Thế nhưng, tồn tại khá phổ biến - đặc biệt đối với trẻ em còn ở độ tuổi 2, 3, hoặc thậm chí 4 tuổi - hiện tượng các bạn nhỏ này một mặt vừa giữ một ảnh tượng tươi đẹp về một ông già Noel vui tính, hồn hậu, yêu trẻ nhỏ, háo hức chờ ngày Giáng sinh được ông đến phát quà, lại vừa thường nảy sinh tâm lí phân vân thậm chí hoảng sợ khi có một "ông già Noel" thật (do trường sở hoặc khu phố tổ chức, thuê người lớn đóng giả đến phát quà) hiện ra ngay trước mặt. Khoảnh khắc hoảng sợ này không chỉ nảy sinh khi các trẻ thấy ông già Noel hiện ra với bộ râu xồm xoàm, một hình ảnh không quen thuộc lắm với trẻ em nơi xứ nóng, mà quan trọng hơn, đó còn là một nỗi sợ hãi trỗi lên từ sâu thẳm bên trong của chủ thể. Cái khoảnh khắc phân vân và giật mình hoảng sợ trước sự xuất hiện đột ngột của một ông già Noel chính là thời khắc mà cái ảo tượng(the fantasy)- được chủ thể dựng lên để nhận thức về thế giới - bị chọc thủng, thời khắc của sự va chạm, đối đầu giữa cái ảnh tượng - cái được tích luỹ lâu nay về ông già Noel thông qua sự lặp đi lặp lại của các tự sự tạo nên bởi thế giới người lớn - với cái trật tự biểu tượng của đời sống hàng ngày, cái trật tự biểu tượng mà ở đó đột ngột hiện lên một ông già Noel thật, hiện hữu, biểu kiến, bằng xương bằng thịt. Khoảnh khắc phân vân hay giật mình hoảng sợ đó, do vậy, là cơ sở cho sự hiện diện và là nơi để lại dấu vết của cái thực tượng(the Real). Dần dần, khi trẻ em lớn lên, trở thành người lớn, sự xâm nhập và lấn át của trật tự biểu tượng, tức trật tự của thế giới lí tính, của luật pháp, của diễn ngôn, của các khung chuẩn định hàng ngày, sẽ đè nén cái thực tượng này, khiến cho nỗi phân vân hay bất ngờ giật mình hoảng sợ của cái thực tượng đó dần dần bị đẩy lùi, chỉ còn tồn tại ở một góc rất sâu trong cấu trúc chủ thể để một dịp nào đó sẽ lại trỗi dậy.
Hãy chuyển sang một ví dụ tiếp theo như sau đểlàm rõ hơn cơ chế trỗi dậy ấy. Ở các nước phương Tây, nơi không gian công cộng như quảng trường, góc phố thường có những người hoá trang thành các bức tượng đứng bất động khiến người qua đường nếu không để ý kĩ có thể nhầm đó là tượng thật. Hãy hình dung một tình huống sau: một người phụ nữ đã hoá trang thành bức tượng Đức mẹ Maria đứng bất động ở góc quảng trường, bàn tay giơ ra như chờ đợi các con chiên ngoan đạo tới để chạm đầu vào và thụ hưởng sự vuốt ve ấy. Một thiếu nữ cùng gia đình đi du lịch ngang qua, đã thích thú dừng lại, tạo tư thế với bức tượng để chụp một bức ảnh làm kỉ niệm. Khi cô đang vui vẻ, hào hứng và hồn nhiên tạo dáng bên bức tượng giả để chụp ảnh thì bất ngờ bàn tay của bức tượng động đậy và chụp nhẹ lên đầu cô. Cô giật mình hoảng sợ và bỏ chạy ra xa, rồi sau đó mới chợt nhận ra sự thực và cười ré lên thích thú.[2] Sự bất ngờ giật mình hoảng sợ của cô, tương tự như câu chuyện về ông già Noel được phân tích ở trên, không chỉ là sự giật mình hoảng sợ thông thường khi có một biến cố không dự tính trước xảy ra (bàn tay tượng bất ngờ chuyển động). Nó còn là khoảnh khắc giật mình hoảng sợ nơi cái thực tượng trỗi dậy, va chạm với cái ảnh tượng tôn giáo (the religious imaginary) của cô về Đức mẹ Maria, về Chúa, và từ đó khiến cái ảo tượng - cái mà lâu nay được trật tự biểu tượng kiến tạo nên (đồng thời bản thân cô cũng tham gia cùng thế giới biểu tượng xung quanh để kiến tao nên nó trong quá trình cô lớn lên và tri nhận về cuộc sống) bị phá vỡ.
