Phân tích ý nghĩa câu trong Tả Truyện mà các từ thư như Khang Hy tự điển khi chú giải chữ lang 郞 hay nhắc tới:《左傳·隱元年》費伯帥師城郞. "[Tả truyện. Ẩn nguyên niên] Phí bá suất sư Thành Lang".
Theo bác Đại Cồ Việt thì “Lang” chỉ là địa danh không có sách nào nói rõ nó có nghĩa là làng, ấp cả, ý kiến này là cách giải thích ở trang mạng nào đó của TQ (tôi quên ghi lại địa chỉ), còn các sách cổ cho đến thời Khang Hy đều không hề nói rõ là địa danh, ví dụ Thuyết Văn của Hứa Thận giải thích lang là “Lỗ đình”, Trịnh Huyền chú là “Lỗ cận ấp”, Đỗ Dự cũng chú là “Lỗ ấp”.
Do nghĩa gốc của Lang là "làng", "ấp" không còn trong Hán ngữ hiện đại nên tôi quyết định “gúc” địa danh “Thành ấp 城邑” thay vì "Thành Lang 城郎", và tìm thấy trên BaiDu giải thích sau:
https://baike.baidu.com/item/%E6%AD%A6%E5%9F%8E%E9%82%91
武城邑为春秋时期鲁国城邑,治所在今山东平邑县魏庄乡武城村。
Võ Thành ấp vi Xuân Thu thì kì Lỗ Quốc Thành ấp, trị sở tại kim Sơn Đông Bình Ấp huyện Ngụy Trang hương Võ Thành thôn.... 公元前554年(鲁襄公十九年)筑城 công nguyên tiền 554 niên (Lỗ Tương công thập cửu niên ) trúc thành.
Đối chiếu thì "Thành Lang" có lẽ chính là "Thành ấp".
Trong trang trên có một thông tin đặc biệt thú vị xin lưu ý với các bác, đó là câu trích sách Mạnh tử: 《孟子》:“曾子居武城,有越寇。” “Tăng Tử cư Vũ Thành, hữu Việt khấu” (Tăng Tử ngụ ở Vũ Thành, có bọn giặc Việt).
Dù có bị mạt sát là "chauvinist", dân tộc chủ nghĩa cực đoan thì tôi vẫn đề nghị xem xét khả năng "Thành Lang" vốn là “làng Thành” của người Việt, sau Hán tộc đến xâm lấn và cai trị, dân cư gốc còn sót lại ở vùng đó bị gọi là bọn “giặc Việt”. Chú ý “Việt” đây là tôi muốn nói Bách Việt nói chung chứ không phải chỉ riêng nước Việt của Câu Tiễn, tức là chỉ nhóm dân cư cổ ở vùng Trường Giang nói ngôn ngữ Nam Á hay Thái Kadai.
Nếu đúng "Thành lang" là "Thành ấp" thì gần 3 nghìn năm nay cái tên “Thành” của “làng Thành” vẫn còn đó, chỉ bị dân Tàu gia thêm chữ “Vũ” để thành tên đậm chất Hán “Vũ Thành”. Bác nào có điều kiện sang TQ thử tìm tới thôn Vũ Thành, xã Ngụy Trang, huyện Bình Ấp với lý do "thăm quê hương của Tăng Tử" để dò hỏi xem dân cư ở đó còn hiểu "lang" vốn nghĩa là gì không ?
2. Xin bàn tiếp về hai chữ đình, làng.
Trước hết xin thông báo với các bác là tôi đã tra kỹ trong Kinh Thi thì cả hai chữ đình 亭(cái đình, làng hay xã) và 停(đình=dừng) vốn khá phổ thông trong Hán Ngữ hiện nay đều không có mặt, qua đó có thể phần nào hé lộ gốc gác Bách Việt của chúng ? Tôi muốn nhấn mạnh điều này vì quan điểm cho rằng từ nào mà nào tiếng Nôm Việt đọc hơi giống âm Hán Việt thì đều là chữ người Việt đi mượn của Hán tộc có vẻ đã thành định kiến mặc nhiên phải thế !
Phục nguyên âm thượng cổ Hán ngữ của 亭và 停 theo các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng:
Karlgren: dʹieŋ
Lí Phương Quế: diŋ
Vương Lực: dyeŋ
Baxter: deŋ
Trịnh Trương Thượng Phương: deeŋ
Phan Ngộ Vân: deeŋ
Đa số các tác giả trên đều phục nguyên phần nguyên âm có độ mở miệng rộng hơn -i- một chút, gần với cách đọc "dừng" trong tiếng Việt của chữ " 停". Khang Hy Tự điển cũng có chú một âm khác cho chữ 停 là 徒當切,音唐 đồ đương thiết, âm đường và chữ 亭 là : 又《韻補》叶徒陽切 đồ dương thiết tức cũng đọc là "đường"... cho thấy nguyên âm có vẻ gần với -ư- hơn là -i-.
