 – 50 cm. Ngoại trừ 2 con vật như con ve sầu (tô chắc chẳn), con quạ (nộc cá léo) là phải làm bằng những thanh tre mỏng được đan kết theo hình thù của con vật và có cách điệu theo một quy định từ xưa để lại. Bài cúng có câu nói về 2 con vật đó như sau; “Chắc chẳn bò mi tá, cá léo bò mi xày”, nghĩa là: “Ve sầu không có mắt, con quạ không có ruột”. – con lại là làm bằng ruột bấc cây “Có Tàng”. Cây hoa thờ (xặng tàng) là một biểu trưng của Lễ hội Xang Khan. Theo quan niệm của đồng bào: Lễ hội Xang Khan là phải có cây hoa thờ (xặng tàng) này. Không có cây hoa thờ (xặng tàng) thì chưa phải là Lễ hội Xang Khan.
d/ Chùa tháp 9 tầng (cầu thàn), hình khối chữ nhật, cao khoảng 30 cm, mỗi mặt rộng từ 4 – 5 cm, làm bằng khung nứa, chăng các sợi tơ nhiều màu. Tháp này gọi là “Cầu thàn”. Có “pụm pá” (cá) làm bằng các thanh nứa nhuộm màu, được kết gióng hình một con cá lớn. Có “tẳng kèo” (ghế ngọc) gồm 3 cái kiếm gỗ (tượng trưng cho 3 cái kiếm thật) cột chéo nhau bằng 1 cuộn sợi vải, cho phần lưỡi kiếm hướng về phía trên. Đây là ghế ngồi của Mo Môn tổ khi xuống dự lễ.
Theo phong tục trước kia, bên cạnh cây “hoa thờ” (xặng tàng) còn có “giàn hoa thờ” (xặng bọọc). Các loại hoa trang trí ở đây là hoa rừng, trừ hoa của các loài cây thuốc dành cho phụ nữ sinh đẻ, còn lại là tất cả các loại hoa rừng trong mùa đều được cắm vào, cốt làm sao cho cây hoa càng rực rỡ thì càng linh thiêng cho cuộc lễ.
1.2. Các mâm lễ.
a/ “Bán thốn”: là mâm lễ lớn, gồm các thứ xôi thịt, cá nướng, cơm lam, canh lam, các loại rau, bầu bí, các loại khoai, chuối chín… được bỏ vào một cái mâm đan bằng mây, hoặc đan bằng tre nứa, được phủ kín bằng một tấm vải thổ cẩm, trê che bằng một cái ô “cúp hụm” đẹp. Bán thốn là mâm lễ để cúng tổ tiên mo chủ nên gọi là “phướn chầu” (mâm chủ).
b/ “Bán ván”: là những mâm lễ nhó, có đường kính từ 10 – 15 cm, cao chừng 20 cm, trong đó có các thứ: rau, bầu, bí, các loại khoai… đã nấu chín. Bên cạnh “Bán ván” là những “vò rượu cần” bằng ống nứa tượng trưng. “Bán ván” là những mâm lễ cúng các loại “ma” của mo chủ (mó chầu). Số lượng “bán ván” được tăng dần theo số lần tổ chức lễ hội của mo chủ (mó chầu), tối đa là 120 mâm.
c/ “Bán máy bảy”: là mâm lễ cúng “ma chữa bệnh”, gọi chệch đi là “manh giáy” (thần ong bò vẽ), gồm có một bát nước lã, trong đó có một vài mẩu vỏ quế và được bày vào một cái mâm đan bằng tre nứa, hoặc bỏ vào một cái rá, hay rổ.
2. Ban hành lễ.
Gồm có bộ phận: thầy mo, “chà kháy”, “chà cống”, “bảo tồn ò”, “xáo chìa pô”.
2.1. Bộ phận thầy mo:
Gồm co mo chủ tế (mó chầu), các mo bạn làm bồi tế. Số lượng mo bạn nhiều hay ít tùy thuộc vào khả năng gia đình mo chủ mời, và quy mô cuộc lễ. Mo chủ và các mo bạn thay nhau đọc các bài cúng và đóng các vai “ma”. Mo chủ chịu trách nhiệm đọc các bài cúng chính và đóng các vai “ma” quan trọng. Nếu mo chủ còn có “mo khu” (mo thầy) thì mời về làm chủ tế cho mình. Những cuộc lễ có “mo khu” làm chủ tế thì không khí lễ hội trang nghiêm và thiêng liêng hơn. Lễ phục các thầy mo là áo dài và khăn thổ cẩm vấn trên đầu.
2.2. Bộ phận “chà kháy”, “chà cống”:
a/ “Chà kháy”: là một ông mo thạo việc có nhiệm vụ đánh cồng điều hành các nghi lễ, mời rượu các mo đóng vai “ma”. Lễ phục gồm 1 cái khăn vắt vai, tay cầm chiếc cồng.
b/ “Chà cống”: là những người đánh trống, chiêng, “tăng bòòng bú” (ống tre), xụp xẻng (chũm chọe), phục vụ các trò diễn, múa hát của các mo, các “xáo chìa pô”,…
2.3. Bộ phận “bảo tồn ồ”, “xáo chìa pô”:
a/ “Bảo tồn ồ”: là hai chàng trai có nhiệm vụ làm “chàm” (phục vụ việc uống rượu) mời các mo và mọi người đến dự lễ uống rượu cần.
b/ “Xáo chìa pô” (cũng gọi là “xáo chạp ma”): là hai cô gái có nhiệm vụ mời rượu, mời trầu, cầm “cúp hụm” theo hầu các mo làm lễ, nhảy múa quanh cây hoa, chum rượu, ăn mặc, trang điểm đẹp. Về sau những cô gái này người ta gọi là “xáo xang khan”, tức là những cô gái phục vụ trong Lễ hội Xang Khan, và cũng có nghĩa là “những cô gái đẹp” nói chung.
