Tuy nhiên, cho đến hôm nay, một câu hỏi có lẽ vẫn quẩn quanh trong đầu những người làm nghiên cứu về thị trường nghệ thuật tại Việt Nam, đó là, dẫu vào thời đoạn đó, dòng tiền đổ vào nghệ thuật Việt Nam là có, và có nhiều, không những thế, nó đã còn có tính quay vòng, theo nghĩa mua đi bán lại và thu lãi, rồi lại tiếp tục bán ra và mua vào tiếp, - liệu trong chính thời điểm đó, Việt Nam đã có cái gọi là thị trường nghệ thuật chưa?
Câu trả lơì là có và không. Có, nếu chúng ta coi bất kể khi nào có hành vi mua bán tự do ( không chịu sức ép ý thức hệ và tư tưởng) và vật mua bán được định giá dựa trên thoả thuận cá nhân tự do giữa kẻ mua và người bán chứ không có cưỡng buộc giữa hai kẻ này. Tuy nhiên câu trả lời sẽ là Không, nếu chúng ta coi thị trường nghệ thuật là điều gì có tính định chế, có nghĩa rằng- là một khu vực được ràng buộc chặt chẽ bởi luật và quy định, lên đến mức pháp lý. Nói cách khác, ở đây, thị trường nghệ thuật không phải chỉ là một nơi diễn ra hành vi mua bán sơ khai, mà phải là một địa bàn/trạm mà ở đó, nghệ sĩ, người mua nghệ thuật, giám tuyển, đại diện nghệ thuật, chủ gallery, v.v., tương tác với nhau và tất cả đều được bảo vệ bằng luật.
Rõ ràng là để có một thị trường nghệ thuật minh bạch và tự do, tức điều gì sẽ hoà nhập được vào hệ thống thị trường nghệ thuật toàn cầu, vấn đề không chỉ ở cá nhân các nghệ sĩ và gallery, mà còn ở hệ thống tài chính cũng như các cơ sở pháp lý ở tầm quốc gia, nhà nước, đặc biệt về mặt các cơ sở ấy phải bảo vệ được người mua và kẻ bán ở góc độ bản quyền cũng như sở hữu cá nhân. Hơn nữa, nhìn một cách nào đó, thị trường nghệ thuật không chỉ nằm ở góc độ tạo ra giá trị kinh tế trực tiếp, mà còn ở chỗ nó gián tiếp tạo ra các giá trị văn hoá. Chính ở đây nó phải dựa vào các sự cấu tạo tiên kiến, thiên ái về thẩm mỹ và văn hoá, tức những gì đặt cơ sở trên sự giáo dục nghệ thuật ở tầm quốc gia hay tư nhân thông qua các thực hành bảo tàng, triển lãm, hội thảo và ấn loát. Tất cả những khía cạnh này, có lẽ chỉ mới rất gần đây thôi, mới được băt đầu quan tâm mà hội thảo này là một trong những quan tâm ban đầu ấy. (vào năm ngoái, tôi nhớ bộ văn hoá cũng đã có một hội thảo về chủ đề này tại Hà Nội). Dù sao, muộn còn hơn không.