Về ý nghĩa thì Tự điển Thiều Chửu chú chữ đình 亭 như sau:
Đình
(1): Cái đình. Bên đường làm nhà cho khách qua lại trọ gọi là quá nhai đình 過街亭 . Trong vườn công, xây nhà cho người đến chơi nghỉ ngơi, ngắm nghía gọi là lương đình涼亭 .
(2): phép nhà Hán chia đất cứ 10 dặm là 1 đình, 10 đình là 1 làng, nên người coi việc làng gọi là đình trưởng 亭長 tức như lý trưởng bây giờ.
(3): dong dỏng. Như đình đình ngọc lập 亭亭玉立 -dong dỏng cao như ngọc đẹp, tả cái dáng người đẹp.
(4): đến, như đến trưa gọi là đình ngọ 亭午 .
Nhưng sách Thuyết văn chú chữ đình 亭 là 民所安定也。亭有樓,从高省,丁聲。 Dân sở an định dã, đình hữu lâu, tòng cao tỉnh, đinh thanh.
Như vậy sách Thuyết văn coi trọng nghĩa phái sinh (nơi tụ hợp dân cư) hơn là nghĩa gốc (cái nhà bên đường để nghỉ chân). Từ nghĩa phái sinh này mà có nghĩa "đình là làng", do nơi dựng đình thường là chỗ giao thông thuận lợi và mát mẻ gần nguồn nước (cây đa-giếng nước-sân đình), mà đó cũng là tiêu chí để dân cư tụ họp dựng làng lập xóm nên thành ra cuối cùng thì "đình" cũng thành "làng".
Từ lập luận đó sẽ thấy là "lang 廊 " (cái hành lang, theo Khang Hy tự điển thì thông với 郎) cũng có thể dẫn đến nghĩa làng, mà chữ Nôm thường viết là 廊.
Thật vậy, chỉ cần quan sát hình ảnh cầu ngói Thanh Toàn ở Huế hay Cầu chùa (Lai Viễn Kiều) ở Hội An là đủ hiểu: Trên cầu có mái che cho khách bộ hành nghỉ chân, chức năng cũng như cái đình, nhưng do kết cấu thông cả hai đầu nên thực chất nó là một cái "lang 廊 " (hành lang).
Hình ảnh cầu ngói Thanh Toàn (Huế):
So sánh với hình ảnh cái đình tiêu biểu (làng Đình Bảng) :
Cây đa, giếng nước, sân đình là hình ảnh quen thuộc đã đi vào thi ca dân gian:
"Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen... "
Dầu sao đoạn sau này cũng chỉ là cách lý giải có phần hơi văn chương, xin đưa lên để góp vui.
3.Nhân đọc bài của sư Viên Như về nguồn gốc từ “quê hương”:
https://nghiencuulichsu.com/2018/02/05/nguon-goc-hai-tu-que-huong/
Tôi không rành về Dịch học lắm nên chỉ xin bàn về khía cạnh ngữ âm lịch sử và chữ viết.
Tôi từng để ý từ gần chục năm trước một hiện tượng “hơi lạ” là trong chữ Hán "Hương 鄉" lại có chứa chữ Lang 郎 tức là "làng" của tiếng Việt.
Nếu dựa vào nghĩa của lang 郎 trong tiếng Hán là "chức quan" hay "anh chàng" thì không lý giải được việc xuất hiện chữ lang 郎 trong thành phần cấu tạo chữ hương 鄉 (làng quê).
Tự điển Thiều Chửu chú về chữ Lang như sau:
郎 Lang
(1): chức quan. Về đời nhà Tần nhà Hán thì các quan về hạng lang đều là sung vào quan túc vệ, về đời sau mới dùng để gọi các quan ngoài, như: thượng thư lang 尚書郎, thị lang 侍郎 v.v... Ở bên ta thì các quan cai trị thổ mán đều gọi là quan lang.
(2): chàng, một tiếng gọi về bên con trai, là cái danh hiệu tốt đẹp.
(3): anh, chàng, vợ gọi chồng là lang.
Nhưng nếu đặt giả thuyết có vẻ “ngược đời” cho rằng chữ này vốn của nhóm người gốc Bách Việt tạo ra thì lại thấy ý nghĩa thật rõ ràng, "郎" là "làng" của người Việt. chính là thành phần chỉ nghĩa (làng, quê) của chữ hương 鄉.
Tra cứu kỹ hơn ở các từ thư cổ thì thấy chữ lang 郎 sách Thuyết văn Giải tự của Hứa Thuận chú nghĩa chính là "魯亭也" (Lỗ đình dã - Đình của nước Lỗ). Do chữ lang có bộ ấp 邑 nên "đình" ở đây chắc không phải "cái đình" mà chỉ một địa khu tầm cỡ làng, vì TĐ Thiều Chửu có chú một nghĩa của chữ đình 亭 như sau : phép nhà Hán chia đất cứ 10 dặm là 1 đình, 10 đình là 1 làng, nên người coi việc làng gọi là đình trưởng 亭長 tức như lý trưởng bây giờ. Nghĩa này của chữ lang 郎 gần như trùng với nghĩa "làng" của tiếng Việt còn nghĩa trong tiếng Hán là "chức quan" hay "anh chàng" chả liên quan gì đến sự xuất hiện của bộ ấp 邑 cả, các nghĩa đó vốn chỉ là chữ giả tá mượn âm của chữ gốc "lang=làng" mà thôi.
