Những góc nhìn Văn hoá
Trung tâm của "lịch sử bên lề": sự di cư, internet và phiên bản mới về tiền sử Việt Nam
TÓM TẮT
Cho đến gần đây, hầu như tất cả thông tin về quá khứ ở Việt Nam đều do các học giả làm việc cho nhà nước, chủ yếu là các giáo sư đại học tiến hành, và được xuất bản dưới hình thức in. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các cá nhân đã bắt đầu sử dụng Internet để đưa ra những góc nhìn mới về quá khứ Việt Nam, và trong một số trường hợp là để in công trình của họ. Một số nhà sử học nghiệp dư này hiện đã đưa ra một bản văn mới về thời tiền sử Việt Nam. Bản văn này trình bày một cái nhìn cực kỳ tích cực về lịch sử của tổ tiên xa xưa của người Việt, coi họ về cơ bản là những người sáng lập ra nền văn minh Đông Á. Trong khi một số phương diện của câu chuyện này lần đầu tiên được nhà triết học Nam Việt Nam Lương Kim Định đưa ra vào những năm 1960, các nhà sử học nghiệp dư Việt Nam ở hải ngoại vào khoảng đầu thế kỷ 21 đã bổ sung điều mà họ cho là những phát hiện “khoa học” của các học giả “quốc tế” về vấn đề này. Cuối cùng, các học giả ở Việt Nam đã tiếp cận những ý tưởng này thông qua Internet và tổng hợp chúng với các công trình của các học giả đang làm việc tại Việt Nam. Sự lan truyền các ý tưởng từ miền Nam Việt Nam sang cộng đồng người hải ngoại và sau đó trở lại Việt Nam qua Internet mang lại một cái nhìn hấp dẫn về cách thức giao tiếp trong kỷ nguyên số, giúp một số tác giả từ các thế giới bị chia cắt trước đây của Việt Nam và cộng đồng người nước ngoài tìm ra điểm chung nhằm thúc đẩy tầm nhìn dân tộc về quá khứ xa xôi với mong muốn chung là tạo ra một nền tảng văn hóa và triết học vững chắc giúp người Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong thời đại toàn cầu.
GIỚI THIỆU
Ngày 14 tháng 7 năm 2012, tại Văn Miếu, Hà Nội, Trung tâm Khai sáng Trí tuệ (Trung tâm Minh triết) và Trung tâm Nghiên cứu Triết học Phương Đông (Lý học Đông phương) tổ chức hội thảo kỷ niệm 15 năm ngày mất của nhà triết học Nam Việt Nam Lương Kim Định1, với các khách mời danh dự từ Đảng Cộng sản, Quốc hội và giới học giả. Đây là sự kiện đầu tiên được tổ chức tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để thảo luận về các tác phẩm và tư tưởng của Lương Kim Định. Sau lễ khai mạc, hội thảo bắt đầu với phần trình bày của tác giả Hà Văn Thùy và ông đã phát biểu:
“Từ nửa thế kỷ trước, Kim Định đã tuyên bố như một nhà tiên tri thấu thị rằng người Việt đã chiếm cứ lãnh thổ Trung tâm (middle kingdom) trước người Hoa và xây dựng nên một nền văn hóa Việt Nho nhân bản, minh triết. Cùng chung số phận với những nhà tiên tri khác, suốt 50 Kim Định bị ghẻ lạnh và chỉ trích! Nhưng ngày nay, thời gian và khoa học minh chứng cho Kim Định. Thuyết Việt nho và An vi của ông trở thành báu vật không chỉ giúp dân tộc Việt tìm lại bản thể của mình để xây dựng một dân tộc Việt Nam mới mà còn thắp lên ngọn lửa minh triết soi đường cho nhân loại (Vũ 2012).”[1]
Những ý kiến được nêu ra trên đây, rằng tổ tiên của người Việt Nam đã cư trú ở khu vực ngày nay là Trung Quốc và đã xây dựng một nền văn hóa mà ngày nay có thể giữ vai trò hoa tiêu cho nhân loại là những điều lạ lẫm với bất cứ ai ở ngoài Việt Nam và từng nghiên cứu lịch sử Việt Nam thông qua các kênh học thuật chính thống. Dù đọc các biên niên sử Việt Nam thời cận đại bắt đầu bằng cách lần theo một dòng dõi chính trị cổ xưa từ Thần Nông, vua thần thoại của Trung Quốc cổ đại, đến các vua Hùng, vua thần thoại của Việt Nam, hay đọc các công trình thời thuộc địa của các nhà sử học Pháp, lập luận rằng lịch sử đích thực bắt đầu ở khu vực mà ngày nay là Việt Nam mở đầu với sự cai trị của Trung Quốc vào cuối thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, hay đọc ngay cả các công trình đậm tính dân tộc ở miền Bắc Việt Nam vào những năm 1960 và 1970 đã tìm cách chứng minh có một xã hội với trình độ cao ở Đồng bằng sông Hồng trước khi tiếp xúc với người Trung Quốc, hoặc đọc các tác phẩm của nhà sử học Mỹ, Keith Taylor, người mà các quan điểm đã chuyển từ việc theo cách nhìn dân tộc tính của các nhà sử học người Việt sang lập luận rằng có quá ít bằng chứng để khẳng định chắc chắn về quá khứ xa xôi, không có tác phẩm nào khẳng định rằng tổ tiên xa xôi của người Việt đã chiếm cứ khu vực ngày nay là Trung Quốc và xây dựng nền tảng của những gì chúng ta nghĩ đến như truyền thống văn hóa Đông Á (Ngô 1983 [1479]; Maybon và Russier 1909; Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam 1971; Taylor 1983, 2013).
