Những góc nhìn Văn hoá
Ký hiệu học văn hóa ở trường phái ký hiệu học Tartu - Moskva (kỳ 2)

Vấn đề văn bản
Dẫu về cơ bản TMS tiếp tục và phát triển đường lối của Saussure trong lĩnh vực ký hiệu học, nhưng trong hàng loạt vấn đề cơ bản, rõ ràng vẫn có sự bất đồng với cả Saussure, lẫn các nhà nghiên cứu Pháp.
Saussure chia phạm vi ngôn ngữ (khái quát lại - nhưng vẫn hoàn toàn theo tinh thần của Saussure ,- có thể nói, chia phạm vi ký hiệu nói chung) thành ngôn ngữ theo nghĩa đen và lời nói. Trong sự phân chia này, có hai điểm mang lại ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta. Thứ nhất, ngôn ngữ là một hệ thống trừu tượng và trong tương quan với lời nói, nó là cái thứ nhất, cái có trước. Ngôn ngữ được hiện thực hoá trong lời nói, hơn nữa, trong lời nói, ý nghĩa ngôn ngữ học (= ký hiệu học) chỉ là mức độ lời nói thực hiện cấu trúc của ngôn ngữ[1]. Thứ hai, chỉ ngôn ngữ mới là hệ thống của các ký hiệu. Điều sau này có vẻ rất nghịch lý: các tín hiệu lời nói được phát ra và được tiếp nhận (không riêng gì các âm thanh riêng lẻ, mà cả các câu hoàn chỉnh) tự bản thân chúng không phải là các ký hiệu, chúng chỉ đại diện cho các ký hiệu của ngôn ngữ.
Sự phát triển sau này của phương pháp luận cấu trúc - ký hiệu học phần lớn gắn với việc hiện thực hoá cương lĩnh của Saussure: nằm ở trung tâm nghiên cứu là ngôn ngữ (được hiểu theo kiểu ký hiệu học, tức là không bàn về ngôn ngữ tự nhiên, mà bàn về bất kỳ hệ thống ký hiệu nào), cấu trúc của nó và phương pháp mô tả nó (đối lập nhị phân, sự phân bố, chuyển hoá v.v…).
Trên cái nền ấy, đặc thù của TMS trở nên nổi bật. Đặc thù của nó là nguyên tắc lấy văn bản làm trung tâm: không phải ngôn ngữ, không phải ký hiệu, không phải cấu trúc, không phải đối lập nhị phân, không phải quy tắc cú pháp, mà văn bản là trung tâm trong hệ thống quan niệm của nó. Ký hiệu học văn hoá nghiên cứu các văn bản, hơn nữa, bản thân văn hoá cũng có thể được nghiên cứu với tư cách là văn bản. Ý nghĩa quan trọng của các phương pháp phân tích khác nhau tựu trung tuỳ thuộc vào mức độ phù hợp của chúng với việc mô tả và diễn giải văn bản. Ngay cả việc mô tả cấu trúc ngôn ngữ cũng phải lui về phía sau, bởi vì, ở TMS, bản thân nguyên tắc tự động rút văn bản từ ngôn ngữ thường bị loại bỏ. Dĩ nhiên, việc giải thích văn bản nhờ thế hoàn toàn khác với cách giải thích trong chủ nghĩa cấu trúc cổ điển và khác với các biến thể của nó trong chủ nghĩa (hậu) cấu trúc Pháp.
