Dựa trên những thống kê của nhà nghiên cứu Trịnh Khắc Mạnh về“Thư tịch Hán Nôm luận giải về Tứ thư và Ngũ kinh hiện có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”[3], đồng thời tiến hành so sánh với Bắc thư Nam ấn bản mục lục《北書南印板目錄》do Trần Văn Giáp biên soạn(ký hiệu VHv.2691, TVHN)[4], chúng tôi nhận thấy sự tồn tại của một khối lượng lớn các thư tịch thuộc nhóm Tứ thư Ngũ kinh Chế cử四書五經制舉[5]tại Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX. Tứ thư Ngũ kinh Chế cử(trong bài này mang hàm ý chỉ những chú giải kinh điển được sử dụng trong giảng dạy tại trường học bao gồm cả trường học của nhà nước tại trung ương (Quốc học viện國學院hay còn gọi là Quốc tửviện國子院, Quốc Tửgiám國子監), tại địa phương (phủ học府學, học quan (學官...) và tại các trườngtư học私學) chiếm 2/3 trong tổng số những sách chú giải kinh điển Nho gia Việt Nam. Ngoại trừ những văn bản thuộc nhóm dạy kỹ năng khoa cử (những bài văn sách, kinh nghĩa văn mẫu cho các khảo sinh), những văn bản diễn giải kinh điển Nho học Việt Nam hiện tồn tại Kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm dù mang những tên gọi khác nhau, được chuyển tải thông qua nhữngvăn tự khác nhau, nhưng chủ yếucó thể quy nạp vào hai phương thức diễn giảichính: giảng chương講章(bình chú, phân tích ý chỉ, kết cấu thiên chươngkinh điển)và tiết yếu 節要(hiệu đính,chắt lọc cốt yếu các chú giải-tiểu chú小注-kinh điển của lịch đại danh Nho).
Phương thức diễn giảng
|
Hán
|
Nôm
|
Giảng chương
(講章)
|
giảng nghĩa講義, tích nghĩa晰義, khải mông啟蒙, tổng luận總論, ngu án愚按, tồn nghi存疑, tùng thuyết叢說, tùng ký叢記,tinh hoa精華…
|
diễn âm 演音, diễn ca演歌, giải âm解音, quốc âm ca國音歌, quốc ngữ ca國語歌, diễn nghĩa演義, thích nghĩa ca釋義歌…
|
Tiết yếu
(節要)
|
toát yếu撮要, toản yếu纂要, thuyết ước說約, tiệp lục捷錄
|
ước giải 約解...
|
Trong số đó, sự xuất hiện tập trung những công trình theo phương thức “toản yếu”, “tiết yếu” kinh điển tại tư học Việt Nam thế kỷ XVIIInhư: Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Toản yếu四書五經性理纂要do Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) biên soạn, Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Tiết yếu四書五經性理節要nguyên bản thuộc họ Bùi (裴氏原本), bản trùng san Tứ thư ước giải四書約解do Lê Quý Đôn (1726-1784) hiệu đính, viết tựa[6],Chu huấn vị toản朱訓彙纂[7]của Phạm Nguyễn Du (1739-1786)và Chu Dịchvấn giải toát yếu周易問解撮要do Phạm Quý Thích (1760-1825)soạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX (năm Gia Long thứ 4)...theo chúng tôi là một hiện tượng diễn giải kinh điển Nho học rất đáng chú ý.
Thứ nhất, Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Toản yếuvà Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Tiết yếulàhai công trình nhận được nhiều đánh giá tiêu cực từ các Nho gia Việt Nam trung cận đại. Phan Huy Chú (1782-1840) trong Lịch triều hiến chương loại chí歴朝憲章類誌nhận xét: “Tính lý Toản yếu 2 quyển, Tứ thư Ngũ kinh Toản yếu, 15 quyển, do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh biên soạn. Vay mượn bản riêng của các danh gia, ghi chép chắt lọc các điều cốt yếu. Nhưng tựu trungcắt gọt, thay đổi rất nhiều thành ra xuyên tạc”[8]. Nguyễn Thông (1827-1884), trong khi chấm thi Hương trường Thừa Thiên vào tháng 7 năm Tự Đức thứ 23, được biết Nho sinh chủ yếu học bộ sách Tiết yếu do Bùi Huy Bích biên soạn, vì thế đã dâng sớ lên án kịch liệt, cho rằng bộ Tiết yếu “đại để trích những câu sáo ngữ giúp cho việc thi cử để lừa dối kẻ hậu sinh. Những người có tài, có trí bị chôn vùi trong nền học ủy mỵ méo mó ấy mà không tự biết! Vì thế tôi ví với dị đoan tà thuyết, lừa đời dối dân, cũng không phải là quá đáng”[9]. Đầu thế kỷ XX, trong một bài báo bàn về Nho học Khổng Mạnh, Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) cũng phê phán gay gắt bộ Tiết yếu “Sách kinh truyện và sử tiết yếu của Bùi Huy Bích là thứ sách gì? Cắt đầu, hớt đuôi, bôi son, vẽ lọ, không thành tư cách một cuốn sách, mà đem ra cho công chúng học, phô lên rằng học Khổng Mạnh thánh hiền…Cái học vì sách tiết yếu của Bùi Huy Bích không khác gì ngọn lửa nhà Tần thứ hai trong học giới nước ta về khoản cận đại vậy”[10].
Thứ hai, tuy nhiên chính từ những luận thuật công kích kịch liệt của Nho gia trung cận đạitrên chúng ta lạinhận thấy sự phổ biến và mức độ ảnh hưởng sâu rộng của cả hai bộ sách trêntrong đời sống giáo dục khoa cử Việt Nam thế kỷ XVIII.
Thứ ba, chúng tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh, Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Toản yếu và Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Tiết yếuxuất phát điểm đều là hệ thống sách sử dụng trong giáo dục tư gia (tư học) thế kỷ XVIII, trước khi được sử dụng phổ biến như là “sách giáo khoa” của sĩ tử thế kỷ XIX.
Các hoạt độngdiễn giải kinh điển Nho học tại Việt Nam được hình thành từ truyền thống chú sớ kinh điển Nho học Đông Á, trong đó lấy kinh điển Nho gia là ‘điểm gốc’ (locus classicus).Chúng tôi cho rằng diễn giải kinh điển Nho học tại Việt Nam, chiếu theo quan điểm của Hoàng Tuấn Kiệt, cũng sẽ mang những loại hình và đặc trưng cơ bản của “thuyên thích học” Nho gia[11], đồng thời cũng là một bộ phận nằm trong thuyên thích học Đông Á[12].Nếu vậy,sự xuất hiện của hệ thống sách toản yếu, tiết yếu kinh điển trong giáo dục tư học thế kỷ XVIII có vị trí như thế nào trong truyền thống thuyên thích kinh điển Nho học Việt Nam và toản yếu, tiết yếu phản ánh đặc trưng tư duy nào của Nho gia Việt Nam?
Với đối tượng nghiên cứu chính làTứ thư Ngũ kinh Tính lý Toản yếu(từ đây gọi là bộ Toản yếu)do Nguyễn Huy Oánh biên soạn và Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Tiết yếu(từ đây gọi là bộ Tiết yếu) nguyên bản thuộc họ Bùi(vẫn thường được biết đến như là văn bản do Bùi Huy Bích (1744-1818) biên soạn), bài viết này của chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng,tiến hành khảo sát, nghiên cứu về hiện tượngtoản yếu,tiết yếu kinh điển Nho học trong bối cảnh tư học Việt Nam thế kỷ XVIII.Lịch sử thuyên thích kinh điển Nho học Đông Á, theo Hoàng Tuấn Kiệt, không thể tách rời “tính lịch sử” của chủ thể thuyên thích kinh điển. Bởi vì, “kinh điển và người giải thích kinh điển đều là sản phẩm của một điều kiện không gian, thời gian đặc định, đều mang “tính lịch sử””[13]. Vì vậy sự tồn tại của tiết yếu, toản yếu cần phải được nhìn nhận trong chính bối cảnh chính trị văn hoá xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII: từ bối cảnh bên ngoài (lộ trình của biên soạn kinh điển Nho học tại Việt Nam), bối cảnh bên trong (mối quan hệ giữa quyền lực và tri thức: những chính sách của nhà nước liên quan đến kinh điển Nho học), từ bối cảnh của chủ thể thuyên thích (người biên soạn kinh điển) và bối cảnh người tiếp nhận (Nho sinh, những người đi học). Mục đích chính của công việc này, như Hoàng Tuấn Kiệtđã nói: “tiến hành phân tích nhằm làm sáng tỏ các nhân tố thời gian, không gian của người giải thích kinh điển đồng thời giải thích rõ hàm nghĩa cụ thể của những công trình thuyên thích trong chính bối cảnh của họ”[14].
1. Bối cảnh Tư học Việt Nam thế kỷ XVIII
Tư học私學hay còn được gọi là tư thục私塾,dân học民學,thư quán書館(hoặc thư viện書院), học đường學堂..., là hoạt động giáo dục lấy tư tưởng Nho học làm trọng tâm,“không do nhà nước chủ trì, không nằm trong chế độ học hiệu chính quy của nhà nước, do tư nhân hoặc tập đoàn tư nhân (bao gồm cả tập đoàn xã hội) quản lí, kinh doanh, điều hành. Tư học thông thường là chỉ một đơn vị trường học tư nhân nhưng nó cũng bao gồm cả những chuyến du giảng cá nhân (không có trường sở cố định), bao gồm cả những môn phái của một bậc đại sư nhất định nào đó”[15]. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc như Phùng Hữu Lan冯友兰, Vu Thịnh Đình于盛庭nhận định tư họcTrung Quốc có nguồn gốc từ giáo dục tư họcKhổng Tử[16]. Phạm vi khái niệm tư học bao hàm các loại hình: dân học (do làng xã mở bằng tiền của dân chúng đóng góp); thư viện, thư quán, tàng thư(trường học do một học phái hoặc do một gia tộc điều hành quản lý),học đường (do một cá nhân, thông thường là một danh Nho chủ trì).Nhà nghiên cứu Ngô Nghê吴霓cho rằng,tuy tư học qua mỗi triều đại có những tên gọi và hình thái hoạt động khác nhau, nhưng tựu chung, nềntư học đã có cống hiến quan trọng đối với việc truyền bá văn hoá học thuật thời cổ đại tại Trung Quốc[17].