Tuy nhiên, ai đã ở Việt Nam trong 20 năm qua, hoặc ai từng đọc các bài đăng trên mạng về lịch sử Việt Nam, chắc hẳn sẽ gặp phải những ý kiến trên đây. Là một nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, tôi bắt đầu gặp những quan niệm đó từ đầu những năm 2000. Dù đó là những câu hỏi được đặt ra trong các buổi nói chuyện chuyên môn, đến những cuộc trò chuyện thường nhật trong quán cà phê, tôi liên tục gặp những ý kiến không nằm trong chương trình đào tạo hàn lâm mà tôi đã được học, nhưng rõ ràng đó là một phần của kiến thức lịch sử phổ thông của Việt Nam, và chắc chắn là quan trọng với một số người Việt Nam, cả trong và ngoài nước.
Các chủ đề của “lịch sử biến thể” (alternative history) này mà tôi gặp chủ yếu tập trung vào thời tiền sử và sự hình thành văn hóa truyền thống Việt Nam. Ví dụ, tôi được cho hay rằng người Việt đã tạo ra một loại chữ viết (nay đã thất truyền) trước khi văn học Trung Quốc được tầng lớp ưu tú tiếp nhận khoảng 2.000 năm trước. Người ta nói với tôi rằng người Việt đã tạo ra Kinh Dịch (Yijing- Classic of Changes) – văn bản mà hầu hết các học giả trên thế giới đều coi là một trong những văn bản “Trung Quốc” sớm nhất - và người Trung Quốc sau đó đã “đánh cắp” nó, rồi tuyên bố đó là của họ. Thật vậy, theo thời gian, tôi nghe người ta nói nhiều hơn những dòng này, như thông báo cho tôi chẳng hạn, và như Hà Văn Thùy đã nói trước đó, rằng người Việt Nam định cư ở vùng đất của Trung Quốc trước khi người Trung Quốc có mặt, và rằng có một sự khác biệt cơ bản giữa hai cư dân này, với người Việt Nam là “trồng trọt” và người Trung Quốc là “chăn nuôi”. Cuối cùng, tôi cũng được nghe nhiều lần rằng người Việt phát minh ra việc trồng lúa, và điều này đã được một học giả phương Tây “chứng minh” trong cuốn sách có tên “Địa đàng ở Phương đông” (East of Eden).
Càng nghe mọi người đưa ra những bình luận như vậy, tôi càng tò mò muốn biết chúng đến từ đâu. Do đó, tôi bắt đầu tìm kiếm, và cuối cùng nhận ra rằng nhiều ý kiến trong số đó lần đầu tiên được nhà triết học tên là Lương Kim Định, người hoạt động rất tích cực ở miền Nam Việt Nam vào những năm 1960 và đầu 1970, nêu ra. Các học giả từ miền Nam Việt Nam không được nhà nước Cộng sản Việt Nam hoan nghênh khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, và Lương Kim Định không là ngoại lệ. Ông di cư sang Mỹ và sách của ông bị cấm. Rồi tôi tự hỏi, làm thế nào mà những quan niệm của ông ấy lại được biết đến và lan truyền ở Việt Nam vào thế kỷ 21? Và làm thế nào mà vào năm 2012 một hội thảo chính thức được tổ chức tại Văn Miếu ở trung tâm Hà Nội, để thảo luận những quan niệm của ông ấy?
Những câu hỏi như vậy dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp nằm ngoài phạm vi của bài tiểu luận này. Tuy nhiên, cuối cùng chúng ta có thể nói rằng có một sợi dây nối kết các ý tưởng của Lương Kim Định, Hà Văn Thùy và nhiều người khác. Đó là cảm nhận rằng các thế lực như phương Tây hóa, và hiện nay là toàn cầu hóa, đang đặt ra một mối đe dọa sống còn đối với xã hội Việt Nam, và cần phải tạo ra một triết lý và văn hóa Việt Nam mới để chống lại mối đe dọa đó. Ngoài ra, ở mức độ nào đó, các cá nhân được thảo luận trong bài viết này đều cho rằng chính phủ Cộng sản, hoặc các trí thức chính thống hiện thời, không có khả năng làm việc này. Chẳng hạn, vào những năm 1960, Lương Kim Định đã tìm cách đưa ra một triết lý cho miền Nam Việt Nam nhằm chống lại ảnh hưởng của phương Tây và đó cũng là một giải pháp thay thế cho Chủ nghĩa Cộng sản. Cung Đình Thanh, một nhân vật chủ chốt trong việc phát triển các ý tưởng được xem xét trong bài viết này, người mà chúng ta sẽ gặp trong phần tiếp theo, tin là từ vị trí thuận lợi của ông ở Úc vào những năm 1990, rằng chế độ Cộng sản sẽ sớm chấm dứt ở Việt Nam và đất nước cần một nền văn hóa mới cho một thời đại mới, nhưng là một nền văn hóa vẫn bám sâu vào một thứ gì đó có thể nhận dạng là “Việt Nam”. Vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam coi toàn cầu hóa như một mối đe dọa và tìm cách chống lại ảnh hưởng tiêu cực mà sự hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ mang lại cho văn hóa và xã hội Việt Nam bằng cách thúc đẩy các bình diện khác nhau của văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, Hà Văn Thùy đã viết vào năm 2005 rằng mặc dù chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết “bảo vệ tinh hoa văn hóa dân tộc”, nhưng những nghị quyết này, theo ông, đã không có hiệu quả. Vì vậy, ông cũng tranh luận cần để những người khác có trách nhiệm tạo ra một nền văn hóa mới, có thể chống chọi lại sự “xâm lăng văn hóa” (cultural invasion) của những ảnh hưởng toàn cầu (Hà 2005).