“Bảo tồn ồ” và “xáo chìa pô” được mo chủ (mó chầu) chọn trong số nam thanh, nữ tú trong bản mà ông mời về để giúp việc trong cuộc lễ. Vì vậy những người này cũng được gọi là “bảo chợ”, “xáo chợ”, tức là “trai giúp việc”, “gái giúp việc”.
3. Những nghi thức Lễ hội Xang Khan.
3.1. Nghi thức “pay xọọc tàng” (đi kiếm cây tàng/ cây hoa).
Theo quan niệm của các thầy Mo Môn, “pay xọọc tàng” là một công việc quan trọng của lễ hội, nên phải đi vào ngày “khóa ngang”. Trước khi đi phải mở vò rượu cúng, báo cáo với “ma nhà” (tổ tiên) và xin “ma nhà” phù hộ, phải có lễ vật và một số đồ thờ đưa vào rừng – nơi có cây Tàng để cúng xin “thần rừng”. Khi chặt cây Tàng, ông mo chủ (mó chầu) phải chặt trước vài nhát, và làm rất thận trọng, nhất là khi đẩy ruột bấc ra khỏi phần thân gỗ cây Tàng làm sao cho rụt bấc thoát nhanh, tung lên cao và không nát vụn ra – đó là điềm may cho lễ hội được tốt đẹp. Chặt tre nứa thì phải chọn những cây có ngọn ngả về phía mặt trời mọc và tránh chặt cây có dây leo vấn quanh thân cây, gọi là những cây bị “xá léo” (rắn quấn), kiêng!
Ruột bấc cây Tàng đem về được cắt ra thành từng khúc, từng mẩu, nhuộm thành các màu theo ý định để làm các thứ cho cây “xặng tàng” như: dây “tàng xòi”, xái mương (dây mường), cành “tàng chỏ”, các con chim, con vật, các đồ dùng của thần linh…
Tre nứa được chặt, chẻ ra theo ý định, thứ thì để làm cột trụ cây hoa, thứ thì làm ống đựng rượu cần, thứ thì để đan các mâm lễ, thứ thì đan các con chim, con vật như: “tô chắc chẳn” (ve sầu), “nộc cá léo” (chim quạ), “ngua pả” (bò rừng), v.v.
Các thứ nói trên làm được đến đâu thì tập trung lại, treo/ dắt lên các vách nhà, hoặc các cột nhà (không được để vương vãi trên nền nhà, và để người ta bước qua), và phải hoàn tất trước ngày vào hội.
3.2. Nghi thức đón “mó khu” (mo thầy), “mó pạn” (mo bạn).
Đến ngày hẹn, người ta đón “mó khu” (mo thầy) “mó pạn” (mo bạn) về. Các mo này mang theo đồ hành nghề tùy thân như kiếm, quạt giấy, khăn Môn, và dẫn các “bảo tồn, xáo chợ” (trai gái giúp việc) đến nhà Mó Chầu (mo chủ). Khi đến gần nhà mo chủ, mo thầy và các mo bạn cho các trai gái giúp việc của mình đánh cồng báo hiệu. Nghe tiếng cồng ngoài ngõ, gia đình cử người ra sân đón rước khách lên nhà.
Mo chủ mở vò rượu khấn xin “ma nhà” (tổ tiên) được đón tiếp “mó khu” (mo thầy) và các “mó pạn” (mo bạn) đến giúp tổ chức Lễ. Khách ngồi quanh vò rượu cũng cầu khấn xin “ma nhà” để được giúp mo chủ làm Lễ. Rồi mọi người cùng uống rượu trong không khí “cộng cảm” thiêng liêng. Sau vài tuần rượu, mọi người vừa uống vừa nói chuyện, hỏi thăm nhau giữa chủ nhà và khách, giữa khách và khách. Sau đó mọi người chuẩn bị làm lễ gội đầu (gọi là “xạc húa”), thanh tẩy trước khi vào Lễ.
3.3. Nghi thức “xạc húa” (gội đầu).
Trước khi cúng tế, mọi người phải ra suối gội đầu (gọi là “xạc húa”) để cho đầu tóc được sạch sẽ, hồn vía được mát mẻ, con người được khỏe mạnh. “Mó khu” (mo thầy) tay cầm nến đỏ, lưng đeo kiếm, đầu chít khăn thổ cẩm đi trước. Tiếp theo là “mó chầu” (mo chủ) và các “mó pạn” (mo bạn). Đi sau các/ mỗi ông mo là “bảo tồn, xáo chợ” (trai gái giúp việc) bưng đĩa trầu cau, rượu, chậu thau nước vo gạo cùng với bồ kết, lược chải, “cúp hụm” (ô) che đầu mo, cồng…Đoàn người đi, vừa đi vừa đánh cồng. Đến bến, mọi người dừng lại, đứng quanh mo thầy (mó khu). Mo thầy khấn xin thần “bỏ nặm” (nguồn nước) cho được gội đầu. Khấn xong, mo thầy hiến rượu, hiến trầu cau cho dòng nước (rót rượu, ném trầu cau xuống nước), rồi cởi búi tó trên đầu, lấy nước trong chậu thau thấp lên đầu, và thoa lên mình. Sau đó mo thoa nước vo gạo lên đầu và mình các mo khác. Ông chia nước vo gạo cho các mo. Và mọi người (các mo) bắt đầu gội đầu với sự giúp đỡ của các “bảo tồn xáo chợ” (trai gái giúp việc). Gội đầu xong, các mo rút kiếm ra rửa nước suối cho sạch. Cuối cùng, mo thầy (mó khu) đọc bài cúng tạ ơn thần nước rồi mới ra về.