Trong vai trò một nghệ sĩ, giám tuyển trực tiếp làm việc, tôi xin chia sẻ một vài tư liệu mình thu thập được, với mong muốn góp một giọng điệu có tính dụ thể và thực hành vào cuộc thảo luận nhiều chiều về thị trường nghệ thuật do hội thảo này đặt ra
Một kinh nghiệm nhỏ từ Canada
Vào năm 2003, trong một chuyến đi dự trại sang tác tại Mỹ (tại Vermont studio center), trong những buổi tối hay đêm vùi mình trong thư viện của trung tâm sau cả ngày làm việc tại studio, tôi đã tìm thấy tư liệu này. Đây nguyên là một dạng kỉ yếu, do CARFAC (Canadian Artists’ Representation/Le Front des artistes canadiens)- là hiệp hội các nghệ sĩ thị giác và truyền thông Canada- đại diện cho các nghệ sĩ Canada ấn hành.. Mục tiêu chính của hiệp hội này là pát triển các chính sách, ấn bản, và dịch vụ để trợ giúp cho các nghệ sĩ, galleries, giám tuyển và các nhà tài trợ nghệ thuật cung các thành phần khác trong thị trường nghệ thuật tạo ra được một khí quyển kinh tế làm lợi cho các nghệ sĩ thị giác (dịch theo lời trên website của hội). Kỷ yếu này là một trong các ấn bản nhằm phục vụ mục tiêu nói trên của Carfac
Ngay thời đó, khi đọc cuốn sách này, tôi đã cảm thấy vô cùng thich thú bởi liên nối các vấn đề cuốn sách đề cập đến tình hình cụ thể tại Việt Nam của những năm đầu 2000, mà như đề cập ở phần đầu bài tham luận, là một thời đoạn “bùng nổ” của sự mua bán nghệ thuật cá nhân và tự do tại Việt Nam. Chính vì thế, ngay lúc đó tôi đã đứng cả ngày ở thư viện dùng máy photocopy trả tiền tại đó để photo toàn bộ cuốn sách (dĩ nhiên là phải trả tiền, mấy xu một trang thì không nhớ, và dĩ nhiên chịu nhiều ánh mắt khó chịu của các bạn nghệ sĩ khác đang chờ sử dung máy). Photocopy sách nàyvề từ dạo đó, và cũng định bụng có dịp sẽ dịch chơi, và giơi thiệu trên yahoo 360 ( lúc đó yahoo 360 chưa đóng tại Việt Nam), thế nhưng lu bu mãi, nên không làm được. May quá, nay có hội thảo, nên xin phép dịch một vài phần trong kỉ yếu này, mà tôi thấy quan trọng và có thể có ích cho cả các nghệ sĩ lẫn người làm chính sách, nhất là trong việc hình dung về một thị trường nghệ thuật như một định chế văn hoá, luật pháp và tài chính- dưới góc nhìn của mối quan hệ giữa nghệ sĩ và các thành phần khác trong thị trường nghệ thuật
Cần phải nói thêm rằng, bởi CARFAC là một hiệp hội có tính thực hành (không phải lý thuyết), thế nên các trường hợp cũng như các tư vấn về quyền/quyền lợi của họ cho nghệ sĩ rất cụ thể. Chính tính cụ thể và chi tiết về mặt thực hành trong các mối quan hệ dù là mua bán, trao đổi, hay hợp tác thuộc phạm vi các thành phần tạo ra thị trường nghệ thuật là điều tôi đánh giá rất cao trong cuốn kỉ yếu này, và là lý do tôi giới thiệu nó chứ không giới thiệu các cuốn sách mang tính lý thuyết hơn ( chẳng hạn cuốn Understanding International Art Markets and Management, do Iain Roberstonbiên tập, NXB Routledge 2005, hay cuốn The Art Business, của Ian Robertson và Derrick Chong biên tập, Routledge xuất bản 2008). Tuy nhiên, nếu có điều kiện, tôi cũng xin giới thiệu hai cuốn này cho các bạn muốn tìm hiểu sâu hơn và lý thuyết hơn về thị trường nghệ thuật cũng như về kinh doanh nghệ thuật thế giới
Bản dịch cuốn kỷ yếu của Carfac
Chương 1 của cuốn kỉ yếu này có tên là Khía cạnh kinh doanh của nghệ thuật. Chương này chia làm thành nhiều mục nhỏ, bao gồm,
a/ Các quyền của nghệ sĩ,
b/Vấn đề bản quyền,
c/Vấn đề chi phí trả cho nghệ sĩ khi triển lãm tác phẩm của họ,
d/Cách làm hợp đồng,
e/ Các nguy cơ về mặt sức khoẻ mà nghệ sĩ phải đối mặt (khi làm việc trong các môi trường và chất liệu độc hại),
g/ Các vấn đề về việc bảo quản và giữ bền tác phẩm
h/ Việc tài trợ cho nghệ sĩ,
i/ Các dạng cơ hội triển lãm ,
k/ Về việc tiếp cận với các gallery,
l/Thực chất của mối quan hệ giữa nghệ sĩ và Gallery,
m/ Về việc bán tác phẩm,
n/ Về việc ghi chép sổ sách kế toán thu chi (bookkeeping),
o/về thuế thu nhập,
p/Về thuế hàng hoá dịch vụ (thuế gián thu được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ thể đem nộp nó cho cơ quan thu là các doanh nghiệp,
q/ Provincial sales tax (PST)- là 1 trong 2 loại thuế của Chính Phủ Canada, cái kia là là viết tắt của 'Gouverment sales tax' (GST). khi người dân Canada mua bất cứ một món hàng gì đều phải đóng thêm 2 loại thuế này, 2 loại thuế này tùy thuộc vào các Tỉnh Bang tự điều chỉnh về phần PST, có thể thấp hoặc cao hơn so với các Tỉnh Bang khác
r/ Về bảo hiểm tác phẩm và cá nhân,
s/Về vận chuyển tác phẩm,
t/các hướng dẫn sử dụng internet để tra cứu và quảng cáo
Ở dưới đây tôi xin chọn dịch mục a và l để tham khảo
a/ Các quyền của nghệ sĩ
Nghệ sĩ thực hiện rất nhiều hành vi khác nhau chứ không chỉ có hành vi sáng tạo. Điều này càng chính xác một khi tác phẩm đã được làm xong và đưa ra khỏi xưởng. Các ví du của những hành vi khác này bao gồm triển lãm, thương thảo về việc sử dụng hình ảnh tác phẩm, bán tác phẩm, việc nhận đặt hàng tác phẩm đặt hàng và nộp thuế thu nhập từ tác phẩm.