Chính vì thế các cá nhân được thảo luận trong bài viết này đều lo ngại về sự sống còn của văn hóa và xã hội Việt Nam khi tiếp xúc với các nền văn hóa nước ngoài. Hơn nữa, tất cả họ đều nhận thấy rằng bước đầu tiên để đẩy mạnh văn hóa và xã hội Việt Nam là đưa ra một cái nhìn mới về những thời kỳ sơ khai nhất của lịch sử. Bài viết này nhằm cung cấp một cố gắng ban đầu để chỉ ra các quan điểm của những người này về quá khứ xa xôi đó, hoặc về cơ bản là tiền sử Việt Nam. Những quan điểm lịch sử mà họ phát triển được dùng làm bối cảnh để từ đó đưa ra những luận cứ có thể coi như là nền tảng cho nền văn hóa và triết lý mới của người Việt Nam. Chẳng hạn, Lương Kim Định đã phát triển một số lý thuyết triết học, như “Việt Nho” và “An Vi” (Tranquillity Philosophy) dựa trên niềm tin rằng những quan niệm trong các tác phẩm như Kinh Dịch được phát triển trước hết bởi tổ tiên người Việt. Để xác lập luận điểm này, Lương Kim Định đã xây dựng một phiên bản tiền sử độc đáo, cho rằng tổ tiên của người Việt là những cư dân đầu tiên của lục địa Châu Á và họ đã tạo ra nền tảng mà ngày nay người ta gọi là “Trung Quốc” hay Văn hóa “Đông Á”. Trong 30 năm qua, người Việt ở hải ngoại và ở Việt Nam đã phát triển câu chuyện tiền sử đó xa hơn bằng cách kết hợp các ý kiến từ khảo cổ học và di truyền học. Họ có thể làm được một phần lớn điều này là nhờ Internet vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc giao tiếp giữa người Việt ở hải ngoại và ở Việt Nam, những người trước đây sống biệt lập với nhau. Chuyên luận này sẽ theo dõi sự phát triển của những quan niệm này giữa các thành viên của các cộng đồng khác nhau này.
Trong khi các ý tưởng tạo nên câu chuyện biến thể này của tiền sử Việt Nam đã đi từ miền Nam Việt Nam đến cộng đồng người hải ngoại, và bây giờ trở lại trong tâm thức người Việt qua Internet và thông qua nỗ lực của cả Việt kiều và người Việt trong nước, những cá nhân đã đóng góp vào việc phát triển những quan niệm lịch sử này phần lớn có thể được coi là chiếm một vị trí bên “rìa” (fringes) của đời sống học thuật Việt Nam, hay rõ ràng là bên rìa của ngành sử học. Quả thật, sự xác định tương tự cũng được dành cho Lương Kim Định khi ông còn hoạt động ở miền Nam Việt Nam (Tạ 2008). Đồng thời, các cá nhân được thảo luận trong bài viết này, cụ thể là những người viết trong những năm 1990 và 2000, cũng đã chỉ trích các học giả chính thống ở trung tâm của đời sống học thuật chính thống ở Việt Nam. Điều này có thể được nhìn thấy theo một số cách. Thứ nhất, một số tác giả trong số này đối chiếu những gì được cho là của “các học giả quốc tế” với những gì mà các học giả ở Việt Nam đã viết, và về cơ bản chê các học giả ở Việt Nam không chịu cập nhật. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy trong thảo luận tiếp theo, có những vấn đề nghiêm trọng về việc các tác giả này hiểu và sử dụng “học thuật quốc tế” như thế nào. Thứ hai, các tác giả này coi trọng yếu tố học thuật mang tính dân tộc hiện đại ở Việt Nam - phê phán cách tiếp cận được cho là lấy Trung Quốc làm trung tâm của các học giả thời thuộc địa - và cũng chỉ trích các học giả chính thống ở Việt Nam đã không vượt ra ngoài mô hình đó bằng cách không nhận ra sự đóng góp của “Người Việt” vào cội nguồn của nền văn minh Đông Á. Tuy nhiên, như chúng ta cũng sẽ thấy dưới đây, khi lập luận rằng tổ tiên của người Việt là những người tạo lập nên nhiều bình diện khác nhau của nền văn minh Đông Á, thì việc này quả thực đã vượt xa quan điểm thời thuộc địa coi Việt Nam là một “Tiểu Trung Hoa”, và bằng chứng cho lập luận này là rất có vấn đề.