3.4. Nghi thức “kháy đàn” (mở cửa, mở màn).
Xong lễ gội đầu (xạc húa), về nhà thì trời vừa tối. Cơm nước xong, mọi người sửa soạn làm lễ “kháy đàn” (mở cửa, mở màn). “Chà kháy” (mo điều hành) đến ngồi cạnh “tẳng kèo” (ghế ngọc), gióng lên một hồi cồng dài. Lập tức các mo đến ngồi cạnh các “phướn khài” (mâm cúng), sửa sang lại khăn chít đầu, rút kiếm ra đặt vào mâm, một tay cầm quạt, một tay cầm nến, nghe “mó khu” (mo thầy) đọc bài cúng “bắc chầu hỉnh” (gọi/ mời chủ bàn thờ = ma nhà, tổ tiên) – theo điệu “xến” mời tổ tiên ở bàn thờ Môn xuống xem việc chuẩn bị làm lễ của con cháu, báo cho “ma” ở Mường Trời biết để xuống hưởng, tất cả các thần núi, thần sông, thần đất, v.v. biết để đừng quấy phá, cho cuộc lễ đạt kết quả tốt, chủ nahf sẽ cho ăn…
Cúng xong, các mo tiến về chum rượu, cầm lấy cần và buộc cây nến đỏ của mình vào, làm thành một “vòng hoa đăng” xung quanh chum rượu. Mọi người bắt đầu uống rượu, trong tiếng hát Nhuôn (một điệu dân ca Thái Nghệ An) mời của các “bảo tồn xáo khóa/ bảo tồn xáo chợ” (trai gái giúp việc) có đệm tiếng cồng chiêng rộn rã, vang vọng cả một vùng bản mường rừng núi, dưới ánh sáng huyền ảo lung linh của những ngọn nến…
3.5. Nghi thức “púc xặng tàng” (dựng cây hoa).
“Xặng tàng” (cây hoa) là một cây nứa dài chừng 4 m, được khoét lỗ xung quanh; để cắm que vào làm “cành”; trên “cành” treo các loại hoa tự làm, các loại chim, ve sầu … đan kết bằng nan nứa. Trong đó nhất thiết phải có “cá léo” (quạ), “mạ pịch” (ngựa có cánh), “hưa lôm” (thuyền gió) – 3 vật và sự vật này có chức năng “đi lại” giữa Mường Trời và Mường Đất để đưa “những người trời” xuống dự lễ hội và trở về; và đưa hồn vía người về trời, v.v. Cây hoa (xặng tàng) là một vật biểu trưng đặc biệt, là vật thờ chính và thiêng liêng nhất của Lễ hội Xang Khan. Cây hoa này bao giờ cũng phải được tiến hành “dựng” (púc) lúc giao thừa, mở đầu một ngày mới (cũng là một năm mới – theo nông lịch Thái). Khi thời khắc sang canh vừa đến, “chà kháy” (người điều hành lễ hội) bắt đầu nổi cồng liên tục, giục giã. Mọi người tập trung vào giữa nhà. Cây hoa được đem đến; “gốc” cây tựa/ chống xuống sàn nhà; “ngọn” cây hướng về phía bàn thờ. Mọi người bắt đầu lấy các thứ: tàng xỏi, tàng chỏ (ruột bấc cây tàng), chim muông, thú vật, ve sầu, quạ “cá léo”, v.v. cắm vào các lỗ trên cây nứa, làm thành các “cành” hoa. Lúc này cây hoa nhìn như một “dàn hoa” (xặng) rực rỡ. Các thầy mo lại đứng xung quanh cây hoa, giơ kiếm lên, đầu mũi kiếm gắn một ngọn nến sáng. Họ vừa “soi” cây hoa, vừa đọc bài cúng theo điệu Nhuôn (dân ca Thái Nghệ An). Các “bảo tồn xáo khóa” (trai gái híup việc) bắt đầu cầm ô (cúp hụm) múa vòng quanh. Trống chiêng càng nổi lên giục giã hơn. “Mó khu” (mo thầy) hô vang một tiếng: “Púc xặng tàng!” (Dựng cây hoa!). Thì lập tức mọi người, con cháu trong nhà xúm lại “dựng” (púc) cây hoa lên, cố định nó bằng cách buộc chằng với sàn nhà và cột trụ (cột chuyên dùng để buộc cây hoa trong lễ hội Xang Khan). Cây hoa có 1 “dây mường” làm bằng vải sợi chập nhiều màu, nối Mường Trời với/ xuống Mường Đất (trần gian) là mâm cúng (phướn khài) để các Phí (thần linh) về dự lễ hội. Dưới “gốc” cây hoa người ta cột vào 3 vò rượu (1 vò to và 2 vò nhỏ). Những vò rượu cần này được trang trí ở miệng vò bằng những hoa văn hình núi non (giấy cắt hình răng cưa buộc vào). Cây hoa “xặng tàng” là “cây đa, cây si” thần, là “cây vũ trụ” mà con người phải “nhờ cậy”, “chinh phục” đầu tiên khi từ Mường Trời xuống trần gian (Mường Đất).