Khi ai đó sử dụng nghệ thuật của bạn theo một cách không thuận lợi với bạn, bạn có thể sẽ khó chịu hay lo lắng. Tuy nhiên, khi hiểu rõ vai trò và quyền của mình là kẻ sáng tạo, thay vì giận giữ khó chịu hay lo âu, bạn sẽ có khả năng tìm những bước đi thích hợp để tác động sao cho tác phẩm của mình được sử dụng theo những cách đúng đắn hơn
Carfac tin rằng nghê sĩ chính là người phát ngôn tốt nhất cho bản thân trong vấn đề này. Tuy nhiên, nghệ sĩ cần có đủ thông tin về quyền và trách nhiệm của mình để có thể định hướng nghể nghiệp cho bản thân. Bởi lẽ đó, Carfac đã làm việc với những người sử dụng tác phẩm để đảm bảo việc ứng xử công bằng với nghệ sĩ, và làm việc với nghệ sĩ để khuyến khích sự tự tin của họ.
Dưới đây là các quyền của nghệ sĩ được rút ra từ khảo sát và nghiên cứu của Carfac
Nguyên tắc cơ bản:Khi bạn, người nghệ sĩ, cân nhắc việc sử dụng tác phẩm của mình, điều quan trọng cần nhớ ở đây là việc: bạn chính là kẻ duy nhất có quyền quyết định điều gì xảy ra cho tác phẩm đó. Dưới đây, bạn sẽ được cung cấp các thông tin giúp bạn quyết định cách sử dụng tác phẩm của bạn ra sao,- một quyết định dựa trên tri thức
Thương thảo
Bất kỳ khi nào thảo luận về tác phẩm với người sử dung tiềm năng, đó là lúc bạn đang thương thảo. Thương thảo là một tiến trình dẫn tới sự đồng thuận với người sử dụng hay người mua tác phẩm, hoặc với người có thể đem lại các lợi ích cho nghề nghiệp của bạn sau này. Đừng nghĩ đây nhất thiết phải là một tiến trình đối kháng
Các quyền của nghệ sĩ khi thương thảo
Khi thương thảo, bạn có một số quyền nhất định. Những quyền này bao gồm:
-Quyền khẳng quyết điều bạn muốn và mong đợi
-Quyền nghe hay không nghe các yêu cầu và mong đợi từ bên thứ ba
-Quyền được đòi hỏi làm rõ tại bất kì điểm nào trước khi quyết định
-Quyền từ chối hay chấp nhận một hay nhiều đòi hỏi. Thương thảo có thể ngưng tại một điểm, hoặc tiếp tục xa hơn điểm đó. Một thoả thuận thoả mãn đôi bên có thể được đạt tới hay không thể đạt tới
-Quyền đưa ra thoả hiệp, nếu thoả hiệp đó là có thể chấp nhận được với bạn
Quyền để đưa ra quyết định sau cuối là đồng thuận hay không đồng thuận
-Quyền để có trợ giúp chuyên nghiệp, có thể từ luật sư, chuyên gia tài chính, Carfac, hay bất kì một bên tư vấn thích hợp nào khác
Khi thương thoả thất bại Khi bạn không thể chấp nhận các điều khoản đưa ra từ người muốn sử dụng nghệ thuật của bạn và người đó cũng không sẵn sàng thay đổi chúng, thương thảo đã thất bại. Vào lúc này, bạn có thể cảm thấy áp lực của việc tái xem xét lại về đòi hỏi của mình hay huỷ bỏ mọi thương thảo. Hầu hết các nghệ sĩ đều sẽ có lúc rơi vào tình huống này.