Từ đầu bài báo đến giờ, nếu ai quen thuộc với lí thuyết tâm phân học, đặc biệt tâm phân học Lacan, thì sẽ nhận ra rằng tôi đang dựa trên bộ công cụ của lí thuyết tâm phân học Lacan để miêu tả và phân tích sự hiện diện của Giáng sinh, ông già Noel ở Việt Nam và một số hiện tượng khác xoay quanh các vấn đề chủ thể, chủ thể tính, ý thức hệ,... Điều này khôngđơn giảnchỉ là việc thay bình cũ bằng bình mới để đựng cùng một thứ rượu, mà rõ ràng lí thuyết tâm phân học của Lacan giúp chúng ta nhìn sâu hơn rất nhiều các hiện tượng văn hoá, đặc biệt các vấn đề của chủ thể.
Lâu nay, việc "tiếp nhận" và "ứng dụng" tâm phân học ở ta thường dừng lại, thứ nhất, ở tâm phân học giai đoạn đầu, gắn liền với Sigmund Freud (1856-1939), và một chút của Carl Gustav Jung (1875-1961), học trò của Freud; và thứ hai, ở việc đọc nó qua vài cuốn từ điển hoặc sách dẫn nhập rồi chộp bắt vài khái niệm đáng chú ý của tâm phân học như "ẩn ức," "bản năng chết," "tính dục,"... Từ đó, các nhà nghiên cứu cố gắng "áp dụng" chúng để soi chiếu xem trong văn chương nghệ thuật có chi tiết nào phù hợp với các biểu hiện đó không. Một cách đọc lí thuyết khá hời hợt theo kiểu ăn liền vốn tồn tại dai dẳng ở Việt Nam theo mô hình có tính thực dụng là "tiếp nhận" và "ứng dụng" kiểu đó, lại bị chi phối bởi cách tiếp cận hình thức, thi pháp một thời gian dài thống trị trong nghiên cứu văn chương và văn hoá Việt Nam đã dẫn đến việc hiểu tâm phân học khá hời hợt, thô thiển, đẽo chân cho vừa giày nếu không muốn nói là bị bóp méo.
Điều này tạo ra các hệ luỵ khác nhau. Ở cấp độ chung nhất, nó vừa tạo ra cái ảo tưởng về sự dễ hiểu của lí thuyết và từ đó dẫn đến sự áp dụng lí thuyết một cái dễ dãi và tuỳ tiện; đồng thời ở một cực khác nó lại đồng thời tạo ra một tâm thế thù ghét, nghi kị lí thuyết. Tâm thế thù ghét, nghi kị lí thuyết này vừa là sản phẩm của một nền văn hoá vốn không có truyền thống tư duy siêu hình học, vừa là phản ứng trước những lối áp dụng lí thuyết một cách dễ dãi tuỳ tiện nói trên.Ở cấp độ hẹp hơn xoay quanh vấn đề lí thuyết tâm phân học, nó cũng tạo ra các hệ luỵ: thứ nhất, nó thường dẫn các nhà nghiên cứu đi vào ngõ cụt của cách đọc nội quan hướng vào các bình diện cấu trúc của văn bản văn chương gắn liền với nào là "ẩn ức," nào là "bản năng chết," nào là "tính dục," mà thiếu đi một độ mở cần thiết để nhìn các vấn đề từ góc độ liên ngành trong việc kết nối văn chương với các thực hành văn hoá, chính trị khác. Thứ hai, nó cũng đóng lại các khả năng kết nối tâm phân học với các cách tiếp cận khác, chẳng hạn lí thuyết hậu thực dân (post-colonial theory), để nhìn sâu hơn các vấn đề như chủng tộc, chủ nghĩa quốc gia - dân tộc, chủ nghĩa đế quốc, căn cước văn hoá, toàn cầu hoá và bá quyền.