3.6. Nghi thức bày các mâm lễ.
Các mâm lễ gồm có: “Bán thốn, “bán ván, “bán máy bảy”. “Mó khu” (mo thầy) đọc bài cúng để mọi người bày soạn các mâm lễ và bưng đặt lên bàn thờ. Mâm “bán thốn” dành để thờ Mo Môn (tổ sư nghề), được mọi người khiêng/ nâng (xúm tay vào) đưa đến đặt dưới/ trước bàn thờ Mo Môn. Mâm “bán ván, “bán máy bảy” được dành để thờ các thần linh còn lại (tổ tiên, trời đất, sông núi, bản mường…) đặt riêng trên một bàn thờ ở trên cao. Mo thầy cúng, xướng các thứ có trong mâm cỗ và mời các “vị” thần về hưởng. Ban nhạc lễ cồng chiêng gióng lên, hòa theo lời cúng, khi bổng khi trầm, làm cho không khí lễ hội càng linh thiêng. Cúng các mâm cỗ xong, “Mó khu” (mo thầy) chuyển sang cúng các vò rượu, mời các “vị” thần ăn no rồi thì quay sang uống rượu.
4. Các nghi lễ cúng.
4.1. Nghi lễ cúng “bắc tồn hỉnh” (tổ sư mo môn).
“Bắc tồn hỉnh” là “gọi/ mời thần gốc”; “thần gốc” ở đây là tổ sư Mo Môn ở Mường Trời (mương phạ). Bên dưới tổ sư là các đồ đệ/ đệ tử, gọi là “muột” (nhóm). Có “muột cặm hươn” (nhóm thần chống nhà), “muột thén lôm” (nhóm thần gió), “muột quạt hươn’ (nhóm quét nhà), “muột pú phục” (nhóm trải chiếu), “muột mả khầu’ (nhóm ngâm gạo [để hông xôi]), “muột muột ẻn mạ” (nhóm phi ngựa), “muột mó bắng” (nhóm thần tàng hình), “muột tọọc lắc chạng” (nhóm đóng cọc voi/ săn voi), “muột phỏ nhá lếch” (nhóm thần bảo vệ), “muột khu tồn lông nẳng tẳng kèo” (nhóm thầy xuống ngồi ghế đẹp), “muột khu cốc khu cáng” (nhóm thầy ‘gốc’ thầy ‘giữa’/ thầy dạy học trò), “muột mó khống phọn đạp” (nhóm mo gươm chém không đứt/ có phép/
xương đồng da sắt), “muột mó khống lực liệng” (nhóm mo có phép, chữa bệnh), v.v. “Mó khu” (mo thầy) khi cúng phải “gọi/ mời” cho hết những “muột” (nhóm) này xuống để các “vị” đó hưởng lễ, thì các “vị” mới phù hộ độ trì cho, lễ hội mới thắng lợi!
4.2. Nghi lễ cúng “chành tang” (mời người nhà trời).
“Chành tang” là “quét đường, làm sạch đường”, để (tiếp tục) đón các “vị” thần ở trên Mường Trời xuống hưởng lễ. Đó là các “muột” (nhóm): “Muột nang kèo” (nhóm các cô gái đẹp, nói hay), “muột nang hiềm” (các cô gái yêu quý, mắt tinh), “muột phở nhà phố” (những vị thần ăn đọt cây mây, cây song), “muột chầu nọi tư phạ hổm háo” (những chủ nhỏ quản trời mờ trắng/ các quý tộc Mường Lào), “muột chầu pha lai lông tư hổm đón” (những chủ chăn hoa xuống đắp cho mọi người), “muột mó khỉ chạng mi cầu phăn húa/ khỉ ngua mi cầu phăn nà” (những mo cưỡi voi có 9.000 đầu [con]/ cưỡi bò có 9.000 mặt [con]), “muột chầu pha lết, chầu pha lai” (những chủ chăn hoa, chủ chăn thêu/ mo xem ngày, bói xem việc), “muột nang kèo phù chánh pỏng” (những nàng đẹp ‘mở thông đường’/ các bà đỡ đẻ), “xám xíp xợ mương mẹt tỉ xí” (30 thợ Mường Mẹt [Lào] xây nhà), “muột nang khăm chắn tư ngằm lọọc tang” (những nàng Khăm Chắn [mường Chăn, Viêng Chăn - Lào] đeo bông hoa tai đi đường), “muột mó moi khầu” (những mo ‘xem’ [ăn] cơm, ăn cỗ ‘bán thốn, bán ván’), “muột phỏ nhá lếch nhá phố lông pằm pả” (những ông dao sắt dao thép xuống phá rừng/ người Khơ Mú xuống chặt cây đa có ma quỷ hại người), “muột nhả hảng nủng xìn lai’ (những con tinh tinh, đười ươi mặc váy hoa), “muột càng cỏi dủ thằm viêng hín” (những con Càng Cỏi [quỷ tàng hình] ở hang ‘thành lũy’ đá), “muột ngược phù hang phưa” (những con rồng đực, đuôi quấn nhau), “muột xưa xà ky chẻo nắng quai” (những người Khơ Mú ăn món ‘chẻo’ da trâu), “muột mưới ky đươi” (những con gấu ăn ngô), “muột xà pu cưởm chết xén, xà pu xén chết mửn” (người Xá núi Cườm 70.000, Xá núi Xén 700.000), … Đây là những người/ thần giúp Mó Môn (mo tổ) trong quá trình hành nghề.
4.3. Nghi lễ “xơ pủ xừa lắc xớn” (cúng thần bản mường).
“Pủ xừa” hay “pủ chầu xừa” là “ông áo”, “ông chủ áo”, tức là “người khai mường lập bản”, “thần bản mường”, được thờ ở ngoài bản, bên “cột mường” (lắc mương/ lắc xớn). Cho nên nói “pủ chầu xừa lắc xớn” là nói “thần bản mường”. Lễ vật gồm 1 mâm cỗ và 1 vò rượu cần với 9 cái vòi trúc (9 vòi, số lẻ, dành cho ma). “Mó khu” (mo thầy) cúng mời Pủ Xừa/ Pủ Chầu Xừa (thần bản mường) ăn, uống rồi mời các “ma” khác (không người thờ cúng) đến ăn, uống, kẻo chúng quấy phá.