Phải chăng vì nghĩa gốc của lang 郎 vốn là "làng" của người Việt nên đã bị đào thải trong Hán ngữ (lý do thì tự nhiên thôi, các bác ở mailgroup này chắc đều hiểu).
Nói thêm là nghĩa "làng" cũng có liên quan tới cái "đình 亭", văn hóa cổ truyền của người Việt từ hàng nghìn năm nay vẫn coi cái đình làng chính là đại biểu của làng, một vùng đất nếu đã gọi làng thì không thể thiếu cái cái đình, nếu vì chiến tranh hay thiên tai mà đình làng bị hủy hoại thì trước sau cũng phải tính việc dựng lại.
Lưu ý chữ Nôm "làng" không viết bằng chữ lang 郞 mà dùng chữ lang khác 廊, tuy nhiên Khang Hy tự điển chú rằng chữ 廊 đó cũng hay viết là lang 郞.
又通作郞。《前漢•董仲舒傳》蓋聞唐虞之時,遊於巖郞之上 . 《註》晉灼曰:堂邊廡。巖郞,謂嚴峻之郞也。
hựu thông tác lang. [Tiền Hán • Đổng Trọng Thư truyện] cái văn Đường-Ngu chi thì, du ư nham lang chi thượng. [chú] Tấn Chước viết: đường biên vũ nham lang, vị nghiêm tuấn chi lang dã.
Nham lang 巖廊 theo TĐ Thiều Chửu là “mái hiên cao”, tại sao Nghiêu-Thuấn lại trèo lên mái hiên cao mà chơi ? Tôi đồ rằng Tấn Chước (học giả đời Tấn) có lẽ đã giải thích sai vì không còn biết (hay cố tình xuyên tạc) nghĩa cổ của người Việt “lang 廊/郞” là làng chứ không phải cái “hành lang” bên tường nhà, "nham lang" là làng ở chỗ núi cao, trèo lên núi cao chơi thì hợp với câu “nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy” chứ cái hành lang thì quá nhỏ bé tầm thường đối với vua Nghiêu-Thuấn !
Nếu cách giải thích chữ lang 郎 trong cấu tạo chữ hương 鄉 vốn nghĩa là “làng” của người Việt ở trên là đúng, thì lại nảy ra vấn đề là: Vì sao "đình" (một phần làng) của người nước Lỗ lại gọi là "lang/làng" giống với tiếng Việt của chúng ta? Có phải đó là sự đồng âm tình cờ mà người viết cố tình "nhận vơ" không, hay phải chăng người nước Lỗ vốn không phải Hán tộc chính gốc? Lưu ý khu vực nước Lỗ ở Sơn Đông thời xưa bị coi là đất Đông Di, sau này vua nhà Chu phân phong con cháu đến cai trị (là Cơ Bá Cầm, con trai của Chu Công Cơ Đán), nên sau đó sách vở Tàu cứ "lải nhải" luận điệu rằng "nước Lỗ là dòng dõi nhà Chu", nhưng thực ra có lẽ chỉ là tầng lớp cai trị thôi, chứ dân cư đến thời Khổng Tử cũng chưa chắc đã Hán hóa 100%.
Việc nghĩa gốc của chữ lang 郎 vốn là làng mà sách Thuyết Văn đã ghi chép được, có thể là đầu mối quý giá để xem xét ý nghĩa của tên nước Văn Lang 文郎 của người Việt thời Hùng Vương, hay tên nước Dạ Lang 夜郎 cổ ở vùng Quý Châu (TQ). Do sử Tàu chỉ có ghi chép về "Dạ Lang Quốc" mà không có nước "Văn Lang" nên có thuyết cho rằng các sử gia Việt "ăn cắp" cái tên "Dạ Lang" mà ngụy tạo thành tên "Văn Lang", nhưng việc nghĩa gốc của chữ lang 郎 vốn là làng giống với tiếng Việt cho thấy cách giải thích làm bộ như "khoa học, nghiêm túc", tránh các tư tưởng "dân tộc chủ nghĩa cực đoan" đó thật ra lại có màu sắc định kiến nặng !
Nói thêm về di chỉ Khả Lạc mới phát hiện ở TQ gần đây
https://baike.baidu.com/item/可乐遗址
Di chỉ Khả Lạc 可乐 (âm pinyin: KELE một âm pinyin khác của chữ lạc 乐 là yue4 đồng âm với chữ Việt 越/粵) được học giả TQ nhận định là quốc đô của nước Dạ Lang cổ, có điều lạ là âm đọc hai chữ này hơi giống tên Khả Lũ tức Cổ Loa của người Việt (là Kẻ Chủ theo GS Trần Trí Dõi), theo tôi cần tìm hiểu thêm vấn đề này chứ có lẽ đây không phải sự giống nhau tình cờ.
Tôi xin tạm dừng ở đây. Hẹn mail khác sẽ quay lại vấn đề tên nước “Văn Lang”.