Giáo dục tư học Việt Nam, theo Hà Thành Hiên何成轩, bắt đầu nổi lên từ thời Tam Quốc (220-265)[18] cùng với sự mở rộng khoa cử xuống vùng Lĩnh Nam. Cùng quan điểm với Hà Thành Hiên, Ngô Nghê吴霓nhấn mạnh đếntư thục của Sĩ Nhiếp (137-226)tại Giao Chỉ thời Tam Quốc như là một ảnh hưởng đầu tiên của tư học Trung Quốc tại Việt Nam[19]. Dưới thời Trần, khái niệm “học đường” tư học Việt Nam chính thức được ghi nhận trong chính sử[20]. Song song với những trường họccủa nhà nước như Quốc học viện, Thái học viện, và học phủ ở Thiên Trường, tư học cũng xuất hiện tự phát trong đời sống giáo dục Nho học, như học đường của Trần Ích Tắc (1254-1329), Chu Văn An (1292-1370)[21], Nguyễn Sĩ Cố (?-1312)[22]...Từ thời Lê, khi Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho sĩ là nguồn nhân lực chính của bộ máy nhà nước thì tư học cũng trở thành một tồn tại tất yếu đáp ứng nhu cầu mở rộng giáo dục Nho học của toàn xã hội. Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, những biến động về chính trị kéo theo sự biến động về khoa cử giáo dục, trong đó bao gồm cả sự biến động của tư họcViệt Nam.Đến thời Lê trung hưng, chính quyền Lê-Trịnh, đặc biệt là trong giai đoạn Trịnh Cương (1686-1729) nắm quyền, nhà nước áp dụng một loạt chính sách cải cách chính thể, văn hoá, giáo dục, trọng dụng một số Nho thần như Nguyễn Công Hãng (1680-1732), Lê Anh Tuấn (1631-1736)...Nhưng thực học và khát vọng thực thi quyền chính bị thực tiễn đời sống chính trị vùi dập. Nguyễn Công Hãng và Lê Anh Tuấn không bao lâu bị bức tử bởi những quyền thần theo phe của Trịnh Giang (1711-1762). Những Nho thần nổi tiếng cương trực như Bùi Sĩ Tiêm (1690-1733), Vũ Công Trấn (1684-?) đưa ra mong muốn thực thi cải cách văn thể, chính thể đều bị cách chức.Trịnh Giang đề xướng chính thống kinh điển như một nỗ lực thống nhất tầng lớp Nho sĩ nhưng ông lại không khoan thứ cho những ý kiến cương trực. Từ giữa thế kỷ XVIII, triều đình và nội các do nhiều thế lực chính trị khác nhau chi phối. Nhiều Nho thần như Nguyễn Tông Quai (1692-1767), Lê Quý Đôn (1726-1784) bị hoen ố thanh danh trong những cuộc tranh chấp quyền lực giữa các phái trong triều đình.Trong các tình huống hoạn lộ bấp bênh, khi những hoài bão chính trị không được thực hiện, lui về mở trường tư trở thành lựa chọn hàng đầu của nhiều Nho sĩ thế kỷ XVIII.
Quốc tử giám đánh mất vai trò vào tay học đường tư học:Trong hệ thống trường công của nhà nước Việt Nam thế kỷ XI-XIX, Quốc tử giámlà biểu tượng quyền uy tối thượng của giáo dục chính thống. Quốc tử giám khởi đầu là trường học dành cho con em hoàng gia, quý tộc, văn thần. Đến năm 1253, vua xuống chiếu chonho sinh trong nước (bất kể xuất thân) đều có thể tham dự giảng học Tứ thư Ngũ kinh trong Quốc tử giám. Năm 1428, “nhà vua thân hành chọn con cháu các quan và thường dân tuấn tú sung bổ vào học sinh các cục chầu cận, chầu ở ngự tiền và sung vào làm Giám sinh Quốc tử giám”[23].Bởi vì “ý nghĩa đời cổ cho là việc bồi dưỡng và tiến thân tất phải ở nhà quốc học”[24], tại thế kỷ XV, nhà vua đề ra các quy định nghiêm ngặt trong xét tư cách Giám sinh Quốc tử.Các cuộc thi chọn lọc phân loại Giám sinh được tổ chức định kỳ với mục đích chọn người có đức độ, tài năng để chờ bổ nhiệm vào các vị trí của bộ máy nhà nước[25]. Đồng thời, theo những ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhà nước cũng thi hành những hình phạt nghiêm khắc đối với những Giám sinh không đủ tư cách đạo đức như đày Giám sinh Nguyễn Đức Minh ra châu xa (năm 1434), chém Quốc tử giám sinh Lê Tử Dục (năm 1435)…Nhưngtừ cuối thế kỷ XVI trở đi, cùng với các biến động chính trị, Quốc tử giám đã không còn duy trì được những tiêu chí về giáo dục bậc cao, trong đó có việc bỏ chế độ tuyển chọn nghiêm ngặt Giám sinh thời Lê Thánh Tông.Đến đầu thế kỷ XVIII, theo nhiều Nho sĩ, Giám sinh trường Quốc tử chỉ còn là hư danh.“Từ thời Trung Hưng trở về sau thì Quốc tử giám chỉ còn cái tên mà thôi. Vùng đất xung quanh trường Giám đều trở thành phố phường. Các Giám sinh không còn ở nội trú để học nữa. Ngày rằm mồng một hàng tháng, quan coi trường Giám ra bài tập kẻ nào làm được thì tên tuổi lừng lẫy kinh ấp. Những cống sĩ thuộc loại hiếu danh thường lợi dụng chuyện này để tiến thân. Khi thì họ thuê người làm bài thay, khi thì họ ngầm nịnh bợ người giữ sổ thi ở trường Giám, hẹn cứ cho trúng cử mười lần thì nộp một ngàn quan tiền. Hoặc đến ngày Tết Đoan dương, họ đem cá khô đậu xanh làm đồ lễ biếu, y như lễ của họ trò đối với Thầy học vậy”[26]. Trong suốt thế kỷ XVIII, nhà nước Đại Việt đã nỗ lực phục hồi địa vị của Quốc tử giám bằng cách bổ nhiệm nhiều danh Nho vào vị trí Quốc tử giám tư nghiệp, Quốc tử giám tế tửu nhưng mặt khác lại buông lỏng xem xét tư cách Giám sinh. Việc xuống cấp trong quản lý và giáo dục của Quốc tử giámcòn phản ánh rõ trong lời than thở của Bùi Huy Bích:“Trường Quốc tử giám là một chỗ lễ nghĩa thế mà học trò có người ngồi bên cạnh các quan, vung tay trật đùi, nói cười hềnh hệch không sợ gì cả”[27].Không chỉ riêng giáo dục Quốc tử giám, những ghi chép sử học thế kỷ XVIII còn cho thấy sự xuống cấp của toàn bộ hệ thống khoa cử trường công. Đặc biệt là ở các kỳ thi Hương, nhà nướccho phép thí sinhdùng tiềnmua tư cách tham gia khoa cử[28], nhắm mắt làm ngơ trước tình trạng buôn bán bài thi mẫu[29], không ngăn cấm mang sách tham khảo vào trong trường thi[30], quan chấm thi “tuỳ theo văn bài mà chọn đỗ không kể gì trùng lắp”[31].Hệ quả của sự suy thoáigiáo dục trường cônglà trong suốt nửa đầu thế kỷ XVIII, triều đình nhiều lầnphảitổ chức thi lại để sát hạch sinh đồ.
Trongkhi Quốc tử giám đánh mất vai trò giáo dục bậc cao thì tư học thế kỷ XVIII lại trở thành nơi đào tạo nhân tài thế kỷ XVIII. Tư học thế kỷ XVIII phát triển hoàn bị với hai mô hình giáo dục chính: thưviện gia tộc và học đường của các danh Nho. Đa phần những danh Nho của thế kỷ XVIII cũng đồng thời là những nhà sư phạm nổi tiếng (Xem Bảng 4-Phụ lục). Trong khi địa vị của Quốc tử giám đến nửa cuối thế kỷ XVIII chỉ cònlại dấu ấn qua các buổi bình văn vào những ngày sóc, vọng[32] thì học đườngtư nhânlại là “xuất phát điểm” cho các trào lưu chấn hứng văn thể, chấn hưng Nho phong sĩ khí, và xu hướng tiếp nhận Thực học Minh Thanh thế kỷ XVIII[33]. Trong khi Quốc tử giám lơi lỏng tiêu chí “nhân cách” trong xét tuyển Giám sinh thì tại nhiều học đường của các danh Nho, “nhân cách” được xem là tiêu chí hàng đầu trong việc thu nhận và dạy dỗ học trò[34].
Có thể nhìn thấy sựtrỗi dậy của tư họcthế kỷ XVIII thực trạng vềsự hình thành và phát triển tập trung của một nhóm những người tự ý thức lấy dạy học làm hoạt động tri thức trọng tâm trong suốt cuộc đời của họ. Phần lớn những nhà sư phạm nổi tiếng thế kỷ XVIIIcó xuất thân là những người từng đỗ Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp…Trong số họ nhiều người khi còn đương chức từng được bổ nhiệm làm Quốc tử giám Tư nghiệp, Quốc tử giám Tế tửu hoặc Đốc học tại các địa phương.Học đường của nhiều người trong số họ đặt ngay chính tại nhiệm sở.Nhiều Nho sinh vì ngưỡng mộ danh tiếng và tài năng học vấn của họ mà xin đến làm học trò tư thục. Sau khi rời khỏi chính trường họtiếp tục mở học đường tại tư gia. Có học đường chỉ nhận vài học trò tư thục, có học đường lại có quy mô đến hàng ngàn người như trường Hào Nam của Vũ Thạnh(1664-?).Sự lui về (chủ động hoặc bị động) mở học đườnghoặcthưviệngia tộccủa những danh sĩ này một mặt phản ánhsự hình thành và lớn mạnh của “tầng lớp nhà sư phạm”trong đời sống chính trị đương thờimột mặt cho thấyQuốc tử giám không còn đáp ứng được nhu cầu “tầm học” bức thiết của Nho sĩ thế kỷ XVIII.
Từ thế kỷ X đến trước thế kỷ XIX Quốc tử giám là một trong những kho sách trọng yếu tập trung sách vở giảng tập và ván khắc kinh điển của nhà nước[35]. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, đến thế kỷ XVIII, Quốc tử giám chỉ còn tồn tại chức năng là nơi chứa “ván kinh” của nhà nước. Cùng với sự xuống cấp của giáo dục trường công, kho sách giảng tập kinh điển của Quốc tử giám đã không còn giữ được ưu thế trước những tàng thư tư nhân. Nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Sơn đã chỉ ra hiện tượng “sách chứa đầy nhà” của các sĩ tộc thế kỷ XVIII[36].Trong số đó những nhà sư phạm nổi tiếng thế kỷ XVIII cũng chính là những người sở hữu kinh điển đầy quyền lực.Phần lớn những người đỗ đầu trong kỳ thì Đình (Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp) thường được bổ nhiệm và kinh qua những vị trí liên quan đến quản lý và biên soạn thư tịch. Những chức trách ấy cho phép họ được tiếp xúc với một hệ thống thư tịch phong phú của nhà nước. Vì vậy, cùng với sự mở rộng của thương mại thư tịch Việt-Trung thế kỷ XVIII, cùng với sự trỗi dậy của tư khắc và phường khắc, nhiều danh sĩ đã tự mình thu thập, sưu tầm, sao chép, biên soạn chú giải và cho khắc in điển tịch tư gia. Nhiều bộ kinh điển lớn trước đây chỉ có thể thực hiện ở quy mô tổ chức khắc in nhà nước nhưng tại thế kỷ XVIII lại được thực hiện ở mức độ khắc in tư gia như bộ Toản yếu của dòng họ Nguyễn Huy là một ví dụ điển hình.