4.4. Nghi lễ “xơ ky yền” (cầu yên).
“Xơ ky yền” là “cúng cầu yên”. Lễ vật của “cúng cầu yên” là 9 mâm xôi thịt, được dọn ra thành 1 hàng dọc, theo thứ tự như sau: 1) Mâm thờ tổ tiên của “mó chầu” (mo chủ/ chủ nhà), gồm 1 cái thủ và 1 phần tim, gan, lòng của con vật; 2) Mâm cúng bố mo chủ (đời ông), gồm 1 đùi trước, 1 phần tim, gan, lòng của con vật; 3) Mâm cúng các “vị” thần đã đến giúp mo chủ, gồm khấu đuôi, 1 phần tim, gan, lòng của con vật; 4) Tiếp theo là 1 dãy 6 mâm cỗ để cúng các “thần/ ma” khác của gia đình (đằng ngoại, họ hàng, thần chống bão, thần bếp, bà giữ nhà, thần gia sức, v.v.), mỗi mâm gồm 3 nắm xôi, 3 phần thịt, 1 ít tim, gan, lòng của con vật, 3 đôi đũa đặt chồng chéo nhau. (số lẻ, đã nói ở trên). Mục đích là cúng cho tất cả “mọi thành phần” đều được ăn, uống, để phù hộ độ trì, có được cái “yên” trong nhà.
5. Nghi thức “nang ò” (trổ tài phép thuật).
“Nang Ò” là “nàng Ò” ở Mường Trời – 1 người con gái tượng trưng cho “thần tình yêu và sự buông thả”. Trong lễ hội Xang Khan thì Nàng Ò “nhập” vào quả trứng sống, trứng trở nên linh thiêng, các mo có thể xem/ bói trứng mà biết bệnh tật, hồn vía con bệnh ở đâu, v.v. Sau khi cúng cầu yên xong, các mo lấy quả trứng trong mâm lễ “phướn khài” ra để “xiểng vắn” (xem hồn vía), “xiểng xừa” (xem áo, tức là xem hồn vía ở áo người bệnh). Mo hà hơi vào quả trứng, đặt trứng vào lòng bàn tay, đọc phù chú, dùng phép thuật dựng đứng quả trứng lên trước sự khâm phục/ kinh ngạc của mọi người. Mo “phán” gì mọi người cũng phải nghe. Tiếp theo là các mo “trổ tài” với áo người bệnh. Họ lấy áo người bệnh (có hồn vía ngụ), đọc phù chú, rồi quấn áo đó vào cán gươm, dựng mũi gươm xuống sàn, thả ra mà gươm vẫn đứng vững. Làm được như thế, tức là các mo được “nâng ngạch 1 bậc”, sau lễ hội này – sẽ có nhiều người đến mời mo chữa bệnh, có nhiều người làm “con nuôi” (lực liệng) cho mo. Hiện tượng sa man giáo, xuất thần như trên (và nhiều cái khác nữa) chưa được nghiên cứu đầy đủ. Hồi nhỏ chúng tôi cũng đã được chứng kiến cái ‘tài” của các mo Môn (ở đây chúng tôi chỉ xin dừng lại ở những “thông tin” như trên).
6. Nghi thức “pằm xặng tàng” (hạ cây hoa).
“Pằm xặng tàng” là “đẵn/ hạ cây hoa” của lễ hội mà đã “dựng” trước đây. Sau một loạt các “nghi thức lễ hội” ở trên, đến đây phần “lễ” đã đi về cuối. Để kết thúc phần lễ, cần tiến hành 3 nghi thức nữa: 1) Cuột xiểng vắn nọc nọọng, 2) Áo nhông pề lầu, 3) Pằm xặng tàng.
6.1. Lễ “cuột xiểng vắn nọc nọọng” (gọi hồn vía về).
“Cuột xiểng vắn nọc nọong” là “gọi vía con cháu về”. Cây “hoa trời” (xặng tàng) quá đẹp, lễ hội Xang Khan quá vui, hồn vía con cháu dễ bị “mê hoặc”, quên về nhà, nên phải “gọi hồn vía con cháu về”, trước khi lễ hội kết thúc. “Mó khu” (mo thầy) cầm cây nến đi soi từng cành, từng bông hoa, soi khắp nơi để “tìm” hồn vía, đánh thức và gọi về nhà, không để “sót” một ai! Ông đưa mũi kiếm dí vào cây hoa, làm cho cây hoa rung rinh, đánh thức các hồn vía. Nếu có cái gì rơi xuống (một cánh hoa, một con ve sầu, một con quạ, v.v.) thì ông nhặt lấy, đưa cho người nào ở gần nhất, xem như đó là vía của người đó đã về, nhập vào với “thân chủ”. Thỉnh thoảng ông vung kiếm lên để “dọa ma”, để “ma” không “giữ” hồn vía con cháu ở lại!
6.2. Lễ “pằm xặng tàng” (hạ cây hoa).
“Pằm xặng tàng” là “đẵn hạ cây hoa” (như trên đã nói). “Mó khu” (mo thầy) đọc bài cúng, xin phép được “hạ cây hoa”. Đọc xong, ông vái 5 vái, rồi tiến đến rút các vòi trúc ra khỏi vò rượu cần, nhấc cây hoa lên. Mọi người xúm vào đỡ cây hoa xuống. Sau đó là bưng các mâm lễ ra. Người ta dỡ cột trụ cây hoa xuống và gác lên xà nhà cất cho lễ hội sau.
