Những góc nhìn Văn hoá

Đôi điều nhớ lại

           

Nhà văn Nguyễn Minh Châu (20/10/1930 - 23/01/1989)

 Một trong những niềm vui, hay là hơn thế, niềm hạnh phúc của nghề văn, với  tôi, đó là được trở thành đồng nghiệp và được có những dịp gặp gỡ, nói chuyện trực tiếp cùng các tác giả mà mình ngưỡng mộ. Với nhà văn Nguyễn Minh Châu, tôi còn được may mắn là làm học trò của ông, thưa thầy xưng em, mặc dù chỉ được nghe ông lên lớp có đôi lần.

 Hồi đó, năm 1987, nhà văn nhận lời mời của Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đến giảng bài cho các học viên văn xuôi khóa 3 trường Viết văn Nguyễn Du. Tôi nhớ, hôm ấy, buổi lên lớp đầu tiên của ông và cũng là lần đầu tôi được thấy ông, mùa thu, trời  mưa. Ông bên ngoài khoác áo tơi bạt bộ đội, bên trong cũng bận đồ bộ đội nhưng không mang quân hàm. Quần xắn tới gối, chân diện dép đúc. Vóc người tầm thước, nhưng ông rất gầy, quá gầy. Thấy rõ là ông không được khỏe.  Khi ông bỏ mũ ra thấy tóc ông mới chỉ hoa râm thôi chứ chưa bạc, song gương mặt thì - là tôi nhớ như thế -  nom khắc khổ và vì vậy trông già hơn hẳn quãng tuổi lục tuần của ông khi ấy. Ông nói giọng Nghệ An mà của Quỳnh Lưu nên nghe không mấy khác giọng Bắc. Ông nói chậm rãi, hơi bị khàn tiếng, thỉnh thoảng phải ngừng lời, mù-soa che miệng ho húng hắng.

 Nhà văn Nguyễn Minh Châu, theo như tôi nhớ, không phải người tài nói, ông diễn đạt ý nghĩ của mình một cách khá là trúc trắc, vừa nói vừa nghĩ, tìm từ, vì thế  ý tứ nhiều khi trở nên khó hiểu. Nhưng, dẫu rằng như vậy, mà quả tình, cả từ trước đó lẫn về sau này, đến tận bây giờ, tôi chưa hề bao giờ được nghe ai nói về văn học một cách sâu sắc, chí tình và thấm thía cho bằng hồi ấy nghe nhà văn Nguyễn Minh Châu. 

Hồi bấy giờ, Đổi Mới đang buổi cao trào, trong văn giới, trên văn đàn, người ta sôi nổi hào hứng luận bàn về sự canh tân và về những con đường mới mẻ đang rộng mở ra ở phía trước. Vậy nhưng nhà văn Nguyễn Minh Châu trong mấy buổi lên lớp, trò chuyện và đối thoại với chúng tôi, học viên trường Viết văn, lại chỉ chủ yếu nói về chặng đường cũ, chặng đường mà ông và các nhà văn cùng thế hệ đã đi đến mòn gót. Không phải là ông ôn lại vinh quang. Tuy là nói về một giai đoạn thường được xem là phát triển rực rỡ của văn học và bản thân ông thì được thừa nhận là một trong những nhà văn hàng đầu của giai đoạn ấy, vậy mà ông không lời ca ngợi, không lời tán dương, trái lại. Vài tháng sau đó, đọc “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” đăng trên Văn Nghệ, tôi nhận thấy là hầu hết những điều được nêu lên trong bài báo lay động lòng người này tác giả đã từng thổ lộ với chúng tôi, một nhóm nhỏ những người viết văn lứa hậu sinh kế cận thời của ông. Tôi đồ  rằng những nỗi niềm ấy, mà ông, nhờ Đổi Mới, có thể công khai cất tiếng than lên trong “Ai điều…” đã âm thầm chất chứa, âm thầm dằn vặt day dứt tâm trạng của ông, văn bút của ông trong đằng đẵng rất nhiều năm, và hẳn rằng nỗi khổ tâm ấy đã vô hình trung khiến ông trở nên rất cô đơn trong thời của mình.