Trào lưu “du học” kinh đô của Nho sĩ Việt Nam và các liên minh sĩ tộc đầu thế kỷ XVIII:Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Sơn, nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, Nho gia Việt Nam đã có xu hướng tiếp nhận Thực học Minh Thanh[37]. Vì vậy, mặc dù Quốc tử giám đã đánh mất vai trò giáo dục bậc cao, nhưng sự nở rộ các học đườngtư nhân của nhiều danh Nho và sự tiếp nhận các trào lưu tư tưởng học thuật Minh Thanh tại các học đường tư nhân khiến cho Kinh đô và các khu vực lận cận trở thành trung tâm văn hoá giáo dục thu hút được nhiều Nho sĩ địa phương về “tìm Thầy cầu học”. Chế độ ban thưởng phủ đệ, điền sản theo đẳng cấp khiến cho nhiều gia tộc “cắm rễ” được tại kinh thành.Bên cạnh giáo dục gia tộc, nhiều phủ đệ tại Thăng Long của các danh sĩ nổi tiếng xuất thân các vùng Thanh Nghệ là nơi tiếp nhận con cháu trong gia tộc “du học” kinh đô. Khái niệm “du học” 遊學bắt đầu xuất hiện trong nhiều trần thuật của Nho sĩ thế kỷ XVIII. Nguyễn Huy Oánh viếttrong Tính lý đại toàn tự: “Ta trưởng thành, đi du học, đại khái tuyển chọn duyệt độc bản riêng của các danh gia” (“長而遊學蓋採閱名家私本”《性理纂要序》)[38]; Phan Cận viết trong Ngũ kinh toản yếu tự:“lại cùng nhau du học với hai tiên sinh Vũ Đông Các và Đỗ Thám hoa” (“既又同游于武東閣杜探花兩先生”《五經纂要敘》)[39]; Phạm Đình Hổ viết trong mục Quốc học bình văn sách Vũ trung tuỳ bút: “Khoảng năm Giáp Thìn, Ất Tỵ, đời Cảnh Hưng ta mới du học đất Trường An” (“景興甲辰乙巳間余始遊學長安”《雨中隨筆》)[40].“Du học” phản ánh tinh thần chủ động trong tiếp nhận tri thức của các Nho sĩ đồng thời cũng là một trong những phương thức để cân bằng giáo dục vùng miền. Bên cạnh đó thông qua giao lưu tiếp xúc, “du học” cũng là cơ hội để các danh gia vọng tộc tìm kiếm “liên minh gia tộc”.
“Liên minh gia tộc” thế kỷ XVIII thể hiện qua hai phương thức chính: liên hôn gia tộcvà liên minh Thầy-Trò. Liên hôn gia tộc được xây dựng trên nguyên lý: sự ràng buộc của “huyết thống” đi liền với ràng buộc về lợi ích. Bên cạnh đó, chính sách liên hôn giữa các sĩ tộc cũng khiến cho nhiều sĩ tộc tạo dựngđược thực lực kinh tế hùng hậu-chỗ dựa quan trọng cho việc phát triển văn hoá giáo dục dòng họ. Các lệnh cấm quan lại kết giao riêng năm 1722[41] và lệnh cấm các quan lại kết làm tộc thuộc ăn thề với nhau năm 1754[42] cho thấyliên minh sĩ tộc thông qua liên hôn là một hiện tượng phổ biến ởthế kỷ XVIII.
Tuy nhiên, những sắc lệnh này lại không chạm đến một dạng thức liên minh gia tộc ẩn hình: liên minh Thầy-Trò. Những nhà sư phạm danh tiếng thế kỷ XVIII và tụ tập xung quanh họ là những học trò thành danh đã tạo nên một quyền lực tri thức và quyền lực chính trị chi phối nhiều hoạt động chính trị văn hoá xã hội đương thời. Nếu như ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, quyền lực tri thức (dòng phái học thuật) là bề nổi của liên minh Thầy-Trò thì ở Việt Nam thế kỷ XVIII, quyền lực tri thức (dòng phái học thuật) ẩn dưới quyền lực chính trị.Những đề xuất “cải cách văn thể”, “cải cách giáo dục khoa cử” thế kỷ XVIII đều chịu sự chi phối của các liên minh Thầy-Trò. Liên minh Thầy-Trò chịu ràng buộc từ nguyên tắc “đền ơn tri ngộ”, lấy người Thầy là vị trí trung tâm của quyền lực. Nhiều người Thầy tuy đã thoái quan từ ấn lui về nhưng thực chất vẫn tham dự vào nhiều quyết sách của triều chính thông qua những học trò đang làm quan tại triều đình. Trào lưu du học kinh đô thế kỷ XVIII đã khiến cho phạm vi liên minh Thầy-Trò không còn giới hạn vùng miền. Sự mở rộng phạm vi không gian của liên minh Thầy-Trò cũng chính là một trong những yếu tố khiến cho cuộc tranh chấp phe phái giữa các thế lực trí thức trong triều đình thế kỷ XVIII diễn ra ngày càng kịch liệt.
Ngũ kinh Tứ thư Chế cửvà hoạt động củakhắc bản tư gia:Theo khảo sát của Thẩm Tuấn Bình沈俊平vào cuối đời Minh, cùng với sự phát triển nghề in ván in khắc (雕版印書), các hoạt động in ấnthư tịch ngày càng mở rộng. Để đáp ứng nhu cầu tham khảo kinh điển của Nho sĩ đồng thời đáp ứng tính thực dụng của giáo dục khoa cử, bên cạnh những kinh điển Nho họcquan bản (官版) (do nhà nước độc quyền khắc bản và in ấn, thường gọi là quan khắc官刻) thị trường giao dịch thư tịch (mậu dịch thư tịch, mậu thương thư tịch) trong dân gian xuất hiện ngày càng nhiều các bản kinh điển Tứ thư Ngũ kinh chế cửtư khắc (私刻) và phường khắc (坊刻)[43].Tuy dưới triều Thanh việc khắc ván in ấn Tứ thư Ngũ kinh Chế cử đời Minh nói riêng và Tứ thư Ngũ kinh Chế cử của các phường khắcnói chung đã bị cấm (các triều đại vua Ung Chính và Càn Long không ít lần ban các sắc lệnh cho các đốc phủ, học chính tra xét và tiêu huỷ các bản san kinh刪經[44]) nhưng do nhu cầu của Nho sĩ, Tứ thư Ngũ kinh Chế cử phiên bản phường khắc vẫn tồn tại trong thị trường mậu dịch thư tịch.
Cùng với sự phóng khoáng trong mậu dịch thư tịch Việt-Trung[45], các sách dạy kỹ năng khoa cử Minh Thanh cũng đã phổ biến tại Việt Nam thế kỷ XVIII. Ví dụ, năm 1731, trong lời tâu xin chấn chỉnh văn thể của Bùi Sĩ Tiêm, ông đã liệt kê sự lạm dụng các sách: Thập khoa sách lược十科策略của Lưu Định Chi劉定之(1409-1469), Tứ đạo đề cương四道提綱vàSách học đề cương策學提綱của Chúc Nghiêu祝堯(?-?) trong giáo dục khoa cử đương thời. Hệ quả của việc tiếp nhận ồ ạt sách kỹ năng khoa cử là kẻ sĩ chỉ chăm chăm học thuộc lòng không biết những đại nghĩa của kinh truyện“chỉ chuyên chú học những bài chú thích, những bài nghị luận của các nhà hậu Nho, và nhặt lấy những câu đầu đề hiểm hóc để ra văn cho hay”, “những kẻ cử tử chỉ đem những bài chính văn trong kinh, truyện cắt đứt ra từng đoạn từng câu, chuyên học thuộc lòng những bài văn tiểu chú để làm văn, nhất là những bài luận trong sách sử thì lại càng phải hoặc thuộc lòng lắm”[46]. Những hiện tượng này đã huỷ hoại bản chất lấy kinh truyện làm gốc của khoa cử Nho gia.
Tại ViệtNam thế kỷ XVIII, việc in ấn sách vở tại các thư phường cũng đặt dưới sự kiểm soát gắt gao của nhà nước: “Phủ liêu vâng lời truyền cho quân dân trong nước biết rằng: phàm sách vở có quyển nào quan hệ đến sự giáo hoá trong đời mới được khắc in và lưu hành. Lâu nay những bọn hiếu sự lượm nhặt bậy bạ các tạp truyện và bỉ ngữ bằng quốc âm, không phân biệt hay dở, khắc gỗ in bán, việc ấy phải nên nghiêm cấm. Từ nay nhà nào có in những sách như thế, cho trình quan đến bắt và tịch thu ván in phá hết”[47]. Nếu như nhà nước hạn chế các bản Nôm phường khắc (với lí do có hại cho giáo hoá) thì khắc bản tư gia lại nhận được sự cho phép từ phía nhà nước Đại Việt thế kỷ XVIII. Sự kiện năm 1732 Trịnh Giang ra lệnh cấm sách chư tử (sách chú giải kinh điển của các nhà ngoài hệ chú giải Trình Chu) và sắc lệnh cấm mua sách Bắc thư năm 1736 (chúng tôi sẽ bàn đến ở phía sau), lànhững cấm lệnh dành cho loại sách Tứ thư Ngũ kinh Chế cử Minh-Thanh đang tràn lan không được kiểm soát tại thị trường thư tịch thế kỷ XVIII, đồng thời cũng là một chính sách khuyến khích khắc bản tư gia Việt Nam (khắc in những điển tịch do các Nho sĩ Việt Nam biên soạn). Hầu hết các danh gia Việt Nam giai đoạn này đều có nhu cầu khắc ván thư tịch (bao gồm thơ văn và các sách chú giải kinh điển) như Lê Quý Đôn hiệu đính viết tựa và sai thợ khắc ván Tứ thư Ước giải, Nguyễn Huy Oánh biên soạn và cho thợ khắc vánbộ Toản yếu, các khắc bản của dòng họ Ngô Thì...
Chính sách chính thống kinh điển Nho gia trong khoa cử giáo dục của nhà nước: Nhìn từ góc độ đồng đại, một trong những vấn đề nổi bật của giai đoạn thế kỷ XVII-XVIII tại Trung Quốc và Việt Nam chính là cải cách giáo dục khoa cử.