6.3. Lễ “áo nhông pề lầu” (mang rượu về trời).
“Áo nhông pề lầu” là “chú mang gùi rượu”. “Chú” ở đây là “chú Khơ Mú”. Cây hoa và vò rượu dùng để “đón chào/ thết đãi” các “vị thần” từ Mường Trời xuống. Nay lễ Xang Khan đã xong, cần phải mang những thứ đó về trời cho người nhà trời. Người Khơ Mú rất thông thạo việc phục vụ. Vậy phải cử một người Khơ Mú đi. Thế là một người “đàn ông Khơ Mú” (do 1 thầy mo đóng vai) lĩnh lấy trách nhiệm này. Ông ta lấy 1 cuộn sợi vải dài, bó gộp cây hoa với vò rượu, gùi lên sau lưng, mang đi trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người. Sau đó trẻ em được phép xông vào cây hoa, bứt lấy những bông hoa, ve sầu, chim, thú, ngựa cánh, thuyền gió, quạ léo, v.v. để làm đồ chơi, cũng là để/ tin rằng “hồn vía” của mình đã “về với chủ”. Cảnh này vui đến nỗi có người lớn cũng “tham gia”.
7. Các trò diễn và trò vui trong lễ hội Xang Khan.
Lễ hội Xang Khan không thật sự tách bạch giữa phần “lễ” và phần “hội”, mà nó xen kẽ nhau. Cứ sau mỗi nghi thức, nghi lễ là một trò diễn minh họa cho nội dung của nghi thức, mô phỏng lại hành vi của các thần linh, các “ma” trong nghi thức đó. Hết nghi thức, trò diễn này lại đến nghi thức, trò diễn khác. Cứ như thế cho đến lúc tan hội. Tóm lại, lễ hội Xang Khan là tổng hợp của nhiều lễ hội nhỏ móc xích với nhau.
7.1. Trò diễn.
Ở trên chúng tôi đã giới thiệu các “người nhà trời”, các vị thần linh, các “ma”, các “muột” (nhóm người/ ma/ quỷ), v.v. xuống dự lễ hội. Những ông “mó pạn” (mo bạn) của “mó chầu” (mo chủ) có nhiệm vụ đóng vai các “người nhà trời” kia, để khi “mó khu” (mo thầy) thực hiện nghi thức gì, đọc bài cúng nào, có liên quan đến ai (nhân vật nào) thì người đó phải ra trình diễn vai của mình (vì họ được mời đến giúp mo chủ làm lễ này). Họ đã được phân công trước, để chuẩn bị trang phục và trang sức cho giống vai mình đóng. Việc diễn xướng của họ cũng đã được “tập dượt” nhiều lần nên lúc này ai cũng làm rất hay, thậm chí có người còn “lên đồng” thật sự!
“Chà kháy” là người điều hành lễ hội. Ông phụ trách đánh trống cái, đến nghi thức nào là gióng lên một hồi trống, các mo biết đến lượt mình thì nhảy ra diễn xướng. Hết nghi thức đó “chà kháy” lại gióng một hồi trồng cho lui.
Đầu tiên là trò diễn “mó chầu” (mo chủ) đóng vai tổ tiên xuống kiểm tra công việc chuẩn bị lễ hội. Các mo khác hối hả quét nhà, trải chiếu, dựng cây hoa, bày mâm cỗ, dọn trầu cau, cắm cần rượu, v.v. Đang làm thì thần gió đến xô nhà, thần chống nhà phải chống lại nhà. Các mo khác người thì săn voi, người thì bắt ngựa, người thì vo gạo nấu cơm, hông xôi, v.v. Rồi các đoàn “người nhà trời” xuống… Đến đoạn mọi người nhảy múa quanh cây hoa, thì các cô gái (xáo khóa, xáo chợ) ăn mặc trang điểm đẹp cầm ô (cúp hụm) cùng các chàng trai (bảo tồn) theo hầu phía sau. Đội nhạc lễ thì nổi chiêng trống, “tăng bu la” (ống tre mét) náo nhiệt…
Có cả cảnh diễn tả cuộc sống bình thường như thầy dạy học trừng phạt học trò không thuộc bài; gái chửa hoang dám khai nhận mình có con với ai, được Tạo Mường cho mang con về nuôi (nhiều người không có con nhân dịp này đã ra “xin con” với thần linh, mong sau này mình có con thật); cảnh phát rẫy, chọc lỗ tra hạt, gặt lúa, gùi lúa về nhà; cảnh người Thái và người Khơ Mú cùng làm việc với nhau…
Còn có cả những trò diễn pha màu sắc huyền bí ma thuật, yếu tố phù thủy, sa man giáo (mà chúng tôi đã nói ở trên): Các ông mo cắn lưỡi kiếm nung đỏ, dẫm lên thanh sắt đã nung nóng; hút thuốc bằng quả ớt khô, phun khói ra mù mịt; đọc thần chú để dựng đứng quả trứng lên, hoặc dựng ngược thanh kiếm mà không đổ; v.v. Những “phép thuật” này có được là do rèn luyện công phu nhiều năm (pha màu sắc bí hiểm) cần được các nhà khoa học nghiên cứu
cụ thể.
7.2. Trò vui.
Như trên đã thấy, lễ hội Xang Khan có nhiều nghi lễ. Không những thế, nó còn có nhiều trò vui tiếp theo, phụ họa cho các nghi lễ trên, hoặc vui chơi khi lễ hội Xang Khan chuyển sang phần “hội”.