Trên thực tế, sau Freud, tâm phân học đã có những bước phát triển cực kì quan trọng với hàng loạt các lí thuyết gia như Jacques Lacan, Fredric Jameson, Slavoj Zizek, Alenka Zupancic, Mladen Dolar,... ở đó nhiều khái niệm chủ chốt của tâm phân học đã được bổ sung và mở rộng, đặc biệt ở các bình diện liên quan tới vấn đề chủ thể (subject). Từ quan niệm của Freud về cái Tôi, cái Siêu-Tôi và cái Nó trong cấu trúc chủ thể,[3] Lacan phát triển, làm phong phú và sâu sắc hơn rất nhiều cho lí thuyết chủ thể với các khái niệm then chốt như ba trật tự: Thực tượng (the Real), Ảnh tượng (the Imaginary) và Biểu tượng (the Symbolic), và các khái niệm khác nhưjouissance (tạm dịch: cái thặng hưởng), the Big Other (tạm dịch: cái Đại Tha), the ojet petit a (tạm dịch: cái tiểu tượng), the fantasy (cái ảo tượng),... Đến các lí thuyết gia sau ông, đặc biệt là với Zizek, tâm phân học đã được mở rộng, gắn chặt với các phân tích về chính trị, về bá quyền, về giải phóng xoay quanh vấn đề chủ thể.[4]
Các vấn đề khác mang tính hàn lâm hơn, chẳng hạn vấn đề chủ nghĩa quốc gia - dân tộc, tương tự, cũng cần được nhìn nhận không chỉ từ việc nó được tạo nên bởi các diễn ngôn nảy sinh từ nền văn hoá in ấn (print culture) như Benedict Anderson đã phân tích rất hay trong công trình của ông có tiêu đề: Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spead of Nationalism(tạm dịch: Các cộng đồng tưởng tượng: Những suy tư về nguồn gốc và sự lan toả của chủ nghĩa dân tộc).[5] Nói cách khác, dân tộc như là một cộng đồng chính trị tưởng tượng trong lí thuyết của Anderson được tạo nên từ các diễn ngôn của đời sống sinh hoạt vật chất, nếu gọi theo thuật ngữ của tâm phân học Lacan thì làtrật tự biểu tượng. Hơn thế, chúng ta còn cần quan sát vấn đề chủ nghĩa quốc gia - dân tộc sâu hơn từ góc nhìn tâm phân học để nhìn ra quá trình nó được hình thành trong cấu trúc chủ thể, một chủ thể dân tộc (the national subject) trong quá trình con người ta sinh ra và lớn lên. Trẻ em từ nhỏ nằm trong nôi được nghe mẹ hát ru, lời ru thấm vào hồn; lớn lên đến trường, được tập hát quốc ca, ngắm nhìn quốc kì tung bay trong gió, được học các bài học về quê hương đất nước, về dân tộc. Các hoạt động lặp đi lặp lại từ thời ấu thơ đó là cơ sở cho việc hình thành cái ảnh tượng về dân tộc (the national imaginary); nếu dùng ngôn ngữ tâm phân học Freud cho quen thuộc với cộng đồng nghiên cứu Việt Nam lâu nay, thì quá trình này được hình thành dần trong vô thức và biến thành vô thức. Càng lớn lên, các chủ thể xã hội ngày càng được khuôn định vào các chuẩn (norm) của trật tự biểu tượng, ở đó anh ta/cô ta được giáo dục tuyên truyền về tinh thần dân tộc, về trách nhiệm và nghĩa vụ đối với tổ quốc, đồng bào. Bất chấp quá trình hình thành dần của trật tự ảnh tượng và sự lấn át, áp đảo của trật tự biểu tượng đó, thì trong sâu thẳm cấu trúc chủ thể vẫn còn sót lại một cái trở kháng (antagonism) là cơ sở tồn tại cho cái thực tượng như là cái còn lắng lại dai dẳng sau quá trình xâm thực của trật tự biểu tượng, trong những dịp nhất định sẽ trỗi dậy, kháng cự lại các diễn ngôn quốc gia - dân tộc (nationalist discourse).
Phân tích các vấn đề của chủ nghĩa quốc gia - dân tộc nói riêng và vấn đề chủ thể nói chung, do vậy, không thể bỏ qua các bình diện quan trọng này.[6] Điều này giúp chúng ta thấy được tính phức tạp trong sự cấu thành chủ thể, thấy được mối quan hệ, sự tương tác giữa chủ thể với các thiết chế văn hoá vây quanh, và các tiềm năng kháng cự, phê bình của chủ thể, giúp chủ thể vẫn giữ được một khoảng cách để trong khi nó không thể không là sản phẩm của các thiết chế, thì nó đồng thời vẫn có không gian để tiếp tục là cái bản ngã của chính mình trong vòng vây của các thiết chế ấy.