Như vậy, mặc dù “lịch sử biến thể” này không dựa trên bằng cứ đáng tin, nhưng nó được dựa vững chắc trên những động lực xã hội đương thời, và nó có thể phát triển một phần nhờ những động lực đó. Mặc dù một số tác giả được thảo luận trong bài viết này công khai chỉ trích các sử gia chính thống, có rất ít phản hồi từ các sử gia chuyên nghiệp. Có thể là các học giả chuyên nghiệp không thấy cần phải trả lời các nhà sử học không chuyên, nhưng thực tế là các tác giả được thảo luận trong bài viết này đang hoạt động tích cực trên Internet còn các nhà sử học chính thống thì không, tức là những ý tưởng mới này về tiền sử Việt Nam có khả năng tồn tại và ngày càng có vai trò trung tâm trong đời sống của người Việt Nam hiện nay. Như vậy, tôi đề cập đến câu chuyện về thời tiền sử Việt Nam mà các tác giả này đã tạo nên là “lịch sử bên rìa” để nóị rằng nó nổi lên bên ngoài thế giới của các nhà sử học chuyên nghiệp. Tuy nhiên, việc những quan niệm này được thảo luận ở những địa điểm trung tâm như Văn Miếu nói lên “tầm quan trọng” của “lịch sử bên rìa” này trong cuộc sống của một số người Việt Nam ngày nay.
Trong bài này, chúng tôi sẽ lần theo hành trình mà những ý tưởng tạo nên “lịch sử bên rìa” này được thực hiện. Đó là câu chuyện làm thế nào những ý tưởng từ “rìa” của sử học đã dần dần chiếm được vị trí “trung tâm” trong một số phân đoạn của xã hội Việt Nam ngày nay. Chúng tôi bắt đầu với các tác phẩm của Lương Kim Định.
LƯƠNG KIM ĐỊNH
Sinh năm 1914 tại tỉnh Nam Định, miền Bắc Việt Nam, Kim Định, như người ta thường gọi ông, trở thành một linh mục Công giáo và sau đó vào cuối những năm 1940, sang Pháp và lấy bằng triết học và Hán học (Sinology) vào thập kỷ tiếp theo ở đây. Sau đó Kim Định trở về Việt Nam và làm việc tại nhiều trường đại học ở miền Nam vào những năm 1960 và đầu 1970 trước khi chuyển đến Mỹ vào cuối chiến tranh. Trong thời kỳ Kim Định làm việc ở miền Nam Việt Nam, ông đã xuất bản nhiều (“Lương Kim Định” n.d.).
Những tác phẩm mà Kim Định viết không thật sự là lịch sử đúng nghĩa, nhưng nó chứa đựng rất nhiều thông tin lịch sử, và Kim Định đã tìm cách giáo dục bạn đọc của mình về quá khứ. Cái mà chính ông đã cố gắng tạo ra là một triết lý mới. Viết vào những năm 1960 và đầu 1970, Kim Định sợ rằng chủ nghĩa duy vật của phương Tây và chủ nghĩa Mác của miền Bắc Việt Nam có thể khuynh đảo cả xã hội miền Nam Việt Nam nếu một triết học thích hợp cho đất nước không được phát triển. Khi tạo ra một triết lý mới, Kim Định đã tìm cách tiếp thu logic phương Tây trong khi vẫn duy trì các khía cạnh của văn hóa truyền thống. Để đơn giản hóa một lập luận phức tạp được phát triển qua một loạt ấn phẩm, Kim Định làm điều này trước tiên bằng cách cho rằng văn hóa Đông Á chứa đựng những tư tưởng khoa học và logic. Ví dụ, ông lưu ý rằng những tư tưởng như vậy có thể được tìm thấy trong Kinh Dịch, một trong những văn bản cổ nhất ở Đông Á và là tác phẩm nền tảng cho triết học Đông Á.
Tư tưởng này mà người ta có thể tìm thấy logic trong Kinh Dịch lần đầu tiên được nhà giáo dục và cải cách tài danh Trung Quốc, Hồ Thích (Hu Shi), đề xướng vào đầu thế kỷ 20 và sau đó được nhiều trí thức ở Đông Á cổ vũ. Nhưng, Kim Định đã đưa ra một cách giải thích mới lạ cho cuộc thảo luận này bằng lập luận rằng Kinh Dịch đã được tổ tiên của người Việt làm ra. Để làm rõ điều này, Kim Định đã vận dụng một cách sáng tạo các khái niệm từ lĩnh vực nhân học cấu trúc mới để nói rằng các văn bản tiếng Việt cổ hơn đã tiết lộ một cấu trúc ý nghĩa lặp lại các khái niệm trong Kinh Dịch (Lương 1973). Không cung cấp bằng chứng, ông cũng biện luận rằng điều này là do tổ tiên của người Việt đã tạo ra Kinh Dịch, vì họ là những cư dân đầu tiên của lục địa Châu Á và rằng sau này người Hán Trung Quốc, “người chăn nuôi” đã đẩy “người trồng trọt” Việt Nam xuống phía nam cho đến khi họ đến đồng bằng sông Hồng. Trong quá trình này, người Trung Quốc đã chiếm đoạt Kinh Dịch và tuyên bố nó là của riêng họ và là một phần của truyền thống “Nho giáo” (Lương 1970: 51–63).