7.2.1. Quảnh lòòng (khắc luống). Lấy chày và máng giã gạo làm nhạc cụ, người ta đứng 2 bên thành máng, dùng chày gõ/ dộng/ tông vào thành máng, đáy máng, tạo nên những âm thanh có nhịp điệu dồn dập, hứng khởi vang xa. Có điệu “phặt phưm” gõ – giật chày vào thành máng như dệt vải. Có điệu “tỏ cảy” 2 bên/ phe gõ đầu chày vào nhau ở phía trên đầu như gà chọi nhau “cốc cốc”, v.v…Khắc luống theo từng “hiệp”. Hết mỗi hiệp là người ta reo hò vang dậy.
7.2.2. Tền xạc (nhảy sạp). Khắc luống xong, người ta dùng ngay những cái chày giã gạo đó để tổ chức “tền xạc” (nhảy chày), từng đôi một cầm 2 cái chày vỗ vào nhau theo nhịp 3 – 1 “tặp tặp tặp, quác!”, …Và bên ngoài là 2 người một nhảy qua khe chày, mặt hướng vào nhau, theo nhịp điệu vỗ chày. Người vỗ chày ngày càng tăng nhanh “tiết tấu”. Người nhảy cũng phải tăng “tốc độ” cho phù hợp, không sẽ bị kẹp chân. Nhảy sạp cũng theo từng hiệp. Sau mỗi hiệp người ta hò reo vui nhộn. Dùng chày vỗ để nhảy sạp là theo “nguyên bản”. Cải tiến là dùng sào hóp thay chày (vì chày nặng và ngắn) để “vòng nhảy” được rộng hơn.
7.2.3. Vít con (ném còn). Mọi người nam nữ chia 2 phe ném “còn” cho nhau. Quả “còn” khâu bằng vải chàm, nhồi hạt bông bên trong, khâu 4 góc 4 tua vải màu, có 1 cái dây dài đính ở giữa quả “còn” để cầm quay ném. Người bên kia bắt trượt quả “còn” thì sẽ bị “phạt” (vòng bạc, khăn tay, tấm thổ cẩm, v.v.). Cứ mỗi lần có người bị “phạt” thì mọi người lại reo hò vang dậy, rất vui.
7.2.4. Lạc xào (kéo co). Người ta chia làm 2 phe (nam – nam, nữ - nữ, trẻ em – trẻ em, v.v) để kéo co. Mỗi lần có 1 đội thắng – thua là mọi người lại được dịp reo hò vui vẻ. Đội thắng được “thưởng” một tuần rượu cần, hay xôi thịt, v.v.
7.2.5. Múa “tăng bu la”. “Tăng bu la” là những ống tre hoặc nứa to dùng để dộng xuống sàn phát ra âm thanh “bung bung bung” làm nhạc cụ. Họ dộng những ống tre nứa này theo nhịp điệu dồn dập và cùng nhảy múa, nên rất sôi động. “Tăng bu la” được trình diễn sau những chầu rượu cần rất được mọi người vỗ tay, nhảy múa hưởng ứng.
7.2.6. Diễn xướng sử thi, truyện thơ, hát dân ca “nhuôn, lăm, xuối”… Lễ hội Xang Khan diễn ra từ vài ngày cho đến 1 tuần, tùy theo “điều kiện” kinh tế của gia chủ (mó chầu/ mo chủ). Hàng ngày như thế người ta vẫn phải cho khách khứa ăn đủ 3 bữa (sáng, trưa, tối). Như vậy, xen kẽ giữa các nghi thức, nghi lễ (đã nói ở trên) là các bữa ăn. Sau khi ăn, người ta lại “tiếp nối” vào lễ hội. Ví dụ đêm đầu tiên “dựng cây hoa” lúc giao thừa, sau khi đã “cúng mời” thần linh, thì người ta bưng các mâm cỗ xuống và “được phép” ăn cơm (tuy đã muộn lắm). Sau đó tiếp tục một số nghi lễ cho đến gần sáng thì mọi người nghỉ/ ngủ lấy sức một chút. Sáng ra, mọi người ra suối rửa ráy. Chủ nhà chuẩn bị bữa sáng cho khách và mọi người. Ăn xong, người ta lại tiến hành các nghi lễ. Trưa nghỉ ăn cơm. Buổi chiều ngày thứ 2 thì các nghi lễ chính coi như hoàn tất. Tối ngày thứ 2 là tối “ăn Xang Khan” tức là ăn mừng thành công. Mọi người trong bản đến “mừng” gia đình mo chủ đã làm xong việc “thờ phụng/ tri ân” với tổ sư, các “con nuôi” (lực liệng) là những “con bệnh” được mo chủ cứu chữa năm qua đã “đáp lễ” bằng những “món quà” (rượu thịt, vòng bạc, bạc nén, thổ cẩm, v.v.), các mo bạn (mó pạn) đã đến giúp đỡ đồng nghiệp và “trổ tài” và đã được “nâng cấp/ nâng ngạch” (mó khu/ mo thầy công nhận), bà con xa gần cũng đã đến “mừng” người thân thích của mình…Từ lúc này trở đi là vui hội Xang Khan. Đêm nay ăn uống xong là dành cho các nghệ nhân (mó lăm, mó xuối, mó nhuôn) diễn xướng. Hầu như tất cả các ông mo/ bà mo đều là “nghệ nhân” nổi tiếng trong lĩnh vực này. Đầu tiên người ta diễn xướng các bản “mo” về “sinh ra trời lớn, sinh ra trời nhỏ” (ẳm ết luông, ẳm ết nọi), rồi đến “xốn chạng ộm, xốn chạng nọi” (thúc voi lớn, thúc voi nhỏ = nói về đời cha, đời con Khủn Chưởng đã mở mang địa vực người Thái ở Đông Nam Á lục địa như thế nào), rồi đến các truyện thơ “chàng Hún Lu và nàng Ùa Piểm”, “Chim yểng”, “chàng Xứ Thôn”, “chang nguyến/ trạng nguyên”, “tạo má nhúi/ chàng chó xồm”, v.v. Mỗi “bản” như vậy, bản ngắn thì dài khoảng 1.000 câu, bản dài khoảng 5.000 câu, nên mấy ngày mấy đêm cho đủ? Hết sử thi, truyện thơ, truyện cổ, truyền thuyết… là đến dân ca. Mà dân ca “nhuôn, lăm, xuối” đối đáp, giao duyên của người Thái – Nghệ An thì vô cùng phong phú. Người biết ít thì vài câu đến vài chục câu. Người biết nhiều thì hàng trăm hàng ngàn câu (chúng tôi [QVM]]sưu tầm và xuất bản 2 tập ca dao dân ca Thái Nghệ An 1252 trang mà “kho tàng” đó vẫn chưa hết). Thế cho nên, nếu hội Xang Khan kéo dài thì…vô tận. Phải “hạn chế” thôi! Một tuần hoặc rút xuống vài ngày là tùy điều kiện ở gia chủ (như trên đã nói).