Các tình huống áp lực Các tình huống nghệ sĩ có thể bị gây áp lực
-Khi bạn tham dự vào một triển lãm
-Khi bạn tham dự vào một cuộc bán đấu giá
-Khi tác phẩm của bạn kết hợp với các chiến dịch hay sản phẩm khác
-Khi tác phẩm sử dụng như hàng hoá
-Khi có yêu cầu nhượng lại tất cả hay một phần bản quyền
-Khi có đòi hỏi phải chấp nhận toàn bộ hợp đồng thay vi chỉ một số điều khoản
Sức ép được tạo ra cho nghệ sĩ theo những cách nào
Thuyết phục kiểu bằng hữu. Ví dụ: “ Việc tặng vài tác phẩm cho cuộc đấu giá này chả phải là một ý tưởng quá hay sao? Nhiều người sẽ xem chúng, và đây là cơ hội hay ho cho tác phẩm của bạn được triển lãm”
Giả vờ rằng nhu cầu của bạn và của người sử dụng tác phẩm của bạn là giống nhau. Ví dụ:” Tôi thật sự cho rằng nhiều nghệ sĩ sẽ sẽ thích đem tặng tác phẩm. Cho nên nếu anh từ chối thì không hay ho gì lắm đâu. Chả lẽ có mỗi một cái tranh thôi mà anh không đồng ý ư? Anh có chắc là anh không tham gia không?”
Sức ép về mặt đạo đức: Ví dụ” Chúng tôi thật sự cần tới sự đóng góp của anh. Với một lý do rất chính đág như thế, mà nếu không có được sự đóng góp của anh, chúng tôi sẽ thất bại. Hãy nhớ, sự kiện này là vì các trẻ em nghèo
Nhấn mạnh rằng bạn đang hành xử vô lý. Ví dụ: Mọi nghệ sĩ khác đều làm vậy, và một vài trong số họ có danh tiếng lớn lao hơn anh nhiều. Tôi không tìm ra lý do vì sao chỉ mỗi mình anh nói không?
Nhấn mạnh về cơ hội bán tranh hay triển lãm
Đe doạ ( Kiểu” nếu bạn không làm điều tôi muốn, bạn sẽ hối hận đấy…”)
Các cách chống lại sự cưỡng ép
Khi bị ép uổng vì bất kì lý do nào, hãy nhớ rằng bạn có các quyền. Các quyền này đều có hiệu lực ngang nhau bất kể bạn dùng chúng để làm việc với giám tuyển, nhà đại diện nghệ thuật, người đặt hàng tác phẩm, hay bất kì thành phần sử dụng nghệ thuật nào khác. Các quyền của một nghệ sĩ bao gồm như dưới đây
-Quyền hiểu rõ và kĩ lưỡng tác phẩm sẽ được sử dụng ra sao?
-Quyền yêu cầu nghệ thuật của mình phải được sử dụng theo cách đúng đắn và thích hợp
-Quyền khẳng định quan điểm
-Quyền đưa ra đề nghị khác nếu bạn nghĩ có các giải pháp khác
-Quyền ngưng thương thảo, hoặc mãi mãi, hoặc tạm thời
-Quyền nói Không, bất chấp áp lực và đe doạ tiếp theo
-Quyền đồng ý trong các điều kiện có thể là chưa công bằng với mình
-Quyền có các trợ giúp chuyên môn trước khi đưa ra quyết định
Tóm tắt: Mọi nghệ sĩ đều buộc phải sử dụng các hành vi ngoại sáng tạo, tức các hành vi liên quan đến sự sử dụng tác phẩm. Các hành vi này có thể dẫn tới các tình huống chịu sức ép. Phản ứng với sức ép lúc thì thiên về cảm xúc, lúc thì liên về lý trí, và điều này phụ thuộc vào vốn tri thức mà bạn có khi ở trong tình huống cụ thể. Trước bất kể kiểu áp lực nào đè lên bạn, trong vai trò một nghệ sĩ, bạn có các quyền hợp pháp để phản ứng lại. Ở đây, một trong những quyền quan trọng nhất, đó là quyền có sự trợ giúp chuyên môn từ các chuyên gia. Hãy nhớ điều này
…
l/Các mối quan hệ giữa nghệ sỹ và Gallery