Trong khi vận dụng một cách sáng tạo những ý tưởng từ nhân học cấu trúc để đưa ra những lập luận như vậy, Kim Định cũng đã phát triển một khái niệm của riêng mình gọi là “huyền sử” (obscure history). Các ghi chép đầu tiên của Việt Nam về thời cổ không được ghi lại cho đến thế kỷ 15 sau CN và có thông tin mà các học giả thời cận đại coi là “vô lý” và các học giả thuộc địa Pháp cũng coi là “hoang đường”. Tuy nhiên, đối với Kim Định, những giải thích này thể hiện một kiểu “huyền sử” kết hợp cả sự cường điệu thơ ca với tư liệu lịch sử xác thực và từ đó sử gia có thể rút tỉa ra ý nghĩa (Lương 1970: 26–36).
Những quan niệm của Kim Định đã truyền cảm hứng cho một số người Việt Nam, nhưng chúng rất khó chứng minh bằng tư liệu, nhất là các lập luận của ông rằng tổ tiên của người Việt Nam là những người đầu tiên cư trú trên lục địa Châu Á, rằng họ là những người làm nông nghiệp trước người Hán, rằng họ đã tạo ra Kinh Dịch, và họ đã bị những người Hán chăn nuôi xâm lược đẩy về phía nam đến đồng bằng sông Hồng. Đây cũng là những vấn đề mà người Việt ở Việt Nam có lẽ không nghĩ đến nhiều sau năm 1975 vì sách Kim Định bị cấm cùng với nhiều tác phẩm khác được xuất bản ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục xuất bản ở Mỹ cho đến khi ông qua đời vào năm 1997, và người Việt Nam ở hải ngoại tiếp tục quen thuộc với luận giải của ông về tiền sử. Do đó, có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên rằng từ cộng đồng người hải ngoại một phiên bảncập nhật và “khoa học hơn” về cách giải thích của Kim Định về tiền sử vào đầu thế kỷ 21 đã xuất hiện. Người đề xuất phiên bản khoa học hơn của mô hình Kim Định là một người Việt nhập cư vào Úc tên Cung Đình Thanh.
TƯ TƯỞNG
Cung Đình Thanh sinh năm 1937 ở tỉnh Thái Bình, miền Bắc Việt Nam. Chắc ông phải di cư vào Nam Việt Nam năm 1954 sau Hiệp định Genève, vì tên ông xuất hiện trong danh sách những học sinh lấy bằng tú tài năm 1956 tại Sài Gòn (Công báo Việt Nam Cộng Hòa 1957)2. Sau đó, ông lấy bằng chuyên ngành luật và văn thư cũng như bằng hành chính và lãnh đạo của Đại học Connecticut. Khi trở về miền Nam Việt Nam, Cung Đình Thanh trở thành luật sư của Tòa phúc thẩm và cũng tham gia giảng dạy tại Học viện Hành chính Quốc gia. Sau đó, ông chuyển sang lĩnh vực giáo dục và văn hóa, làm quản lý một số trường học, biên tập tạp chí Phát triển Văn hóa, và tham gia vào các tổ chức văn hóa khác nhau. Khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, Cung Đình Thanh không còn tham gia tất cả các hoạt động trên. Năm 1989, ông di cư đến Úc, và từ ngôi nhà mới của mình ở New South Wales, ông dần trở lại hoạt động. Ông đã thành lập một tổ chức có tên là Phát triển văn hóa Quốc tế Việt Nam (Vietnam International Culture Development Inc.) nhằm thúc đẩy sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Con đường chính để thực hiện điều này là thông qua bản in và xuất bản trực tuyến của tạp chí Tư tưởng (Though) mà Cung Đình Thanh đã xuất bản từ năm 1999 cho đến khi ông qua đời năm 2006 (Who’s who in Vietnam 1974; “Cung Đình Thanh” n.d.).