 Trong những hôm lên lớp giảng bài ở trường Nguyễn Du hồi năm 1987, sự phê phán của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với văn học trước Đổi Mới (ông gọi là văn học minh họa) là rất nghiêm khắc, thậm chí nặng lời, nhưng không phải là với thái độ ác cảm, chê bai, phủ nhận mà là sự buồn bã, nỗi xót xa và cả niềm ân hận nữa. Ân hận, là bởi vì, như ông tự nhận định: chính mình là một trong những nhân vật “đầu bảng” viết lách kiểu minh họa chứ nào phải ai khác. Và dường như là vì thế, để lấy dẫn chứng cụ thể cho sự phê phán của mình, ông nhằm vào các tác phẩm của chính ông. Tôi rất hiếm khi được thấy, đúng hơn là chưa từng bao giờ thấy một nhà văn nào ở ta lại nghiệt với các tác phẩm, kể cả tác phẩm đã rất thành công của mình như vậy. Chẳng hạn, với Dấu chân người lính, bên cạnh những lời ca ngợi và đánh giá rất cao  cuốn tiểu thuyết hàng đầu này về đề tài chiến tranh tôi cũng từng đọc thấy, nghe thấy không ít những phê bình chỉ trích, tuy nhiên cặn kẽ, kỹ lưỡng và xác đáng nhất vẫn là sự tự phê bình, tự chê trách mà tôi đã được nghe từ tác giả.

Sau nhiều năm, ngẫm nghĩ về những  bài giảng của ông hồi ấy, tôi dần hiểu rằng, bằng sự phê phán không thương tiếc các tác phẩm của chính mình sáng tác trong thời kỳ “văn học minh họa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu khẩn thiết mong mỏi và kêu gọi lứa nhà văn sau ông hãy dứt khoát từ bỏ lối mòn văn chương “tập thể hóa”, như cách ông gọi, hãy thôi tự mình hù dọa mình, hãy thôi tự kiểm duyệt mình, hãy thực sự là cá nhân riêng biệt trong văn học, một mình con đường của mình mà bước tới.

Tôi nhớ, ông nói “cá nhân riêng biệt” là khi bàn tới nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Khi đấy, Nguyễn Huy Thiệp dù đã có “Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát ” và đặc biệt là “Tướng về hưu”, nhưng vẫn chưa phải tác giả xuất chúng như mấy năm về sau, chưa kể là còn đang bị vây bủa bởi vô số những sự lên án, bài bác, trù dập, vậy mà ông thầy của chúng tôi đã khẳng định chắc nịch rằng,  anh ấy, Nguyễn Huy Thiệp đích thực là nhà văn lớn nhất của nền văn học nước nhà trong cả, hay ít nhất là trong nửa cuối thế kỷ 20. Mà lý do để ông khẳng định như vậy là, theo ông, ngoài tài năng văn bút bẩm sinh Nguyễn Huy Thiệp tuyệt đối không “minh họa”, tuyệt đối riêng biệt, cá nhân và đơn độc, không ảnh hưởng ai, không Tây, Mỹ, Tàu, Nga, không cả Việt nữa, Việt như bấy lâu chúng ta vẫn quen đọc, và một nhà văn Việt Nam như thế ở thời hôm nay là tuyệt đối có một không hai. 

 Sự đánh giá cao một cách đặc biệt như thế Nguyễn Huy Thiệp cho thấy thái độ trọng thị và trân quí của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với một tài năng văn học;  nhưng mà không chỉ thế, theo tôi, điều đó còn cho thấy ông đã nóng lòng đến nhường nào mong đợi bước ngoặt chấm dứt giai đoạn “văn học minh họa”. Ông bảo rằng chẳng phải là xa xôi gì, chỉ ngay trước ngưỡng cửa Đổi Mới, hồi năm ngoái năm kia thôi, (tức là 1985, 1986) một truyện ngắn như Tướng Về Hưu mà lại có thể được phép hiện diện trên mặt báo của Hội Nhà văn là một sự hoàn toàn không tưởng.