Mối quan hệ nghệ sỹ và Gallery là một mối quan hệ đôí tác kinh doanh, và như trong các quan hệ đối tác khác, cả hai bên đều cần phải có nỗ lực để làm cho mối quan hệ này trôi chảy. Xung đột có thể là một phần trải nghiệm, song ở đây, cũng tồn tại cơ hội tưởng thưởng hai chiều. Rất nhiều vấn đề sẽ xuất hiện bởi các mong đợi và giả định khác nhau từ hai phía, bởi sự không rõ ràng và thiếu giải minh, hay bởi các câu hỏi đúng chưa được đặt ra. Trong vai trò nghệ sĩ, bạn phải biết bạn mong đợi điều gì, biết ai có trách nhiệm cho việc gì, và biết điều gì là không phải lẽ. Hãy chắc rằng bạn và gallery hiểu đúng nhau. Điều này sẽ tạo nên trải nghiệm tích cực cho cả hai bên
Xung đột: Trong bất kỳ mối quan hệ đối tác kinh doanh nào, đều tồn tại các xung đột. Thành công trong kinh doanh bao gồm cả việc tìm ra được các giải pháp cho xung đột cũng như việc thoát khỏi chúng. Minh bạch từ ban đầu mối quan hệ về điều ta muốn và về khả năng của ta sẽ giúp thoát khỏi xung đột. Đương đầu với xung đột ngay khi chúng xuất hiện sẽ giúp chúng không trở nên tệ hơn. Bạn không thể điều khiến hành vi của người khác và đưa ra phương pháp giải quyết, song bạn có thể làm giảm khả năng xuất hiện của xung đột. Hãy gắng hiểu quan điểm của gallery bất cứ khi nào có thể. Viêc này không đồng nghĩa với việc bạn cần phải quên đi việc bạn cũng có các đòi hỏi
Thu thập thông tin
Tìm hiểu về mong đợi của Gallery, và làm rõ mong đợi của bạn với họ. Việc có được câu trả lời cho câu hỏi của bạn không phải và không nên là điều gì có tính đối đầu. Đây có thể là một cuộc trao đổi thoải mái và dễ chịu giữa hai người chuyên nghiệp về các công việc kinh doanh. Ở đây, hỏi là cách tốt nhất để có được thông tin. Nếu muốn thu thập thông tin, hãy chuyện trò với các nghệ sĩ khác về gallery nào đó hay về kinh nghiệm chung của họ về gallery mà bạn muốn tìm hiểu. Đây là một phương pháp nghiên cứu tốt. Nếu các nghệ sĩ khác từng có vấn đề về tiền nong hay hợp đồng với gallery, thì không nhất thiết bạn cũng sẽ gặp những điều tương tự. Các vấn đề đôi khi xảy ra do các xung đột cá nhân hay do việc không làm rõ ra được các mong đợi của hai bên với nhau.
Các câu hỏi cần hỏi
Dù gallery mà bạn đang muốn làm việc cùng là dạng gallery nào, bạn đều phải hỏi các câu hỏi cụ thể ( để biết kĩ hơn về việc sử dụng các câu trả lời như thế nào, xem ở phần cách làm hợp đồng). Những câu hỏi này như sau:
-Bao giờ tác phẩm của bạn sẽ được triển lãm?
-Ai là người chọn tác phẩm để triển lãm?
-Các loại thù lao nào sẽ được được trả? Và bao giờ trả?
-Nếu có bán tác phẩm, ai sẽ là người đặt giá
-Phận sự của gallery là gì
-Gallery có loại giá đặc biệt (giảm giá) không? Và thành phần nào sẽ được hưởng loại giá này?
-Nếu triển lãm phải có mặt một nhật vật hay một dụng cụ đặc biệt, ai sẽ trả tiền cho điều này
-Ai sẽ quyêt định hình thức khung tranh và trả tiền cho việc đóng khung và chuyên chở? Ai có trách nhiệm giải quyết các vấn đề nẩy sinh trong quá trình thực hiện hai việc trên
-Ai có trách nhiệ trong việc bảo hiểm tác phẩm? loại bảo hiểm nào được mua và khi nào nó có hiệu lực?
-Ai có trách nhiệm chụp ảnh tác phẩm? Ai trả tiền cho thợ ảnh?
-Ai trả các loại tiền liên quan đến việc quảng cáo triển lãm? Hình thức quảng cáo và giới thiệu nào sẽ được sử dụng cho triển lãm này?
-Ai trả tiền in catalogue triển lãm?