Số đầu tiên của “Tư tưởng” có một “bức thư ngỏ” của Cung Đình Thanh với tiêu đề “Tiếng chim gọi đàn” (bird’s call to the flock). Cung Đình Thanh bắt đầu bài viết này bằng cách lưu ý rằng ông vui mừng khi thấy ý tưởng được thể hiện trên nhiều phương tiện truyền thông vào thời điểm đó rằng văn hóa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc lật đổ chủ nghĩa độc tài và giải phóng tư tưởng để mọi người có thể đóng góp hết sức mình vào việc phát triển quê hương. Không rõ Cung Đình Thanh đề cập đến những bản văn cụ thể nào, nhưng khi việc sử dụng Internet ngày càng phổ biến vào những năm 1990, chắc chắn là có nhiều thông tin hơn, ít nhất là giữa những người Việt Nam ở nước ngoài, và với việc Chiến tranh Lạnh kết thúc và Việt Nam mở cửa với thế giới bên ngoài, một trong những chủ đề được thảo luận rõ ràng là khả năng sự cai trị của Cộng sản ở Việt Nam có thể chấm dứt. Trong bài viết này, Cung Đình Thanh tuyên bố rằng ngày đó không còn xa, nhưng điều này đặt ra một vấn đề lớn là xã hội Việt Nam thiếu một thứ thay thế hiển nhiên cho hệ tư tưởng Mác xít. Vì vậy, “Tiếng chim gọi đàn” của Cung Đình Thanh là lời kêu gọi những người cùng chí hướng phát triển những ý tưởng có thể làm nền tảng cho một xã hội Việt Nam mới, một xã hội có thể phát triển mạnh mẽ trong thế giới toàn cầu hóa. Để làm được điều này, Cung Đình Thanh đề xuất cần viết một cuốn lịch sử tư tưởng Việt Nam, và ông đã trình bày một dàn ý của cuốn sách như vậy trong bài tiểu luận này. Tuy nhiên, ông nhận ra rằng sẽ mất nhiều thời gian để tạo ra một tác phẩm như vậy và ông kêu gọi độc giả của mình hỗ trợ bằng cách chia sẻ ý tưởng và học thuật của họ (Cung 1999a)3.
LÚA
Đàn nghe rõ tiếng gọi, vì số thứ hai của Thought có sự đóng góp của một độc giả dưới dạng bản dịch tiếng Việt của một bài báo mà nhà nhân chủng học người Mỹ Wilhelm “Bill” Solheim đã đăng trên National Geographic năm 1971 (Solheim 1999). Với tiêu đề “Ánh sáng mới về quá khứ bị lãng quên” (New Light on a Forgotten Past), điểm chính của bài viết này được tóm tắt cô đọng trong phần chú thích cho một trong những bức ảnh kèm theo trong đó nói rằng, “Tác giả, được những nhà tiền sử học khác ca ngợi là ‘Mr. Đông Nam Á’, đưa ra trong những trang này lý thuyết cách mạng của ông rằng người Đông Nam Á có thể là những người đầu tiên làm đồ gốm, mài và đánh bóng các công cụ bằng đá, trồng lúa và đúc đồng” (Solheim 1971: 331). Tuy nhiên, điều này không đúng. Nghiên cứu khảo cổ học sau đó đã chứng minh rằng “lý thuyết cách mạng” mà Solheim đề xuất này không chính xác, và vào cuối những năm 1970, các nhà khảo cổ học và nhà tiền sử học phương Tây đều nhận ra điều này.
Song, việc một học giả “quốc tế” đưa ra những tuyên bố “khoa học” chỉ ra rằng nông nghiệp “có lẽ” xuất hiện trước tiên ở Đông Nam Á là điều quan trọng đối với Cung Đình Thanh. Một điều cũng quan trọng đối với Cung Đình Thanh là, như chúng ta sẽ thấy trong thảo luận sau, việc Solheim sử dụng một thuật ngữ có liên quan đến Việt Nam, “Hoabinhian”, để gán cho những gì ông đề xuất là bằng chứng về các xã hội thời kỳ đầu ở Đông Nam Á. Về cơ bản những gì Cung Đình Thanh đã làm là kết hợp các tuyên bố khác nhau của Solheim để khẳng định rằng người Việt Nam là những người đầu tiên trồng lúa. Để hiểu ông ấy làm điều này như thế nào, trước tiên chúng ta cần hiểu được chính xác những gì một số nhà khảo cổ học đã khám phá ra vào những năm 1960 và chính xác những gì Solheim đã tuyên bố về phát hiện của họ.
Tuyên bố của Solheim trên National Geographic rằng Đông Nam Á có thể là nơi thực vật được thuần canh đầu tiên đã được nhà địa lý người Mỹ Carl O. Sauer nêu ra vào năm 1952 trong tác phẩm Nguồn gốc và sự phát tán nông nghiệp (Agricultural Origins and Dispersals) của ông. Sauer đưa ra giả thiết này dựa trên suy đoán hơn là bằng chứng khảo cổ. Chẳng hạn, ông đã tuyên bố:
Tôi đề xuất Đông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp sớm nhất. Nó đáp ứng các yêu cầu về tính đa dạng hữu cơ và vật lý cao, khí hậu ôn hòa với gió mùa đảo ngược tạo ra nhiều thời kỳ mưa và khô, nhiều nước cho phép đánh bắt cá, vị trí ở trung tâm của thế giới cổ cho việc liên lạc bằng đường thủy hoặc đường bộ. Không có khu vực nào khác có vị trí tốt hoặc được trang bị tốt cho sự phát triển của văn hóa đánh bắt và nuôi trồng như khu vực này” (Sauer 1952: 24–25).