 Theo ông, văn chương minh họa  “minh họa” cho chính cơ chế quan liêu bao cấp, và vì thế nó cũng ức chế sự tiến bộ của văn học y hệt như cơ chế quan liêu bao cấp đã kìm hãm sự phát triển của đất nước trong đằng đẵng suốt hơn mười năm trời sau chiến tranh. Nói sau chiến tranh là bởi vì cái mà ông gọi thế: văn chương minh họa, ý ông không phải là gồm toàn bộ văn chương của thời kỳ Văn học Hiện thực XHCN đã bắt đầu ở nước ta từ 1945, mà chỉ chủ yếu là từ sau 1975, mười năm hậu chiến bao cấp. Tuy nhiên, ông cho rằng, khác với người nông dân hay là với nói chung quần chúng nhân dân cả nước, người viết văn chúng ta không muốn, hoặc là không thiết tha gì lắm với việc được thoát  ra khỏi sự kìm hãm và sự đùm bọc của cơ chế bao cấp. 

 Cố nhiên, không phải tất cả, không phải nhà văn nhà thơ nào cũng khoái làm con yểng thiết tha gắn bó với cái lồng son Văn học minh họa. Lê Lựu chẳng hạn, ông bảo vậy, không phải Lê Lựu hồi nào mà là Lê Lựu viết Thời Xa Vắng. Ông bảo rằng tuy muộn, mãi tới cuối năm ngoái (1986) mới có được Thời Xa Vắng, nhưng Lê Lựu của chúng tôi (của Văn nghệ Quân đội) vẫn thực sự là một trong số  ít những nhà văn can đảm tự đổi mới và can đảm tiền phong con đường Đổi Mới.

Tôi nhớ, ông khuyên chúng tôi, những người mới chớm cửa nghề văn, để hiểu thế nào là can đảm tự đổi mới và tiên phong trên con đương gian nan Đổi Mới văn học, hãy tìm đọc và nếu đã đọc rồi thì hãy đọc lại một lần nữa, rồi một lần nữa: Đất Trắng hai tập của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, Sao Đổi Ngôi của nhà văn Chu Văn, Mùa Lá Rụng Trong Vườn của nhà văn Ma Văn Kháng; đọc kỹ, nghiền ngẫm và so sánh ba cuốn ấy với những cuốn đã được sáng tác trước đấy cũng của ba nhà văn đó.

 Buổi học cuối cùng của chúng tôi với thầy Nguyễn Minh Châu cách quãng mấy buổi học trước một thời gian khá lâu. Tôi nhớ hôm đó đã chừng giữa tháng 12.  Mùa đông năm 1987 rất lạnh, mưa nhiều, ảm đạm, nhưng là một mùa đông dạt dào hy vọng, vì thế mà có vẻ rất tươi vui nồng ấm, nhất là đối với các nhà văn. Tôi thì chưa phải là nhà văn nên chưa tự thấy có động tĩnh gì trong lòng, song tôi có thể  thấy được sự “hồ hởi phấn khởi” ấy ở các thầy trong trường và các thầy được mời đến dạy. Nhất là thầy Nguyễn Minh Châu, niềm vui nơi ông như át đi bề ngoài khắc khổ và trầm lặng cố hữu. Vào lớp, ông nói ngay là ông vừa được đọc kỹ lưỡng và đầy đủ toàn văn Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, đang ốm mà bừng dậy, khỏe khoắn hẳn lên, đủ sức và cảm hứng để đạp xe đến với “các ông”. Giảng dạy hay trò chuyện ông luôn đối thoại như thế, ông tôi với chúng tôi, các học viên.