-Ai đưa ra quyết định cuối cùng về việc treo hay trình bày tác phẩm trong không gian, Ai chịu trách nhiệm treo và dàn dựng tác phẩm?
-Ai trả tiền cho chi phí đi lại của nghệ sĩ? Nếu nghê sĩ phải phát biểu tại triển lãm, có thù lao cho việc này không?
-Nếu có sự mượn hay tái sản tác phẩm, mọi việc sẽ được dàn xếp ra sao?
--Nếu đây là một gallery thương mại, nhà đại diện cho nghệ sĩ của gallery này có muốn có những quyền đặc biệt với tác phẩm hay không? Phạm vi các quyền đó đến đâu?
Trên đây là các câu hỏi cơ bản về một số chủ đề cơ bản. Các chủ đề khác có lẽ cũng xuất hiện, tuy nhiên việc này phụ thuộc vào mối quan hệ và tình huống cụ thể. Đừng cứng nhắc trongviệc đặt câu hỏi.
Nghệ sĩ và sự chuyên nghiệp
Như trong bất kì mối quan hệ nào khác, cách người đối xử với ta ra sao phụ thuộc vào chính cách ta đối xử với người ra sao. Trong một mối quan hệ đối tác chuyên nghiệp, việc hành động theo cách chuyên nghiệp là điều vô cùng quan trọng. Ở đây, hãy tôn vinh các những cam kết cụ thể. Những cam kết này bao gồm việc đúng hẹn trong hành vi giao và nhận lại tác phẩm hay các tư liệu cần thiết như đã hứa. Nếu ý đồ tác phẩm hay sự phát triển tác phẩm thay đổi giữa chừng, cần phải thông báo ngay cho gallery. Nếu thấy quan hệ giữa bạn và gallery nẩy ra vấn đề khó khăn, hãy thảo luận ngay để tìm cách giải quyết nó. Việc nói xấu giám tuyển, nhà đại diện, hay gallery với các nghệ sĩ khác là một điều kiêng kị. Hãy cho thấy sự tôn trọng của bạn với mỗi triển lãm mà bạn tham dự, tức chính sự tôn trọng mà bạn muốn người khác tỏ ra với tác phẩm của mình
Chủ đề về các thù lao cho triển lãm
Hãy luôn ghi nhớ rằng các gallery cộng đồng luôn có một trách nhiệm chính thức là trưng bày nghệ thuật. Do đó, chúng không thể tồn tại mà không có các nghệ sĩ. Chúng trả tiền lương cho các nhân viên, đôi khi rất cao, để sử dụng tác phẩm của nghệ sĩ. Do đó, việc nghệ sĩ được trả tiền trưng bày tác phẩm là hoàn toàn hợp lý.
Thù lao triển lãm là các khoản chi trả cho nghệ sĩ khi tác phẩm của họ được triển lãm trong một không gian triển lãm cộng đồng. Trong qúa khứ, một số định chế triển lãm cho rằng nghệ sĩ nên cảm thấy vinh dự với cơ hội được chọn triển lãm; rằng việc trưng bày đã là tưởng thưởng rồi, cần gi phải trả tiền nữa. Tuy nhiên bây giờ, nếu gallery không trả thù lao trưng bày, bạn có thể chọn triển lãm ở nơi khác. Đôi khi, nghệ sĩ có thể giãi bày với một gallery cộng đồng không trả thù lao triển lãm lý do vì sao anh hay chị ta không triển lãm tại đó
Thông tin kĩ hơn về việc này xin xem tại mục Bản quyền và Các dạng thù lao triển lãm
Các chủ đề về bộ sưu tập vĩnh viễn
Hãy nhớ là cả nhà sưu tập nghệ thuật cộng đồng lẫn nhà sưu tập cá nhân đều có quyền bỏ đi hay bán lại tác phẩm từ bộ sưu tập của họ. Hành vi này được gọi là deaccessioning (loại bỏ hiện vật). Các định chế có các chính sách Loại bỏ hiện vật khác nhau. Do đó, có lẽ sẽ là khôn ngoan khi thảo luận việc này trước khi tác phẩm của bạn được các nhà sưu tập mua về cho bộ sưu tập vĩnh viễn của họ. (Chính sách của ngân hàng nghệ thuật thuộc hội đồng nghệ thuật Canada từng là cho phép nghệ sĩ có quyền tiên khởi trong việc quyết định có mua lại hay không tác phẩm đã bán cho bộ sưu tập của ngân hàng nghệ thuật. Chính sách này đã không còn tồn tại tại ngân hàng nghê thuật, và cũng không phải là tiêu chuẩn trong các định chế nghệ thuật khác). Nếu một nhà sưu tập bán lại tác phẩm cho một nhà sưu tập khác, nghệ sĩ không tự động có quyền chia lợi nhuận.