Quan niệm về giáo dục hậu thiêncủa Nho gia là một trong những nền tảng lý luận giáo dục cho các nhà nước phong kiến theo chính thể Nho giáo.Tác dụng của giáo dục “hậu thiên” trong quan niệm của Nho gia là giúp con người tìm về với Thiên tính ban đầu. Vì vậy, khi nhà nước Nho giáo cần thiết lập lại trật tự, trước tiên họ thi hành các chính sách liên quan đến giáo dục. Donald J Munro trong cuốn The Concept of Man in Early China đã nhận định: “Đối với nhà Nho, kết quả chủ yếu nhất của lí niệm con người bình đẳng chính là: giáo dục được xem như mấu chốt giải quyết các vấn đề chính trị và xã hội cấp bách”[48]. Trong giáo dục khoa cử Nho gia, then chốt lại nằm ở kinh điển.
Tại các nước theo chính thể Nho giáo khu vực Đông Á thời cổ trung đại, kinh sử經史làvăn hiến tối cao của một nhà nước. Nếu “sử”史đại diện cho tinh thần “đại nhất thống” (大一統) của một triều đại, thì “kinh” 經biểu tượng cho “đạo thống”(道統)đã được kế thừacủa triều đại đó. Vì vậy, những nhà nước thuộc “vùng Nho học Đông Á” xếp biên soạn sử và biên soạn kinh điển Nho học vào trong những chính sách quan trọng nhằm duy trì ổn định và trật tự xã hội. Trong trật tự của nhà nước theo chính thể Nho giáo: kinh điển Nho học là nền tảng của giáo dục khoa cử, giáo dục khoa cử là nền tảng của bộ máy chính quyền nhà nước. Vì vậy kinh điển Nho học, với tư cách là một bộ phận cấu thành bộ máy chính quyền, cũng chịu tác động từ những xung lực của các chính sách nhà nước.Thế kỷ XV, sau khi giành lại được độc lập, để thống nhất khoa cử giáo dục, năm 1435, nhà Lê cho khắc ván Tứ thư Đại toàn 四書大全[49]. Việc này được lập lại vào tại thế kỷ XVIII với bộ ván khắc Ngũ kinh đại toàn五經大全.
Sự suy đồi của khoa cử giáo dục Nho gia thế kỷ XVIII khiến cho đội ngũ quan lại (những người đỗ trong các kỳ thi) không đạt được những tiêu chí về phẩm hạnh và tài năng. “Những người trúng tuyển đại loại là kẻ không có thực tài”[50], “những kẻ ra ứng dụng cho đời phần nhiều là phường hủ lậu ít tài giỏi”[51] . Trước sự thúc giục yêu cầu đổi mới khoa cử, chấn hưng văn thể, đổi mới Nho phong sĩ khí[52], nhà nước bắt buộc phải có những động thái thiết lập lại trật tự của giáo dục, bắt đầu từ trật tự của kinh điển. Năm 1731, chúa Trịnh Giang cho hiệu duyệt Ngũ kinh [đại toàn]Bắc bản và cho khắc ván Ngũ kinh đại toàn[53]. Năm1732 chúa Trịnh Giang cho chấn chỉnh lại khoa cử giáo dục, đề xướng tôn sùng kinh học (議崇經學), cấm sách chư tử:
“Quan lại trong phủ chúa nghị bàn: Sách vở của thánh hiền là ngọn nguồn của văn chương. Gần đây cái học thuộc lòng khiến bọn đọc kinh sách sưu tầm tiểu chú mà đa phần bỏ sót chính văn, bọn đọc sử thì chỉ sơ lược ngoại biên mà bỏ qua Cương mục. Học thuật qua quýt lỗ mỗ, cần phải chấn chỉnh để thay đổi thói quen của kẻ sĩ. Bèn cáo giới đám học sinh cần phải thành thục chính văn, còn như tập chú, tiểu chú thì chọn những phần tinh tuý. Đọc kỹ nắm rõ các sách Tả thị, Thông giám, Cương mục sẽ khiến cho người đi học biết được phương hướng. Nhưng tập tục đã lâu cuối cùng cũng không thay đổi được”[54].
Về sự kiện này Đại Việt sử ký tục biên大越史記續編nhấn mạnh thêm: “Bởi thế việc học của Nho gia mới bắt đầu có chỗ thống nhất”[55]. Năm 1734 ván khắc Ngũ kinh đại toàn hoàn thành, nhà nước cho in sách ban bố trong nước, đồng thời cũng cho san khắc in ấn các bản Tứ thư, Chư sử, Thi lâm và Tự vị ban hành trong nước[56].Năm 1736, “ấn bản của các sách kinh, sử đã được ban hành, vua lệnh cho các học giả trao nhận lẫn nhau mà đọc, cấm mua Bắc thư”[57].
Khái niệm Bắc thư đặt vào trong bối cảnh đương thời sẽ bao hàm hai loại sách: Tứ thư Ngũ kinh Chế cử và các sách khảo kinh của phong trào Thực học Minh Thanh. Tuy nhiênnhững sắc lệnh của chúa Trịnh không trực tiếp đề cập đếntrào lưu Thực học Minh Thanh (tư tưởng của trào lưu này là phản đối cái học Trình Chu) đang được tiếp nhận tại Việt Nam thế kỷ XVIII. Tuy nhiên những chính sách về tiếp nhận kinh điển Nho học từ năm 1732 đến năm 1736 cho thấy “thống nhất” cái học Nho gia theo Trình Chu được nhà nước Đại Việt xem như nền móng cho những chấn chỉnh về khoa cử, sĩ phong và học phong thế kỷ XVIII. Nhà nước thiết lập trật tự của kinh điển, trả lại vị trí chính thống cho Đại toàn cũng đồng nghĩa trả lại vị trí chính thống của Lý học Trình Chu trong tiếp nhận kinh điển Nho học của nhà nước Việt Nam. Những công trình biên soạn, khảo cứu kinh điển Nho học, bình khảo cổ sử theo Thực học Minh Thanh của Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhiệm, Phạm Nguyễn Du...lưu truyền tự do trong học giới đương thời nhưng Đại toàn với tính chất “hộ vệ chính thống” vẫn được xem là bộ kinh điển chính dành cho khoa cử.
2. Sự hình thành văn bản của Toản yếu, Tiết yếu
Ngũ kinh Tính lý Toản yếu 五經性理纂要
Cuối thế kỷ XVIII, Phúc Giang thư viện福江書院của dòng họ Nguyễn Huy tại Trường Lưu là một đại diện tiêu biểu cho sức mạnh của tàng thư gia tộc thế kỷ XVIII. Thư viện vừa là nơi tàng trữ “hàng vạn cuốn sách”, vừa là trường học cho con em trong gia tộc và trong làng. “Ông [Nguyễn Huy Oánh] dựng thư viện, chứa mấy vạn quyển sách, trước sau dạy học trò mấy nghìn người. Học trò đỗ đạt làm quan cùng triều với ông có đến hơn 30 người, còn số thụ chức ở châu huyện thì nhiều không kể xiết”[58]. Với quy mô hoạt động vừa là nơi giảng dạy vừa là nơi chứa sách kinh điển, Phúc Giang thư viện có thể được xem như là một Quốc tử giám địa phương, là một “thế lực văn hoá” vượt xa khỏi phạm vi gia tộc.
Phúc Giang Thư việnvà Toản yếu có thể được xem là thành tựu từ “du học” kinh đô của Nguyễn Huy Oánh và cũng là thành quả từ liên hôn sĩ tộc giữa dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu, họ Nguyễn ở Tiên Điền và họ Phan ở Lai Trạch. Những liên minh sĩ tộc này không chỉ tạo nên những ảnh hưởng về mặt chính trị mà họ còn là “thế lực văn hoá” có ảnh hưởng to lớn đến giáo dục khoa cử đương thời.
TheoNgũ kinh Toản yếu tự《五經纂要序》, Toản yếuđược Nguyễn Huy Oánh hiệu đính biên soạntrong 10 năm[59], thành sáchvào năm Mậu Dần niên hiệu Cảnh Hưng (1758), trong thời gian Nguyễn Huy Oánh làmTư tham Thừa chính sứ tại Sơn Nam[60]. Cũng trong lời tựa, theo Nguyễn Huy Oánh, Ngũ kinh Đại toàn [Nam bản] (ý chỉ bộ sách Đại toàn được các nhà Nho Việt Nam hiệu duyệt năm 1731 và được khắc in năm 1734) là một bộ sách đồ sộ, chú giải sâu rộng nhưng phồn tạp không gọn gàng, vì vậy ông tiến hành “thâu tóm cốt yếu, bỏ phồn tạp” biên soạn thành sách Toản yếu.
Theo ghi chép của Phan Huy Chú trong Văn tịch chí, bộ Toản yếu do Nguyễn Huy Oánh biên soạn cóTứ thư Toản yếu[61], nhưng hiện nay chỉ còn lại mộc bản của bộ Ngũ kinh Toản yếu và Tính lý Toản yếu.Dưới đây là những mô tả về cấu trúc và hiện trạng của bộ Toản yếu theo khảo sát của chúng tôi dựa trên di sản Mộc bản hiện tồn của dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu:
Loại
|
Phân loại
|
Kinh
|
Số quyển
|
Hiện trạng
|
五經
|
Nhân tập
仁集
|
Ba kinh
葩經
|
二卷
|
Hiện mộc bản giữ được nguyên vẹn dạng mạo bộ sách. Quyển thượng toản yếu chú giải 15 “phong” thuộc phần Quốc phong. Quyển hạ toản yếu chú giải Tiểu nhã, đại nhã, Chu tụng, Lỗ tụng, Thương tụng. Cuối sách có thêm phần Thi kinh khảo dị詩經考異,toản lược từ phần viết về Thi《詩》trong Khốn học kỉ văn《困學紀聞》của Vương Ứng Lân 王應麟(1223-1296)
|
Nghĩa tập
義集
|
Bích kinh
壁經
|
二卷
|
Hiện còn gần như trọn vẹn. Quyển thượng toản yếu chú giải nội dung 26 thiên của các sách Ngu, Thương, Hạ. Mất các mộc bản số 16, 41, 44, 74. Quyển hạ toản yếu chú giải 32 thiên của sách Chu thư. Mất các mộc bản số 39, 72. 82. Cuối sách có thêm một phần Khảo dị考異,toản lược từ phần viết về Thư《書》trong Khốn học kỉ văn《困學紀聞》của Vương Ứng Lân 王應麟.
|
Lễ tập
禮集
|
Lễ kinh
禮經
|
二卷
|
Hiện mộc bản còn giữ nguyên vẹn dạng mạo của bộ sách tuy nhiều mộc bản ở giữa đã bị mất chữ.
|
Trí tập
智集
|
Hy kinh
羲經
|
|
Hiện mộc bản giữ hầu như nguyên vẹn dạng mạo bộ sách, giữ nguyện vẹn nội dung kinh văn, chỉ toản yếu chú giải chư tử. Cuối sách có thêm phần Dịch kinh khảo dị易經考異,toản lược từ phần viết về Dịch《易》trong Khốn học kỉ văn《困學紀聞》của Vương Ứng Lân 王應麟.