Trước đấy chúng tôi đã được nghe cán bộ từ Ban Tuyên giáo đến trường thuyết giảng về Nghị quyết 05 và về Hội nghị hồi tháng 10 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ các đại diện của giới văn nghệ sĩ. Nhưng, phải đến hôm ấy, từ tâm tình của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tôi mới thật sự thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của Hội nghị ấy và của Nghị quyết 05 đối với Đổi mới văn học, hay rộng ra là với tương lai của văn học nước nhà, và cụ thể, trực tiếp, sát sườn là đối với sự viết lách mai này của chính chúng tôi, những người mới viết và sắp viết.

Từ nay, với sự soi sáng của Nghị quyết  05 và cả với những đảm bảo từ đích thân Tổng Bí thư, các nhà văn sẽ ung dung, không phải ngó quanh ngó quất gì hết, cứ dốc lòng dốc sức trung thực mà viết. Nhà văn Nguyễn Minh Châu không nói tự do sáng tác, mà nói ung dung sáng tác, nhưng cũng chỉ là một khái niệm mà thôi, và hẳn nhiên đấy là điều tâm đắc nhất,  mừng vui nhất của ông trước vận hội mới đang mở ra cho văn học. Mà có lẽ cũng do niềm vui “từ nay được ung dung” ấy nên hôm đó ông đã cởi mở tâm sự hầu như không mảy may e dè gì hết với bọn chúng tôi.

Ông kể, hoặc đúng hơn, thú thực với chúng tôi, nỗi sợ hãi của ông hồi nào (hồi năm 1985) khi truyện ngắn Chiếc Thuyền Ngoài Xa được đăng trên báo Văn Nghệ.  Mừng vì đăng được nó, nhưng cũng lại đầy phấp phỏng, bồn chồn đón đợi búa rìu rồi sẽ phải nhận vì nó, một cái truyện ngắn mà ông đã viết một cách đầy đam mê và tâm huyết, và khi viết xong thì thầm vui, thầm sướng, thầm thấy tự hào. Nhưng rồi thấy sợ!

Trước đó, với Dấu Chân Người Lính cũng vậy, mừng vì xuất bản được nó nhưng đầy lo âu vì nó được xuất bản. Trước khi bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết này, ông đã đi thực địa và thực chiến một thời gian dài tại mặt trận Đường Chín - Khe Sanh, chứ không hề là ngồi ở Hà Nội “đào công sự trên giấy”. Nhưng khi viết, ngòi bút đụng dần tới thực tế cuộc chiến, đến sự sống và chết của người lính bộ binh” đối trận”, thì không cần phải ai cản, tự ông đã cản mình lại. Và mặc dù đã tự cản rồi, rất ít trang thấu được đến những điều  bản thân đã chiêm nghiệm và ngẫm nghĩ, mà rồi vẫn thấy e ngại; không chỉ ông thấy ngại, mà những người bạn được ông tin cậy đưa cho đọc vài trang bản thảo cũng sợ, sợ cho ông và sợ “cháy thành vạ lây”.

Nhắc lại “thời gian khó” với đầy rẫy trở ngại khiến văn nghệ sĩ mất tự tin, đến nỗi phải không ngừng kiểm duyệt nhau và tự kiểm duyệt, nhà văn muốn nhấn mạnh cho chúng tôi thấy được sự thuận lợi, vô cùng thuận lợi, của văn bút thời hôm nay, đất nước Đổi Mới. Và ông bảo chúng tôi rằng, đó, cửa lồng đã mở, con chim yểng liệu có đủ tài đủ gan để tung cánh ra với trời rộng không, hay là sẽ thu mình rũ cánh chọn không gian êm ái và yên ổn của cái lồng?

        

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574284

Hôm nay

2199

Hôm qua

2322

Tuần này

21830

Tháng này

221341

Tháng qua

130677

Tất cả

114574284