Luật bản quyền Canada gợi ý rằng nếu tác phẩm trong một bộ sưu tập bị chính chủ nó tàn phá, quyền đạo đức (1) của nghệ sĩ không bị xâm phạm theo đó. Điều này là bởi tác phẩm không còn hiện hữu không thể gây hại danh dự và danh tiếng của nghệ sĩ
Các chủ đề về mặt đặt giá cho tác phẩm
Nếu bán tác phẩm, bạn nên đặt giá một cách thực tế và hãy chắc rằng giá đó không khác nhau từ gallery này đến gallery khác. Tốt nhất là đặt giá thấp để về sau tang giá lên, thay vì ngay đầu tiên đã đặt giá cao chót vót để sau đó phải giảm giá. Giá cả trị thị trường, danh tiếng, giá cho các tác phẩm tương đương, cũng như kích thước tác phẩm đều có ảnh hưởng tới việc đặt giá. Bạn có lẽ cũng nên sin tư vấn từ một nhà đại diện thương mại hay các nhân vật chuyên nghiệp khác để định giá tác phẩm cho mình. Xem thêm ở phần Bán tác phẩm, và chương 10, Lý lịch làm việc nghệ sĩ.
Các chủ đề về chất liệu
Việc hiểu chất liệu mình sử dụng là trách nhiệm của nghệ sĩ. Mọi nghệ sĩ làm ra các tác phẩm có dự định bền vững trong thơì gian đều nên học các thực hành bảo quản bảo dưỡng trong việc sử dụng chất liệu (xem kĩ ở mục các vấn đề về việc bảo quản và giữ bền tác phẩm). Nếu bạn làm việc với một chất liệu mới mẻ, cần hiểu rõ các khả năng có thể xảy ra trong tương lại với chất liệu ấy. Hãy chắc chắn rằng các chất liệu bạn định dùng đều tuân theo yêu cầu an toàn của hiệp hội tiêu chuẩn chất lượng Canada, và rằng các chất liệu ấy không vô tình gây nguy hại cho tác phẩm mà người ta đã mua của bạn để đưa vào bộ sưu tập vĩnh viễn của họ, hay đưa vào một triển lãm nào đó, hay gây nguy hại cho công chúng
Các chủ đề về bản in (prints) và bản tái sản (reproductions)
Một khía cạnh cụ thể trong mối quan hệ giữa nghệ sĩ và gallery có thể được thấy ra từ trải nghiệm của các nghệ sĩ làm việc với các dạng tác phẩm nhiều bản. Các nghệ sĩ đồ hoạ có thể thấy ra nguy cơ đe doạ danh tiếng nơi hình thức nghệ thuật của mình đến từ số lượng của cái gọi là các bản in hạn chế, có chữ kí của nghệ sĩ. Cùng lúc đó, rất nhiều nghê sĩ lại thấy thu nhập của mình tăng lên nhờ vào việc bán các thiệp chúc, thiệp ghi nhớ, hay các sản phẩm tương tự thế, tức những gì được lấy ra từ motif tranh của nghệ sĩ hay từ chính các tác phẩm của họ. Một số nhà đại diện nghệ thuật còn khuyến khích nghệ sĩ làm thêm nhiều các bản in giới hạn có chữ kí lấy mẫu từ các tác phẩm hay các bức tranh phác thảo của mình, như một cách để tăng thu nhập
Có sự khác nhau giữa các bản in và các bản tái sản. Một bản in, gọi là một bản in gốc, là một hình ảnh được nghệ sĩ làm ra dưới dạng là một bản in được thực hiện một lần. Mỗi bản in đều là một bản gốc, và đều được in từ đá, lụa, gỗ, hay các khuôn gốc được làm ra một lần duy nhất cho chúng. Ở đây, trong tiến trình in này, không có một bản gốc đầu tiên, để từ đó các bản khác được làm ra. Tuy nhiên, một bản tái sản (một số người gọi sai tên của chúng là các bản in) không có mối quan hệ về mặt nguồn gốc với bản in (như mối quan hệ của các bản in với nhau). Bản tái sản chỉ là một bản sao chép một tác phẩm gốc (sơn dầu hay màu nước chẳng hạn). Bản tái sản thường được làm ra bằng các công cụ sao chép hàng loạt như nhiếp ảnh.Việc đánh số hay kí tên của nghệ sĩ lên các bản tái sản không làm thay đổi bản chất của chúng. Chúng mãi mãi là các bản sao chép một tác phẩm gốc chứ không phải là một bản in gốc.