[1]Ban đầu, ông già Noel không phải mặc bộ quần áo màu đỏ. Hình ảnh ông già Noel mặc bộ quần áo màu đỏ chỉ xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XIX, cụ thể là vào tháng 1 năm 1863 trên tạp chí Harper Weeklycủa Mĩ. Sau đó, vào những năm 1920s, hãng nước ngọt Coca-Cola của Mĩ trong các hình vẽ quảng cáo sản phẩm đã trưng dụng hình ảnh ông già Noel mặc bộ đồ đỏ này, tay cầm lon nước ngọt Coca-Cola, khuôn mặt vui vẻ và nhân hậu, vai đeo túi quà để phát cho trẻ em. Từ đây, hình ảnh ông già Noel râu dài trắng như cước, khuôn mặt vui tươi đôn hậu, vai đeo túi quà, mặc quần áo đỏ tươi (xét về khía cạnh phối màu là rất phù hợp trên nền tuyết trắng) càng ngày càng trở nên quen thuộc với công chúng trên toàn thế giới.
[2]Ví dụ này được tôi miêu tả lại bằng lời dựa trên một clip chia sẻ trên facebook mà tôi tình cờ thấy cách đây lâu lâu. Clip này, khá ngắn, chia sẻ theo dạng hình ảnh động và chạy trực tiếp nên không có đường link. Nếu vào youtube gõ một vài từ khoá, ví dụ "đóng giả tượng để troll người qua đường," chúng ta cũng có thể xem nhiều clip tương tự; tuy nhiên các clip này chủ yếu là các tình huống nhằm tạo ra sự bất ngờ và gây cười nên thường nhấn mạnh vào yếu tố giật gân. Tôi chưa tìm thấy clip có hình ảnh người đóng giả tượng Đức mẹ Maria, mà tôi miêu tả ở trên, được chia sẻ trên Youtube.
[3]Xem thêm trong: Sigmund Freud, Cái Tôi và cái Nó, Thân Thị Mận dịch, với sự giúp đỡ của Jean-Noel Christine, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2015, đặc biệt chương 2, "Cái Tôi và cái Nó (Es)," trang 43-58, và chương 3, "Cái Tôi, cái Siêu-Tôi và lí tưởng của cái Tôi," trang 59-83.
[4]Với phạm vi của một bài báo, viết cho độc giả đại chúng, tôi dùng các ví dụ dễ hiểu nhất và phân tích vấn đề ở mức độ giản lược nhất thay vì phân tích kĩ các khái niệm. Nếu bạn đọc muốn tìm hiểu sâu hơn các thuật ngữ, các vấn đề then chốt của tâm phân học được đề cập trong bài báo này, có thể tìm đọc ở tiểu luận của tôi có tiêu đề: "Diễn ngôn, ý thức hệ và chủ thể: Một bổ sung của tâm phân học cho lập trường duy sử luận trong nghiên cứu văn hoá," in trong: Văn chương nghệ thuật và thiết chế văn hoá: Những tiếp cận liên ngành (Nhiều tác giả; Lê Nguyên Long, Hoàng Cẩm Giang, Nguyễn Mạnh Tiến, Đoàn Ánh Dương, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Lộ Đức Anh đồng chủ biên), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2017, trang 10-41.
[5]Benedict Anderson, Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spead of Nationalism, London and New York: Verso, 1983, sửa chữa và bổ sung trong các ấn bản in năm 1991 và 2006. Quan điểm chủ đạo của Anderson trong công trình này là nhấn mạnh vào vai trò của nền văn hoá in ấn (print culture) trong việc giúp tạo nên một cộng đồng đọc, từ đó lan toả cái ảnh tượng về dân tộc như là một cộng đồng chính trị tưởng tượng.
[6]Các vấn đề về chủ nghĩa quốc gia - dân tộc cũng được tôi phân tích sơ bộ ở phần cuối của bài viết in trong sách Văn chương nghệ thuật và thiết chế văn hoá đề cập ở trên, thông qua trường hợp Phạm Quỳnh và thể tài du kí trên Nam Phong tạp chí.