Hệ hình cổ điển của ngôn ngữ học và thi pháp học cấu trúc xuất phát từ quan niệm của Saussure về hoạt động ngôn ngữ, trong đó, thực chất, văn bản không có chỗ đứng. Văn bản là một biến thể của lời nói, chẳng những thế, ở đây thường hàm chỉ lời nói trong văn viết. Bởi thế, văn bản chẳng những không phải là vấn đề cơ bản, mà nói chung, thực chất, không phải là đối tượng “hợp pháp” của mô tả ký hiệu học, vì mọi cái có liên quan trong đó đều chỉ là kết quả thực hiện của cấu trúc ngôn ngữ. Cách diễn giải vấn đề của điều khiển học rất mốt thời ấy, theo đó, tương quan ngôn ngữ/lời nói là tương quan của mã (code) và thông tin (message), chỉ ghi lại khoảnh khắc tức thời của văn bản trong tương quan với ngôn ngữ[2]. Chủ nghĩa cấu trúc khác biệt với các khuynh hướng ngôn ngữ học trước nó không hẳn chỉ ở các tư tưởng và phương pháp mới mẻ, mà chủ yếu ở sự thay đổi đối tượng nghiên cứu: với nhà cấu trúc luận, ngôn ngữ không còn là cái giống như trong quan niệm của cánh ngữ pháp trẻ. Chủ nghĩa cấu trúc tựa như đã dọn sạch đấu trường nghiên cứu cho bản thân bằng cách vứt bỏ trên mình tất cả những gì thừa thãi.
Một trong những cách ngôn rút từ Kinh Thánh mà Iu.M.Lotman yêu thích là: “Hòn đá mà những người thợ xây bỏ đi đã thành vật đắc dụng”(Ps.118,22)[3]. Văn bản là “hòn đá vứt đi” của chủ nghĩa cấu trúc; Iu.M.Lotman đã biến nó thành hòn đá thử vàng của TMS. Khác với cấu trúc luận cổ điển, trong quan niệm của trường phái Tartu, văn bản không phải là một thực tại trực tiếp nào đấy, mà, cũng giống như ngôn ngữ, là vấn đề, là “hộp đen”, là “vật tự nó”. Trong những công trình nghiên ở giai đoạn đầu, Iu.M. nhấn mạnh tính nội tại tuyệt đối của văn bản trong tương quan với hiện thực ngoài văn bản, chúng tồn tại trong mối quan hệ bổ trợ lẫn nhau. Văn bản, đó là một cấu trúc khép kín và độc lập, nó chính là như thế và cần được nghiên cứu như thế. Những yếu tố riêng lẻ của cấu trúc này không có giá trị độc lập; giá trị của chúng (valeurcủa Saussure) do một tập hợp các chức năng cấu trúc quy định. Với chủ nghĩa cấu trúc cổ điển, văn bản là một chỉnh thể khép kín, trong khi đó, lời nói lại hoàn toàn mở và mang tính phân mảnh; ngôn ngữ hiển nhiên là lớn hơn văn bản, nó có khả năng sinh ra vô số văn bản. Nhưng theo quan niệm của Iu.M., ngôn ngữ và văn bản không thể nhập vào nhau, và trong hàng loạt tương quan, văn bản lớn hơn ngôn ngữ. Thứ nhất, trong văn bản có rất nhiều yếu tố không thể rút ra từ ngôn ngữ: sự đánh dấu chỗ mở đầu và kết thúc (“khung” của văn bản), các nguyên tắc kết cấu v.v… Thứ hai, khác với ngôn ngữ, văn bản được trao cho ý nghĩa và ý nghĩa ấy không tách rời cấu trúc của văn bản, vì thế, văn bản chẳng những bị mô tả, mà còn bị diễn giải, về nguyên tắc, số lượng diễn giải chẳng có giới hạn nào cả. Thứ ba, văn bản dường như không bao giờ chỉ là sản phẩm hiện thực hoá của một ngôn ngữ; về nguyên tắc, mọi văn bản đều mang tính đa ngôn ngữ học; như một hiện tượng đa ngữ, mọi loại văn hoá đều được xem xét với tư cách là văn bản. Với ký hiệu học văn hoá, chỉnh thể cơ bản chính là văn bản. Bởi vậy chỉnh thể của TMS hoàn toàn khác với tính chỉnh thể của Saussure.
Vì thế, trong hệ hình của TMS, văn bản không thể quy về ngôn ngữ. Thứ nữa, sơ đồ giao tiếp của Jakobson, trong đó ngôn ngữ và văn bản hoạt động như là hai trong số sáu thành tố, đã bị xét lại:
Ngữ cảnh
Thông tin (Văn bản)
Người phát...……………………...Người nhận
Mã (Ngôn ngữ)
Sự tiếp xúc
Theo R.Jakobson, người phát diễn đạt thông tin nhờ sự trợ giúp của ngôn ngữ và có tính đến ngữ cảnh, anh ta chuyển thông tin ấy cho người nhận qua kênh tiếp xúc. Sáu thành phần ấy của sơ đồ giao tiếp tương ứng với sáu chức năng ngôn ngữ. Chỉ cần đánh giá từ quan điểm giao tiếp tiền ngôn ngữ học, đã buộc phải thừa nhận, sơ đồ trên hoàn toàn chưa đầy đủ. Khi xưa, Iu.V. Knorozov từng dẫn nhiều ví dụ về sự giao tiếp trong thế giới động vật để chỉ ra rằng, bên cạnh người phát và người nhận, còn một nhân vật thứ ba tham gia vào tình huống giao tiếp cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhân vật này được ông gọi là “kẻ chen ngang”, “kẻ hóng chuyện”, “người nói đế”. Văn bản vẫn có thể có định hướng nhắm tới kẻ hóng chuyện; định hướng này cũng có thể lý giải theo tinh thần các chức năng của Jakobson (có thể liên hệ với ngôn ngữ Ésope). Trong các hệ thống liên lạc điện tử, vai trò của kẻ chen ngang và tầm quan trọng của việc bảo vệ thông tin trước kẻ hóng chuyện ngày càng tăng lên.
Iu.M. đã tạo ra những thay đổi hết sức cơ bản trong quan niệm về hình thức và vai trò của giao tiếp trong hệ thống văn hoá.
Thứ nhất, từ quan điểm của ông, hành vi giao tiếp ở trường hợp phổ quát nói chung không phải là sự truyền đạt một thống tin có sẵn: chẳng phải chỉ ngôn ngữ không thể tồn tại trước văn bản và bên ngoài văn bản - chính điều này cũng đúng với mọi thành phần còn lại trong sơ đồ giao tiếp của Jakobson. Ngữ cảnh là cái cùng với - văn bản (nối kết với - văn bản), nó không thể tồn tại trước văn bản, văn bản phụ thuộc vào ngữ cảnh và ngữ cảnh phụ thuộc vào văn bản với cùng một mức độ như nhau. Hành vi giao tiếp là hành vi phiên dịch, hành vi biến đổi: văn bản biến đổi ngôn ngữ, biến đổi người nhận[4] - xác lập sự tiếp xúc giữa người gửi và người nhận, làm biến đổi bản thân người gửi. Chẳng những thế, bản thân văn bản cũng tự biến đổi, không còn đồng nhất với bản thân nó. Quan niệm, theo đó văn bản không bao giờ đồng nhất với bản thân - bởi khi nhập vào những quan hệ mới ngoài văn bản (ví như trong quá trình giao tiếp), cấu trúc của nó thường xuyên bị phức tạp hoá, còn ngữ nghĩa thì đa dạng hoá - buộc người ta phải nghĩ tới Thần ngôn (“logos”.- ND.) tự phát triển ở Héraclite[5].
Thứ hai, cần phân biệt những kênh liên lạc hoàn toàn khác nhau. Với Jakobson, cả người phát, lẫn người nhận thực chất chỉ là những nhân vật vô nhân xưng, là họ; trong khi đó, quá trình giao tiếp bao giờ cũng mang tính cá thể hoá. Một đằng, họ nói với nhau về một cái gì đó, một đằng, tôi tham gia vào cuộc đàm đạo, đó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau, nói một cách nghiêm nhặt, tình huống thứ nhất, nhìn chung, không phải là tình huống giao tiếp (giả