Nói cách khác, Sauer lần đầu tiên đưa ra một mẫu khái niệm cho bối cảnh môi trường mà ông tin rằng nông nghiệp có thể được xuất hiện trước, sau đó ông tìm kiếm một địa điểm trên trái đất phù hợp với mô hình đó và tìm thấy Đông Nam Á. Ông không thực sự tìm thấy bằng chứng khảo cổ học ủng hộ ý kiến của mình.
Tuy nhiên, vào những năm 1960, hai học trò của Solheim, Chester Gorman và Donn Bayard, ban đầu nghi ngờ rằng họ có thể đã tìm thấy bằng chứng khảo cổ học như vậy ở Thái Lan khi họ điều tra hai địa điểm khảo cổ: Non Nok Tha ở đông bắc Thái Lan và Sprit Cave ở tây bắc Thái Lan. Tại Non Nok Tha, Bayard cho biết đã tìm thấy trấu (vỏ hạt thóc) mà ông tin phải có niên đại ít nhất là 3.500 năm trước CN (Bayard 1970: 135). Trong khi đó, tại Spirit Cave, Gorman tìm thấy tàn tích của những cây họ đậu mà ông cho rằng có thể đã được thuần canh chứ không phải thu thập, và có niên đại khoảng 7.000 năm trước CN (Gorman 1969: 672).
Trong báo cáo về cuộc khai quật của mình, Gorman gọi địa điểm Spirit Cave là "Hoabinhian." Thuật ngữ “Hoabinhian” này xuất phát từ “Hòa Bình”, tên một tỉnh ở miền Bắc Việt Nam, nơi vào những năm 1920, nhà khảo cổ Madeleine Colani người Pháp đã phát hiện ra bằng chứng về việc cư trú của người cổ xưa. Đặc điểm quan trọng nhất của địa điểm khảo cổ này là dấu tích của các công cụ mảnh đá nhỏ “flaked stone tools” (Colani 1927). Sau đó, vào năm 1932, một cuộc họp của những người nghiên cứu tiền sử được tổ chức tại Hà Nội, thuật ngữ “Hoabinhian” được dùng để chỉ những nơi cư trú cổ xưa của con người được nhận biết bằng việc sử dụng các công cụ bằng mảnh đá nhỏ (Matthews 1966: 86). Một đặc điểm nổi bật khác của địa điểm Hòa Bình là không có bằng chứng về nông nghiệp, vì thế, thuật ngữ “Hoabinhian” sau đó được sử dụng để chỉ các địa điểm thuộc thời kỳ đồ đá giữa (Mesolithic), thời kỳ trung gian giữa đồ đá cũ (Paleolithic) và đồ đá mới (Neolithic) và kéo dài từ khoảng 15.000 đến 5.000 năm trước CN, thời kỳ mà con người vẫn gắn với việc săn bắn và hái lượm hơn là nông nghiệp.
Dấu vết cây đậu mà Gorman tìm thấy tại Spirit Cave, một địa điểm Hoabinhian cổ khác, cùng với các mẫu lúa mà Bayard tìm thấy ở Non Nok Tha, khiến Solheim đưa ra một số giả thuyết táo bạo. Trong bài báo của mình trên National Geographic năm 1971, Solheim nói rằng ông đồng ý “với Sauer rằng việc thuần canh thực vật đầu tiên trên thế giới được những người thuộc nền văn hóa Hoabinhian (một thuật ngữ Sauer chưa sử dụng) thực hiện, ở đâu đó ở Đông Nam Á”, và ông sẽ không ngạc nhiên khi thấy rằng “điều này đã bắt đầu sớm nhất là 15.000 năm trước CN” (Solheim 1971: 339). Solheim nói thêm rằng thay vì việc các thành tựu kỹ thuật đã di chuyển về phía nam vào Đông Nam Á trong quá khứ, như được nhiều người tin tưởng, điều ngược lại có thể xảy ra. Ông viết:
Việc tái tạo truyền thống của thời tiền sử Đông Nam Á đã có những cuộc di cư từ phía bắc mang những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến Đông Nam Á. Thay vào đó, tôi gợi ý rằng nền văn hóa đồ đá mới đầu tiên (tức là, cuối thời kỳ đồ đá) của miền Bắc Trung Quốc, được gọi là Yangshao, đã phát triển từ một tiểu văn hóa Hoabinhian di chuyển lên phía bắc từ bắc Đông Nam Á vào khoảng thiên niên kỷ thứ sáu hoặc thứ bảy trước Công nguyên (Solheim 1971: 339).
Cuối cùng, một năm sau, vào năm 1972, Solheim công bố một bài báo trên tạp chí Scientific American với tựa đề “Một cuộc cách mạng nông nghiệp sớm hơn”, trong đó ông tuyên bố rằng “Cuộc cách mạng nông nghiệp, được cho là xảy ra lần đầu tiên cách đây khoảng 10.000 năm trong các xã hội thời kỳ đồ đá mới đang nổi của khu vực Trung Đông, dường như đã đạt được một cách độc lập ở Đông Nam Á cách hàng ngàn dặm” (Solheim 1972: 34).