III. Đánh giá, kiến nghị.
3.1. Đánh giá.
Lễ hội Xang Khan là một lễ hội dân gian đặc sắc của người Thái – Nghệ An. Đây là một lễ hội nông nghiệp của đồng bào. Mọi người cầu mong sức khỏe, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, sinh sôi nẩy nở, chinh phục tự nhiên, v.v. Lễ hội còn hình thành thế giới quan, nhân sinh quan sơ khai về buổi bình minh của lịch sử loài người. Lễ hội bảo vệ và lưu truyền các truyền thống văn hóa của người Thái về dân ca, dân nhạc, dân vũ, các truyện cổ, sử thi, truyền thuyết, truyện thơ, trò chơi, v.v. Tóm lại, lễ hội Xang Khan có ý nghĩa rất to lớn và không dễ mà đánh giá hết được.
3.2. Kiến nghị.
Đã có một số nơi muốn “phục dựng” lễ hội Xang Khan. Ý định/ ý muốn đó rất đáng khuyến khích. Nhưng lễ hội Xang Khan tổ chức “khó”, không phải dễ. Khó vì người am hiểu nó, người diễn xướng nó không còn hoặc đã rất cao tuổi. Cần phải tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật các bài “mo” (cúng) trong lễ hội, để bố trí người học và diễn xướng. Cần phải nghiên cứu, sưu tầm các điệu múa của “bảo tồn, xáo khóa” (trai gái giúp việc) trong lễ hội như thế nào để tập cho thanh niên. Cần phải nghiên cứu, sưu tầm các điệu “múa kiếm” của mo để “truyền dạy” cho người đóng vai “mo”, v.v. Tóm lại có rất nhiều việc phải làm đối với người tổ chức (các cấp chính quyền, các tổ chức văn hóa).
Trong lúc chưa có một “kịch bản” đầy đủ thì có thể “phục dựng” từng phần như màn “múa quanh cây hoa” trong lễ hội Hang Bua ở Quỳ Châu, các tiết mục diễn xướng cồng chiêng, uống rượu cần, khắc luống, nhảy sạp, vỗ “tăng bu la”, kéo co, đi cà kheo, bắn nỏ, phi ngựa, thi người đẹp (giống như “xáo khóa”), v.v ở trong các Lễ hội Đền Chín Gian ở Quế Phong, Lễ hội Mường Ham ở Quỳ Hợp, Lễ hội Đền Chọọng ở Quỳ Hợp, v.v.
Tài liệu tham khảo.
1/ Nguyễn Doãn Hương, La Quán Miên, Hang Bua - danh thắng và lễ hội, Nxb. Nghệ An, Vinh 1996.
2/ Ninh Viết Giao (chủ biên), Tân Kỳ - truyền thống và làng xã, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1992; Địa chí huyện Quỳ Hợp (chủ biên), Nxb. Nghệ An, Vinh 2003; Địa chí huyện Tương Dương (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 2003, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội tái bản 2012.
3/ Lâm Tô Lộc, Xòe Thái, Nxb. Văn hóa, Hà Nội 1985.
4/ Nguyễn Đình Lộc, Các dân tộc thiểu số Nghệ An, Nxb. Nghệ An, Vinh 1993.
5/ La Quán Miên, Phong tục tập quán các dân tộc thiểu số Nghệ An, Nxb. Nghệ An, Vinh 1997.
6/ Quán Vi Miên, Mường Bôn huyền thoại, Nxb. Lao động, Hà Nội 2010.
7/ Quán Vi Miên, Văn hoá Thái – Nghệ An, Nxb. Lao động, Hà Nội 2011.
8/ Quán Vi Miên – Sầm Phong, Văn hoá dân gian bản làng ở xã Châu Quang, Nxb. Thanh niên, Hà Nội 2011.
9/ Quán Vi Miên, Lai Khủn Chưởng (Truyện Khun Chương), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2010; Nxb. Nghệ An, Vinh 2010, tái bản.
10/ Tư liệu chép tay về lễ hội của người Thái Nghệ An của Lang Vĩnh Phúc (Bản Đôn, Châu Quang, Quỳ Hợp, Nghệ An), Lương Văn Tý (Bản Vực, Châu Lý, Quỳ Hợp, Nghệ An) và của tác giả đi điền dã ở Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, v.v