Nếu nghĩ về việc dấn bước vào thị trường tái sản, hãy ý thức rằng các nhà sưu tập nghệ thuật nghiêm túc, bao gồm các gallery nghệ thuật, hiếm khi trả tiền mua các bản tái sản. Họ có lẽ sẽ cân nhắc về việc sự hiện hữu của các bản tái sản, với số lượng có giới hạn sẽ làm giảm giá trị tác phẩm gốc. Hơn nữa, hãy ý thức rằng hầu hết các nhà đại diện nghệ thuật chuyên nghiệp không làm việc với hình thức này. Nếu có nhà đại diện nào đề nghị với bạn hình thức làm việc này, có lẽ bạn nên đặt câu hỏi lập tức về mối quan hệ giữa bạn và nhà đại diện ấy.
Tóm tắt: Rất cần nỗ lực từ cả hai phía trong việc tạo nên mối qaun hệ đối tác làm ăn giữa nghê sĩ và gallery. Một phần trách nhiệm của bạn như một nghệ sĩ là thông báo và giải thích rõ, để qua đó tự bảo vệ mình. Một vài câu hỏi có thể xuất hiện trong mọi tình huống triển lãm. Một vài chủ đề có thể đúng chỉ với hình thức nghệ thuật đào đó, hay với gallery nào đó. Hãy gắng ứng xử theo một tác phong chuyên nghiệp cao nhất, để gia tăng khả năng cho sự xuất hiện của các trải nghiệm tích cực cho bạn trong việc triển lãm và bán tác phẩm
Kết luận
Hai mục dịch trên đây có lẽ cần phải được chỉnh sửa theo các ngôn ngữ luật pháp cũng như chỉnh sửa các tên riêng của các hiệp hội hay điều luật của Canada, để có thể đem ra sử dung như văn bản chính thức. Ở đây, trong vai trò một người đọc, cũng như một người làm việc nghệ thuật, tôi chỉ muốn lấy chúng ra như các dẫn chứng về các mối quan tâm/quan hệ có tính chuyên nghiệp, cụ thể chứ không sáo rỗng và trừu tượng, luôn tồn tại trong mọi thị trường nghệ thuật nhất thiết phải có.
Tôi tin rằng các tư vấn kĩ lưỡng cho nghệ sĩ, tức những điều theo tôi được rút ra từ các nghiên cứu và kinh nghiệm rất sâu sát và thực tế của Carfac, sẽ giúp chúng ta, các nghệ sĩ, nhà báo, người nghiên cứu tại Việt Nam, có một hình dung, ít ra ở bước đầu về việc thế nào là một thị trường nghệ thuật và các vấn đề mà nó phải xử lý. Những điều này hy vọng sẽ có ích cho hội thảo của chúng ta
Cuối cùng, song không ít quan trọng, đó là toàn bộ bản quyền bản dịch trong bài tham luận này thuộc duy nhất về tôi, Nguyễn Như Huy. Mọi trích dẫn và đăng lại, ngoài mục đích cho kỷ yếu của hội thảo này đều phải được sự cho phép của tôi bằng văn bản.
----
-
Quyền về mặt đạo đức, tức quyền của nghệ sĩ trong việc chắc chắn người khác không được tạo ảnh hưởng đến tác phẩm của anh chị ta theo một cách gây tổn hại đến danh dự, uy tín cũng như tiếng tăm của nghệ sĩ , cũng được tính trong bản quyền tác phẩm. các hành vi gây tổn hại bao gồm, bóp méo, cắt xén, hay các sự chế biến tác phẩm gốc theo cách tương tự thế. Thêm vào đó, các quyền về mặt đạo đức bao gồm quyền đòi hỏi xác nhận vai trò tác giả cho tác phẩm của mình. Vào năm 1988, các sửa đổi quan trọng đối với luật bản quyền Canada được giới thiệu, và nó bao gồm cả quyền triển lãm cũng như quyển thương thảo tập thể.
(*): Tham luận tại Hội thảo Giải pháp phát triển thị trường mỹ thuật Việt Nam
trong bối cảnh kinh tế xã hội đương đại