|
Tín tập
信集
|
Lân kinh
麟經
|
二卷
|
Hiện mộc bản không còn giữ được nguyên vẹn dạng mạo của bộ sách: chỉ còn từ đầu cho đến phần về Ai công (哀公).
|
性理
|
|
|
二卷
(上下)
|
Hiện mộc bản giữ được nguyên vẹn dạng mạo bộ sách. Trong quyển hạ, phần Lịch đại, từ mộc bản số 37 đến mộc bản số 39 tác giả bộ sách có thêm vào Lịch đại đế vương Việt Nam bao gồm: Đinh triều, Lý triều (8 đời vua), Trần triều (truyền 12 đời vua, tại vị 120 năm), bình luận lấy từ trong Tổng luận 總論của Lê Tung (?-?)[62].
|
|
|
|
|
|
|
Dựa trên những thông tin từNgũ kinh toản yếu tự của Nguyễn Huy Oánhvà những khảo sát về di sản mộc bản mà chúng tôi đã mô tả, có thể xác định bộ Toản yếuđược biên soạn dựa trên các hệ văn bản sau:
(1) Hệ bảnNgũ kinh Đại toàn được khắc in và ban bố tại Việt Nam vào những năm niên hiệu Vĩnh Khánh (1732-1735) theo chính sách chính thống kinh điển của Trịnh Giang.Hệ bản Ngũ kinh Đại toànnày lấyNgũ kinh Đại toàn《五經大全》(từ đây gọi tắt là bộ Đại toàn大全,do nhóm Hồ Quảng胡廣(1370-1418) biên soạn) làm ‘điểm gốc’ (locus classicus), nhưng đã có sự hiệu duyệt của từ các nhà Nho Việt Nam thế kỷ XVIII. Hệ bản này chúng tôi tạm gọi là Ngũ kinh Đại toàn Nam bản 五經大全南版[63].
(2) Toản yếu được biên soạn dựa trên sự tham hội từ các bản độc giải kinh điển riêng (tư bản 私本)[64]của 10 danh gia[65](參會名家私本), được Nguyễn Huy Oanh nêu rõ trong phần Phàm lệ của sách bao gồm: Vũ Thạnh (1664-?), Nguyễn Trác Luân (1700-?), Đỗ Huy Kỳ (1695-1748), Vũ Công Trấn (1685-1755), Hà Tông Huân (1697-1766), Nguyễn Lâm Thái (1686-?), Trần Văn Trứ (1716-?), Phan Cận (1733-1800), Phạm Huy Cơ (1717-1767), Nguyễn Huy Tựu (?-?). Nguyễn Huy Oánh đã xác nhận điều này trong lời tựa Tính lý đại toàn toản yếu:“Ta trưởng thành đidu học. Đại khái tuyển lựa thưởng thức độc bản riêng của các danh gia”[66]. Điều này cũng trùng khớp với nhận xét của Phan Huy Ích về Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Đại toàn Toản yếu là bộ sách“trích chư danh gia độc bản” (trích nhặt từ độc bản của các danh gia)[67].
Trong 10độc bảncủa các danh gia, Nguyễn Huy Oanh khẳng định Tính lý Đại toàn Toản yếulà hiệu đính từ bản do Nguyễn Huy Tựu (1690-1750) biên soạn[68],9 bản của 9 nhà còn lại cụ thể là những bản nào đến nay tạm thời chúng tôi chưa đủ chứng cứ để xác định. Trong 10 độc bản danh gia, có 6bản thuộc về những nhà sư phạm nổi tiếng cuối thế kỷ XVII-thế kỷ XVIII đã được lịch sử ghi nhận như: Vũ Thạnh, Đỗ Huy Kỳ, Vũ Công Trấn, Trần Văn Trứ[69], Phan Cận, Hà Tông Huân, trong đó Vũ Công Trấn và Đỗ Huy Kỳ là hai người Thầymà Nguyễn Huy Oánhcùng Phan [Huy] Cận (người viết Ngũ kinh toản yếu tự《五經纂要敘) đã từng theo học[70].
Tứ thư Ngũ kinh Tính lý Tiết yếu四書五經性理節要
Cũng giống như bộ Toản yếu, sách Tiết yếuđược biên soạn theo nguyên tắc:giữ nguyên nội dung kinh văn của Đại toàn, chỉ tiết yếu tiểu chú, ngoài ra còn có các chú thích bằng chữ Nôm[71].Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, những ký hiệu sách Tiết yếu hiện tồn đều là những bản ván khắc có niên đại thế kỷ XIX[72]vì vậy có ba giả thiết đặt ra về sự hình thành văn bảnTiết yếu:
(1)Trong tất cả các sử liệu ghi chép về Bùi Huy Bích hầu như không nhắc đến việc ông biên soạn bộ Tiết yếu vì thế bộ sách có thể là sản phẩm “nguỵ tạo” của các phường khắc thế kỷ XIX (dựa trên bản Toản yếu của Nguyễn Huy Oánh, cắt xén thêm bớt nội dung, tiết yếu tiểu chú, thêm chữ Nôm, nguỵ tạo thành sách nhà họ Bùi) nhằm mục đích phục vụ nhu cầu khoa cử của Nho sinh đương thời.
(2) Trúc Khê Ngô Văn Triện cho rằng Bùi Huy Bích đã soạn Tứ thư Quan hành (hay Tứ thư hành tham) “dọn lại bộ Tứ thư của Tàu, làm thành một bộ sách giản ước cho học trò dễ học”[73], nhưng không nhắc gì đến Ngũ kinh đại toàn.Vì vậy có thể đặt ra giả thiết: Tứ thư quan hành chính là bản gốc của các bản in Tứ thư tiết yếu thế kỷ XIX,tuy nhiên Ngũ kinh tiết yếu và Tính lý tiết yếu không phải của họ Bùi.
(3) Tiết yếulà bộ sách do Bùi Huy Bích biên soạn. Đây là giả thiết mà chúng tôi theo đuổi. Trong lời phê tờ sớ lên án sách Tiết yếu của Nguyễn Thông, bộ Lễ triều Tự Đức đã khẳng định hai điểm: Thứ nhất: Bùi Huy Bích là người biên soạn bộ sách Tiết yếu đang lưu hành tràn lan trong thị trường sách khoa cử dưới thời Tự Đức; Thứ hai: trước khi được học trò sử dụng rộng rãi dưới thời Tự Đức, ban đầu Tiết yếu vốnchỉ “là bản tư, dùng trong nhà ông ta”[74].
Tuy nhiên, nếu Bùi Huy Bích là người biên soạn thì với những tư liệu còn lại hiện nay rất khó xác định thời gian biên soạn cũng như nội dung nguyên bản ban đầu của bộ Tiết yếu. Các bản Ngũ kinh Tiết yếu hiện tồn, bản sớm nhất có niên đại 1846 (ký hiệu AC. 422/1-10, TVHN) và Tính lý Tiết yếu bản sớm nhất có niên đại 1842 (ký hiệu Hv.13) (Tham khảo Bảng 1, Bảng 3-Phụ lục). Về bộ Tứ thư Tiết yếu hiện tồn, theo khảo sát của Lê Thanh Thuỳ[75], bản sớm nhất là Tứ thư Tiết yếu, kí hiệu VHv.3475 có niên đại 1820 (Minh Mệnh1) (Tham khảo Bảng 2-Phụ lục).
Diễn tiến văn bản của Tứ thư tiết yếu
(Sơ đồ do Lê Thanh Thuỳ cung cấp)
Trong đó, ngoại trừ bản VHv.3475, tất cả các bản còn lại của Tứ thư Tiết yếu đều thêm thượng tầng tăng bổ các phần chú lấy từ Tứ thư mông dẫn四書蒙引của Thái Thanh蔡清(1453-1508), Tứ thư tồn nghi四書存疑của Lâm Hy Nguyên林希元(1481-1565),Tứ thư thiển thuyết四書淺說của Trần Tham 陳琛(1477-1545). Những phần được tăng bổ này theo chúng tôi là đã được các thư phườngthế kỷ XIX bổ sung thêm vào so với nguyên bản.Nhìn từ phương thức biên soạn, Tứ thư Tiết yếugiữ nguyên phương thức giảng chương (giảng nghĩa ý chỉ của kinh điển) của Tứ thư Đại toàn. Sau Tứ thư Đại toàn, Tứ thư mông dẫn của Thái Thanh, Tứ thư tồn nghicủa Lâm Hy Nguyên, Tứ thư thiển thuyết của Trần Tham là những bộ sách tiêu biểu cho phương thức giảng chương kinh điển. Có lẽ đây chính là lý do các thư phường thế kỷ XIX đã chọn lọc đưa thêm nội dung các sách này tăng bổ thêm cho bộ Tiết yếu.
Giả thiết Tứ thư Tiết yếu của Bùi Huy Bích được biên soạn dựa trên Tam Ngư đường Tứ thư Đại toàn 三魚堂四書大全của Lục Lũng Kỳ陸隴其(1630-1692) của nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Anh[76]theo chúng tôi là không chính xác. Chỉ có nhóm văn bản Tứ thư Tiết yếu ký hiệu AC.226, Hv.322, R.380 là in thêm nguyên chú trích từ trong Đại học Đại toàn của Lục Lũng Kì.Vì vậy chính xác phải là Tứ thư Tiết yếu thế kỷ XIX đã chịu ảnh hưởng từ Tứ thư Đại toàn của Lục Lũng Kì, không phải Tứ thư Tiết yếu nguyên bản của Bùi Huy Bích.
Theo suy luận của chúng tôi, bộ sách Tiết yếu của Bùi Huy Bích được hình thành dựa trên ít nhất hai hệ văn bản: (1)Bản in Ngũ kinh đại toàn Nam bản (hệ ván khắc năm 1731) do các nhà Nho Việt Nam hiệu duyệt; (2)Bộ Toản yếu do Nguyễn Huy Oánh biên soạn. Về mối quan hệ giữa bộ Toản yếu và Tiết yếu, không thể không nhắc đến thời gianBùi Huy Bích nhậm chức Đốc đồng ở Nghệ Annăm 1777[77] và mối quan hệ giao hảo của ông với Nguyễn Huy Quýnh (1734-1786), em ruột của Nguyễn Huy Oánh[78].Thêm vào đó, mối quan hệ giữa Nguyễn Huy Oánh-Phạm Quý Thích-Bùi Huy Bích cũng là một trong những căn cứ để chúng tôi cho rằng Bùi Huy Bích đã có sự tiếp xúc với bộ sách Toản yếu của dòng họ Nguyễn Huy. Phạm Quý Thích là học trò của Nguyễn Huy Oánh, đồng thời qua mô tả của Nguyễn Văn Siêu, ông cũng là người bạn tâm giao sâu sắc của Bùi Huy Bích[79]. Từ mạng lưới trí thức này, chúng tôi đưa ra giả thiết: Có thể Bùi Huy Bích đã tiếp xúc với bộ Toản yếu trong thời gian ông ở Nghệ An, hoặc tiếp xúc với bộ sách trên thông qua những người thân của Nguyễn Huy Oánh.