dụ, tôi không tham gia vào tình huống ấy trong vai một chứng nhân/kẻ hóng chuyện), bởi vì việc giao tiếp chỉ còn gắn với sự tiếp xúc thuần tuý mang tính chất ngữ nguyên. Iu.M. phân biệt hai trường hợp hoàn toàn khác nhau: giao tiếp trong hệ thống “TÔI - NÓ” và trong hệ thống “TÔI - TÔI”[6], tức là tự giao tiếp. Thêm vào đó, tự giao tiếp không chỉ là một dạng hoàn toàn khác, mà trong hàng loạt quan hệ, nó là dạng giao tiếp quan trọng nhất; từ quan điểm văn hoá nhìn với tư cách của chỉnh thể, tự giao tiếp chiếm ưu thế hơn hẳn so với sự giao tiếp với người khác.
Người dịch: Lã Nguyên
Nguồn: История и типология русской культуры. СПб., 2002. С. 5–20
[1]Saussure tuyên bố dứt khoát: “Đối với các yếu tố khác của hoạt động lời nói, khoa học về ngôn ngữ hoàn toàn có thể bỏ qua” (Saussure F.de.- Các công trình nghiên cứu ngôn ngữ học. M.,1977, tr.53.
[2]Cần chỉ ra rằng, cấu trúc luận Pháp từng có ý đồ xét lại một cách cơ bản luận điểm này. Charles Bally - môn đệ chân truyền của Saussure - từng cho rằng, ngữ nghĩa của lời nói không thể quy về ngữ nghĩa của ngôn ngữ (xem: Bally Ch.- Ngôn ngữ học đại cương và những vấn đề của ngôn ngữ Pháp. М., 1955). Émile Benveniste, người từng phát hiện ra bộ máy hình thức của phát ngôn, đã phát triển luận điểm của Bally (xem.: Benveniste É.- Ngôn ngữ học đại cương. М., 1974). Tuy vậy, cả Bally, lẫn Benveniste vẫn tiếp tục bàn về lời nói chứ không bàn về văn bản, mặc dù chủ yếu họ phân tích văn bản, chứ không phải lời nói “sống động” (Bally là chuyên gia của lĩnh vực phong cách học, Benveniste là chuyên gia về các ngôn ngữ cổ).
[3]Iu.M.Lotman thường thích trích câu cách ngôn này từ bản Phúc âm từ Hình thức, vì cách diễn đạt ở đây mạnh mẽ hơn: “Hãy chỉ cho ta hòn đã mà những người thợ xây bỏ đi! Nó chính là hòn đá thử vàng”.
[4]Xem: Lotman Iu.M.- Văn bản và cấu trúc cử toạ// Ghi chép học thuật Tổng hợp Quốc gia Tartu. 1977, Q.422, tr.55-61.
[5]Nhân đây, cần chỉ ra rằng, tuyển tập mà mọi người đều biết Bên trong những vũ trụ tư duy còn có một tiêu đề khác: Thần ngôn tự lớn lên.
[6]Lotman Iu.M.- Ký hiệu quyển. Tr.163-177, 666-668. (Có lẽ, ở trường hợp thứ nhất, sẽ tốt hơn, nếu nói về hệ thống “TÔI - ANH”, về những vấn đề xuất hiện ở đây và những tuyến song hành có thể có với triết học “đối thoại”. Xem: Lotman M.Umwelt and semiosphere // Σημειωτικη. Sign System Studies. V. 30 (1). P. 33-40 – mặc dù Iu.M.Lotman chi trích dẫn M.Bakhtin, nhưng ở nhiều mặt, ông gần gũi với quan điểm của E. Lévinas nhiều hơn.
tin tức liên quan
Videos
Hội nghị Sơ kết cụm thi đua 6 tỉnh Bắc Trung Bộ năm 2023
Bàn về “Học thật, thi thật, nhân tài thật” ( Kỳ 2)
Những âm thanh vang vọng núi rừng Tương Dương
Chuyện về những người phụ nữ có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Mai
Phan Bội Châu (Phần cuối)
Thống kê truy cập
114559505

2205

2317

2823

227048

122920

114559505