Bùi Huy Bích ban đầu soạn Tiết yếu như là như là nhu cầu tự thân của người đi học, sau đó có thể dùng văn bản này để giảng dạy trong gia tộc. Đến thế kỷ XIX, có thể do danh tiếng của ông, sách Tiết yếu từ “tư gia” biến thành sách chế cử, được các thư phường in ấn và phát hành rộng rãi trong giới sĩ tử.
Dựa trên những khảo sát và các giả thiết đã được xác lập ở trên chúng tôi xây dựng một sơ đồ diễn tiến quá trình hình thành bộ Toản yếu và Tiết yếu thế kỷ XVIII như sau:
Diễn tiến quá trình hình thành văn bản Toản yếu và Tiết yếu
2.2. Vai trò của Toản yếu, Tiết yếutronggiáo dục tư học Việt Nam thế kỷ XVIII
(1) Toản yếu, Tiết yếu là một hoạt động hộ giáo:Toản yếu và Tiết yếu kinh điển tại Việt Nam thế kỷ XVIII theo chúng tôi là một hoạt động hộ giáo, là một phương thức đáp ứng chính sách chính thống kinh điển của nhà nước trong bối cảnh khoa cử giáo dục đương thời.
Nhìn từ nội dung:Toản yếu và Tiết yếu đều là những kinh điển Nho học được biên soạn sau khi nhà nước thi hành chính sách chính thốngsách Đại toàn (đồng nghĩa với việc thống nhất cái học Trình Chu) vì vậy cả hai bộ sáchlấy Đại toàn làm “điểm gốc” (locus classicus),thể hiện đặc tính thuật Chu 述朱(noi theo, kế tục Chu Hy)trong tư tưởng giáo dục chính thống.
Nhìn từ phương thức biên soạn:Để phục vụ mục đích khoa cử, Tiết yếuvàToản yếu giữ nguyên phương thức giảng chươngvà thích nghĩatừ nguyên bảnĐại toàn, ngoài ra còn kết hợp với phương thức khảo cứ huấn hỗ(trong sách Toản yếu có thêm các phần khảo dị Thi, Thư, Dịch lấy từ Khốn học kỉ văn của Vương Ứng Lân. Tuy nhiên phần khảo cứu này chỉ được xem là Phụ lục của các kinh, không nằm trong chính văn). Trong lời tựa Ngũ kinh đại toàn toản yếu, Nguyễn Huy Oánh nói rõ cách thức biên soạn bộ kinh điển của bản thân: “đại thể thường nêu cốt yếu, bỏ phồn tạp”[80]. Bùi Huy Bích thì cho rằng trước thuật kinh điển mục đích chỉ tiện khảo cứu:“Đến như sách, thì không nên làm lại nữa, vì làm là thừa như ngón tay thừa vậy. Nếu được ngày rỗi, thì nhặt lấy những câu trong các Kinh, tham khảo các loại sách như là sách của Chu Tử, chính sử của liệt đại, học qui quan châm, gia phạm hoặc nữ tắc nữa, chia thành từng loại mà biên tập lại, để tiện khảo cứu, như thế là đủ.”[81]. Toản yếu,Tiết yếugiữ nguyên vẹn chỉnh thể chính văn kinh điển chỉ tinh lọc tập chú, tiểu chú.Câu chữ trong tiểu chú cũng được các nhà biên soạn tinh lọc, chỉ giữ lại những câu giải thích khái niệm trực tiếp, sáng rõ cụ thể. Phương thức biên soạn của hai bộ sách chính là một cách thức đáp ứng lại sắc lệnh của chúa Trịnh Giang năm 1732: “Bèn cáo giới đám học sinh cần phải thành thục chính văn, còn như tập chú, tiểu chú thì chọn những phần tinh tuý.”[82].Trong bối cảnh sĩ tử chăm chú vào học thuộc lòng tiểu chú, chuộng san kinh刪經(những sách cắt rời từng thiên chương kinh điển phục vụ mục đích học thuộc lòng của sĩ tử), Toản yếu, Tiết yếuvừa đáp ứng được mục đích: học kinh điển phải nắm được trọn vẹn ý chỉ của tiên Nho, nắm vững được toàn văn kinh điển, đồng thời vừa cung cấp cho người sử dụng một hệ thống tiểu chú thích đáng, ngắn gọn, thực dụng. Tiểu chú ngắn gọn súc tích, cô đọng, nhiều chỗ trong tiểu chú còn không nói rõ là tiểu chú của nhà nào,chính là phương thức chống lại những sĩ tử lười biếng, chăm chăm học thuộc lòng văn tiểu chú để chép vào bài thi. Nhà nước chủ trương thống nhất cái học Nho gia theo Trình Chu, chuyên chú vào tinh tuỷ kinh điển, loại bớt tiểu chú chư tử có thể là một trong những lý do cho sự xuất hiện hàng loạt các kinh điển Nho học được biên soạn với phương thức toát yếu, toản yếu, tiết yếu tại Việt Nam thế kỷ XVIII.
Nhìn từ mục đích sử dụng:Chính sách cấm mua sách Bắc thư của nhà nước năm 1736, theo chúng tôi, có thể đã gây ra đứt đoạn trong tiếp nhận kinh điển Nho học Minh Thanh thế kỷ XVIII.Trong sự khan hiếm của thị trường sách khoa cử, Toản yếu vàTiết yếutrở thành những bộ sách Tứ thư Ngũ kinh Chế cử đáp ứng được nhu cầu của sĩ tử đương thời: một bộ điển tịch đầy đủ chính xác kinh văn, chú giải theo hệ tư tưởng Trình Chu, đã được tinh lọc, không rườm rà phồn tạp. Trong đó Toản yếu còn là sự tinh lọc từ 10 độc bản của danh gia Việt Nam và có sự tiếp nhận khảo chứng học đời Thanh(qua sự tiếp nhận Khốn học kỷ văn của Vương Ứng Lân- một tác phẩm khảo cứu có nhiều ảnh hưởng đến các nhà khảo chứng học đời Thanh như Cố Viêm Võ, Diêm Nhược Cừ…[83]), hoàn toàn có thể được xem là một bộ sách giáo khoa hoàn bị cho người đi học thế kỷ XVIII.
(2) Toản yếu, Tiết yếu: hoạt động thực tiễn của Nho gia Việt Nam thế kỷ XVIII
Hoàng Tuấn Kiệt cho rằng: Thuyên thích học Nho gia về bản chất là một học vấn “thể nghiệm” (experiential) nên trung tâm hay đích đến cuối cùng của hoạt động thuyên thích học Nho gia là “nhân cách” mà không phải là giải mã văn tự. Trong đó, hoạt động nhận thức chỉ là phương pháp, hoạt động thực tiễn là mục đích, là bản chất thực sự. Hoạt động thực tiễn bao gồm hai lớp nghĩa : 1. Hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực nội tại (inner realm), chỉ công phu tu dưỡng, những thể nghiệm tinh thần của chủ thể thuyên thích. 2. Hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực ngoại tại (outer realm): chỉ nỗ lực áp dụng những thể nghiệm hoặc tín niệm tinh thần, hoặc tư tưởng của chủ thể thuyên thích vào thế giới văn hóa hoặc thế giới chính trị thực tế bên ngoài[84].
Theo chúng tôi, việc biên soạn Toản yếu và Tiết yếu chính là một trong những hoạt động thực tiễn của Nguyễn Huy Oánh và Bùi Huy Bích bao gồm cả hai tầng nghĩa: công phu tu dưỡng và áp dụng tín niệm tinh thần ra thế giới chính trị bên ngoài. Biên soạn kinh điển đối với Nguyễn Huy Oánh và Bùi Huy Bích đều là một phương thức để họ thể hiện đúng sở học và chí hướng của họ.
Toản yếulà một bộ kinh điển mang dấu ấn của chủ thể thuyên thích kinh điển rõ nét. Bộ sách là kết quả từ giáo dục gia tộc. Nguyễn Huy Oanh đưa Tính lý toản yếu do thân phụ ông-người thầy đầu tiên của ông-Nguyễn Huy Tựu biên soạn vào trong bộ Toản yếu. Một điểm cần phải nhấn mạnh, trong phần Lịch đại sách Tính lý, bên cạnh lịch đại đế vương Trung Hoa, có lịch đại Đế vương Việt Nam từ triều Đinh đến triều Trần như một ngầm ý về sự đối xứng. Toản yếucũng là kết quả từ quá trình du học kinh đô của Nguyễn Huy Oánh. Trong Toản yếu có dấu vết của 10 độc bản danh gia và Khốn học kỷ văn của Vương Ứng Lân. Tại sao Nguyễn Huy Oánh lại lựa chọn Vương Ứng Lân? Việc ông lựa chọn Vương Ứng Lân là sở thích cá nhân, là do chịu ảnh hưởng từ những người thầy, hay tiếp nhận Vương Ứng Lân là một trào lưu học thuật của thế kỷ XVIII?
Quan niệm về “học” và “người đi học” của Nguyễn Huy Oánh rất cởi mở. Trong Lời tựa Ngũ kinh Toản yếu Nguyễn Huy Oánh nói rõ: sáchToản yếu được biên soạn dành cho người đi học bao gồm: những người học để truy cầu nghĩa lývà học để tiến thân. Nguyễn Huy Oánh quan niệm “Học để làm Nho, được đem sở học làm cái dụng của bậc Thánh minh, ở đất Thai Phụ gần ánh mặt trời, đó là điều vinh dự của con người, là niềm hân hạnh lớn lao của học giả, Nho giả”[85]. Tự nhận mình “từ nhỏ đã có chí dụng thế”[86] nên Nguyễn Huy Oánh có nhiều đồng cảm với những người đi học để tiến thân thông qua khoa cử. Đem những kết tinh trong sở học truyền thụ lại cho người đi học hậu thế chính là tín niệm tinh thần của Nguyễn Huy Oánh. Dùng kinh nghiệm tiếp nhận kinh điển của bản thân để biên soạn một bộ kinh điển phù hợp với nhu cầu của người đi học, vừa bày tỏ được sở học của bản thân vừa đáp ứng được yêu cầu thực tại của bối cảnh khoa cử giáo dục đương thời, hành động thực tiễn này phản ánh rõ tinh thần theo đuổi cái học vị nhân, giáo dục “vị nhân” của Nguyễn Huy Oánh.
Trong khi đó Bùi Huy Bích lại theo đuổi cái học vị kỷ và quan điểm giáo dục “thực hành tự thân”. Quan niệm về “học” và “người đi học” của Bùi Huy Bích dựa trên tiền đề nhân cách đạo đức: “Nhà Thành Chu lấy ba điều: Đức, Hạnh, Nghệ để cất dùng người hiền: các điều dạy ở Khổng-môn thì có Đạo, Đức, Nhân, Nghệ. Nghệ vẫn là một món trong sự Học. Phần văn trong thi thư cùng binh tài lễ nhạc đều là Nghệ cả. Người nay đi học, chỉ theo đuổi về đường văn từ thì đó là phần rốt của Nghệ. Nhất là những văn xoáy cắp trong trường ốc lại càng không phải là cái mà cổ nhân gọi là văn nữa.”[87].Đoạn bàn về “Nghệ” và “Học” trên đây của Bùi Huy Bích cũng chính là thể hiện quan điểm của ông về cuộc tranh luận dùng “thời nghệ thủ sĩ” (do các nhà Thực học Minh Thanh khởi xướng) hay “dĩ văn thủ sĩ” (theo chế độ khoa cử cũ). “Học” quan trọng nhất với Bùi Huy Bích là học để truy cầu nghĩa lý Thánh hiền mà không phải là học để tiến thân: “Cầm bài văn, phải biết nét chữ, phải cẩn thận trong lời nói, việc làm, tiến, thoái; chuyện văn chương thi cử chỉ là chuyện thường”[88].Trong các “tạp thuyết” của Bùi Huy Bích, bên cạnh những bài phê phán Phậtgiáo và Đạo giáo, phần lớn là những phát biểu liên quan đến hành vi đạo đức của kẻ sĩ, đến việc thực hành tư tưởng Nho gia trong đời sống hàng ngày, xem đạo đức Nho học như một hệ quy chiếu để điều chỉnh trật tự xã hội. Trong đó ông nhấn mạnh đến việc: con người cần phải thành thực với cảm xúc và khả năng của mình. Từ đó yêu cầu văn chương cũng cần phải thành thực, chuộng điều lí thiết thực hơn trau chuốt sáo rỗng. Vì thế ông được xem là một trong những người Thầy rất nghiêm khắc với học trò từ những ứng xử hàng ngày. Bởi vì theo ông: “Nghĩ như người ta chỉ lấy sự trau chuốt văn từ để lấy khoa cử làm việc cốt, đã không có cái công sáng suốt thể dụng, lại không có nết tu chỉnh bình thường, tự nhiên dễ sa xuống chỗ thấp kém, cậy cục tham cầu, còn cái gì mà không làm nữa. Sống giữa hoàn cảnh ấy, nếu người không giữ mình đứng ngoài lưu tục, ít không bị nó cuốn đi”[89].Từ phương diện này có thể thấy dấu ấn quan điểm “sùng thực truất hư” của Thực học Minh Thanh để lại khá đậm nét trong quan điểm của Bùi Huy Bích.
Do thể chất và cũng do yêu cầu nghiêm ngặt trong tiêu chí về “học” và “người đi học” nên ông thu nhận rất ít học trò: “Người được ông giảng không quá chục người, nhưng ông yếu nên cũng ít giảng”[90]. Vì vậy có lẽ việc soạn Tiết yếu đối với Bùi Huy Bích thể nghiệm tinh thần học vấn cá nhân hơn là một hành vi truy cầu tri thức. Bởi vì theo Bùi Huy Bích, “học giả chỉ nên đem mà thể hiện ở bản thân, thực hành được một câu, hay dùng được một chữ đã là khéo học rồi”[91].
3. Những thảo luận về đặc trưng thuyên thích kinh điển của Nho gia Việt Nam thế kỷ XVIII
(1) Độc bản tư gia (tư bản私本): sự lựa chọn của tư học Việt Nam thế kỷ XVIII
Tư bản(những bản khắc in giảng chương kinh điển riêng của các danh gia) là một trong những đặc trưng của thuyên thích kinh điển Nho gia Việt Nam thế kỷ XVIII. 10 tư bản (trong đó chiếm quá nửa là tư bản của các nhà sư phạm nổi tiếng) được liệt kê trong Phàm lệ sách Toản yếu cho thấy những thảo luận kinh điển Nho gia thế kỷ XVIII chủ yếu tập trung ở học đường của các danh gia. Học đường với danh tiếng của người Thầy trở thành trung tâm của các hoạt động thuyên thích kinh điển Việt Nam thế kỷ XVIII. Vì tất cả những độc bản tư gia này hiện nay đã không còn nên chúng tôi chỉ có thể suy luận đây là những sách chú giải kinh điển cá nhân của các danh gia- những người đã kinh qua và đã thành công trong khoa cử. Các sách này hoặc chỉ lưu truyền trong giáo dục gia tộc, hoặc là sáchdùng giảng dạy trong học đường tư nhân. Nhưng tất cả các tư bản đều có một điểm chung: chứa đựng kinh nghiệm của người đọc sách, và là người đọc sách đã thành công. Một điểm cần phải lưu ý: các độc bản tư gia có thể đơn thuần chỉ là kết quả của công phu hàm dưỡng cá nhân, người soạn sách chỉ muốn thể nghiệm sở học nhưng chính sự thành danh của người biên soạn sách trong con đường khoa cử lại quyết định vị trí tối thượng của các tư bản này trong đời sống khoa cử giáo dục thế kỷ XVIII. Tiết yếu là một minh chứng rõ nhất cho tình trạng này. Sự phổ biến của sách Tiết yếu trong đời sống sĩ tử thế kỷ XIX cho thấy bên cạnh việc truy tìm nghĩa lý thánh hiền trong kinh điển thì nhiều sĩ tử muốn thông qua “kinh nghiệm thành công” của họ Bùi để tìm kiếm cơ hội đỗ đạt.
Việc nhà nước cấm mua Bắc thư cũng là một trong những yếu tố căn bản khiến cho độc bản tư gia trở thànhmột trong những sách tham khảo được sĩ tử Việt Nam thế kỷ XVIII “săn đón”. Từ hiện tượng sự phổ biến của các độc bản tư gia, chúng ta cũng thấy một nghịch lý, nhà nước cấm mua Bắc thư (Tứ thư Ngũ kinh Chế cử), nhưng lại cho phép và cổ vũ khắc in tư bản- thực chất cũng là các sách Tứ thư Ngũ kinh Chế cử do các Nho sĩ nổi tiếng Việt Nam biên soạn. Đây cũng có thể là là lý do giáo dục khoa cử Việt Nam thế kỷ sau hoàn toàn bị chi phối bởi các sách Tứ thư Ngũ kinh Chế cử do các thư phường cung cấp.
(2).Bác độcnhưng tinh thuần:tư duy lựa chọn của Nho gia Việt Nam thế kỷ XVIII
Toản yếu và Tiết yếu kinh điển tại Việt Nam thế kỷ XVIII theo chúng tôi là những đại diện tiêu biểu cho sự tiếp nhận kinh điển mang tính lựa chọn của Nho gia Việt Nam thế kỷ XVIII: không loại trừ cái mới nhưng cái mới phải nằm trong chính thống. Nguyễn Huy Oánh và Bùi Huy Bích, trong biên soạn Toản yếu và Tiết yếu đều cho thấy sự tiếp thu Thực học Minh Thanh, nhưng họ chỉ tiếp thu phương pháp khảo cứu kinh điển mà không tiếp thu tôn chỉ chống Trình Chu của các nhà Nho Thực học. Những thành tựu của Thực học Minh Thanh ngược lại được những Nho gia Việt Nam lựa chọn để phục vụ cho việc bổ sung thêm tư tưởng Trình Chu.
Chúng tôi không cho rằng việc toản yếu, tiết yếu là một hoạt động “giản hoá” hay “rút gọn” kinh điển Nho học như nhà nhà nghiên cứu Trung Quốc Đới Khả Lai 戴可来đã nhận xét trong khi bàn về đặc điểm tiếp nhận của văn hóa Việt Nam[92].Ngoài vai trò có tính chất hộ giáo và là hoạt động thực tiễn như chúng tôi đã trình bày ở trên, việc toản yếu, tiết yếu kinh điển còn phản ánh đặc trưng kiên trì tiêu chí “bác độc” nhưng phải “tinh thuần” trong truyền thống “học” của Nho gia Việt Nam thế kỷ XVIII. Kiến thức có thể không rộng, nhưng cần phải nắm được điểm tinh tuỷ trong kiến thức, đây chính là một tiêu chí quan trọng trong truyền thống “Học” của Nho gia.
Từ góc độ khu vực, phương thức “rút gọn” tiểu chú này cũng phổ biến trong tiếp nhận kinh điển của các nhà Nho Triều Tiên cổ đại. Ngay từ rất sớm họ cũng đã có những hoạt động thuyên thích “tiết yếu” kinh điển. Triều Tiên thực lục chép năm 1398 đám Triệu Phác dâng Tứ thư tiết yếu lên nhà vua. Năm 1399, Triều Tiên thực lục chép truyện Triệu Phác đọc xong Luận ngữ tiết yếu đem tiến lên vua[93]. Trong văn hiến của họ cũng có rất nhiều các văn bản tiếp nhận kinh điển Nho học dưới dạng tiết yếu, giản ước, ước lược… Tiêu biểu trong số đó chính là Chu Tử tiết yếu của nhà Chu Tử học Lí Thoái Khê.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng: phương thức toản yếu, tiết yếu kinh điển tại Việt Namchủ yếu diễn ra đối với những kinh điển được sử dụng trong giáo dục khoa cử. Điều này cũng tương tự với Triều Tiên cổ đại, một nước có nền khoa cử giáo dục tương đồng với Việt Nam. Từ góc độ này, chúng tôi cho rằng Tiết yếu, Toản yếu mang đặc trưng tư duy không phải chỉ của nhà Nho Việt Nam thế kỷ XVIII mà nó còn là đặc trưng tư duy của các nhà Nho ở khu vực ngoại biên. Từ phương diện chủ thể tiếp nhận, từ ngoại vi nhìn vào trung tâm, các nhà Nho Việt Nam có sự cân nhắc để tìm kiếm một phương thức tiếp thu kinh điển nhanh nhất và phù hợp nhất cho bản thân thích đáng với bối cảnh lịch sử mà họ đang sống.Bên cạnh đó, với tâm lý của nhà Nho ngoại biên, các nhà Nho Việt Nam luôn quan sát những vận động học thuật tại Trung Hoa trong đó có sự vận động của Thực học Minh Thanh. Họ không nhìn thấy được thành quả thực chất của cuộc cải cách từ phong trào Thực học Minh Thanh, vì vậy thận trọng dung hợp là cách thức mà những nhà Nho Việt Nam thế kỷ XVIII đã lựa chọn khi biên soạn những bộ sách như Toản yếu và Tiết yếu.
PHỤ LỤC
Bảng 1: Tình trạng hiện tồn của Ngũ kinh tiết yếu
Kí hiệu
|
Thư viện
|
Nhà in
|
Năm
|
Tàng bản
|
Thông tin khác
|
AC. 422/1-10
|
VHN
|
Đa Văn Đường
|
1846
Thiệu Trị 6
|
Bùi thị nguyên bản
|
Đầy đủ. 5 nguyên tựa, 1 cương lĩnh, 1 mục lục. Bài tựa viết năm Thiệu Trị 1846
|
AC.194/1-10
|
VHN
|
Tụ Văn Đường
|
1897
Thành Thái 10
|
Bùi Thị nguyên bản
|
Đầy đủ. 5 nguyên tựa, 1 cương lĩnh, 1 mục lục. Bài tựa viết năm Thiệu Trị 1846 Bài tựa viết năm Thiệu Trị 6 (1846)
|
AB.539/1-12
|
VHN
|
Đa Văn Đường
|
1837
Minh Mệnh 8
|
Không rõ
|
Không rõ
|
Hn.747-749
|
VVH
|
Tập Văn Đường
|
Không rõ
|
Đan An tàng bản. Bùi thị nguyên bản
|
Không đầy đủ. Chỉ còn lại Thư kinh tiết yếu.
|
Paris. MG. FC. 30250 - 30253:
|
|
Mỹ Văn Đường
|
Không rõ
|
Không rõ
|
|
Bảng 2: Tình trạng hiện tồn của Tứ thư Tiết yếu (Theo khảo sát của Lê Thanh Thuỳ)
Kí hiệu
|
Thư viện
|
Nhà in
|
Năm
|
Tàng bản
|
Thông tin khác
|
VHv.3475
|
VHN
|
|
1820
Minh Mệnh 1
|
Đan An
|
Đầy đủ.174 trang không có tựa
|
VHv.3553
|
VHN
|
Thịnh Văn Đường
|
1851
Tự Đức 4
|
Trần Thị tàng bản
|
Rách, thiếu phần cuối. Có Tứ thư tiết yếu tự. Chỉ có đến tờ 73.
|
AC.226/1-4
|
VHN
|
Liễu Văn Đường
|
1895
Thành Thái 7
|
Đan An tàng bản
|
Đầy đủ. Có Tứ thư tiết yếu tự.Thượng tầng tăng bổ.
|
VHv.3767
|
VHN
|
Không rõ
|
Không rõ
|
|
Rách nát phần đầu. Thiếu bìa, còn một phần Tứ thư tiết yếu tự.
|
Hv.321-328
(Hiện giờ là ký hiệu Hn.321-328)
|
VVH
|
Liễu Văn Đường
|
1895
Thành Thái 7
|
Đan An tàng bản
|
Đầy đủ. Có Tứ thư tiết yếu tự. Thượng tầng tăng bổ.
|
R.380
|
TVQG
|
Thịnh Mỹ Đường
|
1895
Thành Thái 7
|
|
Đầy đủ có Tứ thư tiết yếu tự.
|
Bảng 3: Tình trạng hiện tồn của Tính lý Tiết yếu
Kí hiệu
|
Thư viện
|
Nhà in
|
Năm
|
Tàng bản
|
Thông tin khác
|
Hv.13
|
VVH
|
Thịnh Văn Đường
|
1842
Thiệu Trị 2
|
Không rõ
|
Đầy đủ. Có mục lục
|
Hv.14
|
VVH
|
Thịnh Văn Đường
|
1842
Thiệu Trị 2
|
Không rõ
|
Đầy đủ. Có mục lục
|
AC.5b/1-2
|
VHN
|
Tập Văn Đường
|
1843
Thiệu Trị 3
|
Không rõ
|
Thiếu các quyển 3,4,5
|
AC.5a/1-2
|
VHN
|
Mỹ Văn Đường
|
1844
Thiệu Trị 4
|
Không rõ
|
Đầy đủ. Có mục lục
|
Hn.307-311
|
VVH
|
Tập Văn Đường
|
1843
Thiệu Trị 3
|
Đan An tàng bản. Bùi Thị nguyên bản
|
Đầy đủ. Có mục lục
|
Bảng 4: Tư học Việt Nam thế kỷ XVIII: mô hình hoạt động và một vài nhân vật tiêu biểu
|
Tên gọi
|
Người chủ trì (Tôn sư)
|
Môn đệ
|
Mục đích hoạt động
|
Giáo dục gia tộc
|
Phúc Giang thư viện (福江書院)
|
Nguyễn Huy Oánh (1713-1789), và gia tộc Nguyễn Huy ở Trường Lưu.
|
Trương Đăng Quỹ, Trần Công Xán, Phạm Nguyễn Du, Phạm Quý Thích...[94]
|
- Giáo dục Nho học
- Sưu tập, sao chép, biên soạn, khắc ván và in ấn kinh điển Nho học
|
Học đường (學堂)
|
Không rõ
|
Nguyễn Đình Trụ (1626-1703)[95]
|
Chưa rõ
|
Giáo dục Nho học
|
Trường Hào Nam (壕南場)
|
Vũ Thạnh (1664-?)
|
“Khi nhàn rỗi ông dạy đến 1000 học trò, số người thành đạt rất nhiều”[96]. Tiêu biểu như: danh sĩ Nguyễn Tông Quai (1693-1763), Tiến sĩ Hoè Hiên Trần Hiền (1684-1742)...
|
Giáo dục Nho học: Cửu kinh, binh thư và các phương thuật khác
|
Không rõ
|
Vũ Công Trấn (1685-1755)[97]
|
Nguyễn Huy Oánh, Phan Huy Cận[98].
|
Giáo dục Nho học
|
Không rõ
|
Đỗ Huy Kỳ (1695-1748)[99]
|
Nguyễn Huy Oánh, Phan Huy Cận (1722-1789)
|
Giáo dục Nho học
|
Không rõ
|
Hà Tông Huân (1697-1766)
|
“Ông thích tác thành cho người hậu tiến. Học trò của ông đỗ rất nhiều. Khi ông về hưu có người đã thăng lên Tướng phủ”[100]
|
Giáo dục Nho học
|
Không rõ
|
Nhữ Đình Toản (1702-1773)[101]
|
Phan Huy Cận (1722-1789)
|
Giáo dục Nho học
|
Không rõ
|
Phan Huy Cận (1722-1789)
|
“Ở nhà 8 năm , lúc nhàn rỗi ông mở trường dạy học để tác thành bọn hậu tiến. Tuy trong nhà không có gì nhưng vẫn điềm nhiên cùng học trò giảng tập”[102]
|
Giáo dục Nho học
|
Không rõ
|
Lê Quý Đôn (1726-1784)
|
Bùi Huy Bích (1744-1818), Trần Công Thước (?-?)
|
Giáo dục, biên soạn, thảo luận kinh điển Nho học
|
Không rõ
|
Phạm Nguyễn Du (1739-1786)
|
Chưa rõ
|
Giáo dục Nho học
|
Không rõ
|
Phạm Quý Thích (1760-1825)
|
Chu Doãn Trí (1779-1850), Nguyễn Văn Lý (1795-1868) (sau này lập trường tư thục Chí Đình), Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) (sau này lập trường tư thục Phương Đình), Vũ Tông Phan (1800-1851)...
|
Giáo dục và biên soạn kinh điển Nho học
|
Không rõ
|
Bùi Huy Bích (1744-1818)
|
Hà Tông Quyền (1798-1839), Doãn Uẩn (1795-1850), Lưu Công Đạo[103]
|
Giáo dục và biên soạn kinh điển Nho học
|
Dân học
|
Không có
|
Ông đồ (những Nho sinh không đỗ đạt, ít danh tiếng)
|
Trẻ em nhỏ tuổi
|
Dạy chữ Hán và những giáo lý cơ bản đạo đức Nho gia.
|
[1]NCS, Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
[2] Chun-Chieh HUANG and NGUYEN Kim Son, 《越南儒學資料簡介》(Introduction to Sources in Vietnamese Confucianism), 臺灣東亞文明研究學刊第6卷第2期(總第12期) 2009年12月, 第221-226頁.
[3]Tham khảo: Trịnh Khắc Mạnh, “Thư tịch Hán Nôm luận giải về Tứ thư và Ngũ kinh hiện có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, 2005.
[4] Quách Thu Hiền, Từ vấn đề “Bắc thư” và “Nam thư” thử diễn giải lại “quá trình tiếp nhận” của sách “tiết yếu” tại Việt Nam”, (Tham luận khoa học, Hội thảo “Kinh điển Nho gia ở Việt Nam”, Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Trường ĐHKHXH&NV, 2009).
[5] TheoYen-Wen Chou, từ đời Minh đã có một số bộ thư mục chia những thư tịch (bao gồm những thư tịch chú giải Tứ thư Ngũ kinh) dùng tham khảo trong khoa cửthành một loại riêng. (Tham khảo Yen-Wen Chou (周彥文), 《論歷代書目中的制舉類書籍》《書目季刊》31卷1期 (1997 / 06 / 01) , 第1-13頁). Loại sách chú giải Tứ thư Ngũ kinh này được các nhà nghiên cứu đương đại như Thẩm Tuấn Bình 沈俊平,Trần Thăng Huy陳昇輝gọi chung là Tứ thư Ngũ kinh chế cử四書五經制舉(hoặc Tứ thư Ngũ kinh ứng cử四書五經應舉). (Tên gọi này không mang hàm nghĩa tiêu cực, mục đích chỉ để thuận tiện cho sự phân loại thư tịch ). Thẩm Tuấn Bình沈俊平, dựa trên sự phân loại của Trần Thăng Huy陳昇輝, chia Tứ thư ứng cử四書應舉của đời cuối Minh thành 3 loại: Giảng chương講章, cử nghiệp chế nghệ 舉業制藝, khảo cứ huấn hỗ考據訓詁. (Tham khảo沈俊平,《明中晚期坊刻制舉用書的出版及朝野人士的反應》《漢學研究》第27卷,第1期(民國98年3月), 第141-175頁)
[6] Tham khảo: Nguyễn Tuấn Cường, Tiếp cận văn bản học với Tứ thư ước giải四書約解, Tạp chí Hán Nôm, số 2/2014, tr.27-45
[7] Theo Lịch triều hiến chương loại chí-Văn tịch chí. Nguyên văn: “朱訓彙纂五卷。石洞進士范阮攸輯。大略倣近思錄目。取朱文全集分類纂節。凡六百餘條”(Chu huấn vị toản, 5 quyển, Tiến sĩ Thạch Động Phạm Nguyễn Du biên soạn. Đại lược phỏng theo các mục trong sách Cận tư lục. Đem toàn tập của Chu Văn phân loại biên soạn chắt lọc. Tổng cộng hơn 600 điều). Bản tiếng Việt Lịch triều hiến chương loại chí (tập 2-NXB Giáo dục, H. 2007, tr.404) in là Chu huấn toản yếu. Chúng tôi phiên âm theo bản chữ Hán Lịch triều hiến chương loại chí, quyển 42, Văn tịch chí《歴朝憲章類誌。卷第四十二。文籍誌》, ký hiệu Y-X-2-13, tại Đông Dương Văn Khố東洋文庫, Nhật Bản. Sách Chu huấn vị toản朱訓彙纂hiện nay không rõ tông tích.
[8] Nguyên văn: “性理纂要二卷四書五經纂要十五卷探花阮輝