HÒA BÌNH
Mặc dù đây là những tuyên bố thú vị, cuối cùng chúng lại được chứng minh là sai. Như nhà khảo cổ học Miriam Stark đã lưu ý (2014) trong một chuyên luận tưởng nhớ Solheim, “Các cuộc điều tra thực địa tiếp theo - và các phân tích của các sinh viên và cộng sự thân cận của ông - không ủng hộ các tuyên bố của Bill rằng Đông Nam Á có nông nghiệp hoặc thực vật sớm nhất”. Thật vậy, vào cuối những năm 1970, các học giả khác nhau đã xác định rằng các mẫu lúa mà Gorman và Bayard tìm thấy là các giống lúa hoang, chứ không phải lúa trồng (Yen 1980; 1982). Ngày nay, sự đồng thuận về học thuật giữa các nhà tiền sử học trái ngược với những gì Solheim đề xuất, khi các chuyên gia lập luận rằng các công nghệ như trồng lúa và luyện kim đều di chuyển về phía nam vào Đông Nam Á (Castillo 2011; Higham et al. 2015).
Dù một số dự đoán táo bạo mà Solheim đưa ra không thành hiện thực, những tuyên bố của ông từ đầu những năm 1970 đã gây ấn tượng rõ ràng với Cung Đình Thanh khi ông ta công bố một bài báo vào năm 1999 trong số thứ tư trên tạp chí Tư tưởng, nơi ông sử dụng thông tin về những phát hiện ban đầu của Gorman và những phát biểu sau đó của Solheim để biện luận về sự tồn tại của nghề trồng lúa tại một địa điểm ở tỉnh Hòa Bình được gọi là Hang Xóm Trại. Không trích dẫn thông tin lấy ở đâu, Cung Đình Thanh khẳng định trong bài viết này rằng có những hạt thóc được tìm thấy ở Hang Xóm Trại giống với mẫu lúa mà Gorman đã tìm thấy ở Spirit Cave và điều Gorman đã đề xuất ban đầu cho thấy bằng chứng được thuần canh (một đề xuất, như chúng ta thấy, đã không còn được tin cậy vào cuối những năm 1970). Cung Đình Thanh nói rằng những mẫu thóc này ở Hang Xóm Trại có niên đại khoảng 3.500 năm trước CN. Sau đó, ông ngụ ý rằng có một truyền thống trồng lúa lâu đời hơn ở các địa điểm của Hoabinhian bằng cách trích dẫn bài báo trong National Geographic của Solheim: “Tôi đồng ý với [Carl O.] Sauer rằng việc thuần hóa thực vật đầu tiên trên thế giới được thực hiện bởi những người thuộc nền văn hóa Hoabinhian (một lần nữa, một thuật ngữ mà Sauer không sử dụng), ở đâu đó ở Đông Nam Á. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu điều này bắt đầu sớm nhất là 15.000 năm trước CN” (Cung 1999b; Solheim 1971: 339).
Nếu lúa được trồng ở Đông Nam Á vào 15.000 năm trước CN, thì điều đó đã sớm hơn nhiều so với bằng chứng về việc trồng lúa ở Trung Quốc, và Cung Đình Thanh cố gắng chứng minh rằng đây là một kỹ thuật đã thực sự lan truyền từ thế giới Hoabinhian về phía bắc. Để đưa ra quan điểm này, Cung Đình Thanh trích dẫn các nghiên cứu về việc trồng lúa ở Trung Quốc đã được xuất bản vào những năm 1970 và đầu những năm 1980, chẳng hạn như một chương sách năm 1983 về nguồn gốc của việc trồng các loại ngũ cốc và cây họ đậu ở Trung Quốc của Zhang Deci (Trương Đức Từ - 張德慈). Là một nhà khoa học nông nghiệp và môi trường tại Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế ở Philippines, ông Trương đã làm việc với giả định rằng chi (Orzya) mà loài lúa hiện tại phát triển có nguồn gốc từ khu vực ngày nay là Nam Á, một giả thuyết đã bị thách thức bởi các nhà di truyền học, những người hiện cho rằng Orzya biến đổi ở nhiều địa điểm từ một tổ tiên hoang dã chung (Kovach và cộng sự 2007).
Trong chương sách năm 1983 của mình, cũng như trong một bài báo vào năm 1976, Trương đã thảo luận về các con đường khác mà theo ông hai tiểu loài lúa hoang của Orzya: Orzya sativa Japonica và Orzya sativa Indica, lan đến Trung Quốc. Đối với Orzya sativa Indica, Trương nói rằng họ hàng hoang dã của loài phụ này “... có thể được mang từ Đông Dương và phân tán dọc theo bờ biển đến tận [Hồ Bắc]” (Chang 1983: 72). Sau đó, ông nói rằng, “Quá trình thuần canh thực sự có lẽ lần đầu tiên diễn ra ở Trung Quốc” (Chang 1983: 73, xem thêm Chang 1976a: 143–145). Đây là một ý kiến mà Trương đã nêu ra trước đó, trong một bài báo vào năm 1976 rằng, “Các kỹ thuật văn hóa như sục bùn và cấy ghép lần đầu tiên được phát triển ở miền bắc và miền trung Trung Quốc và sau đó được truyền sang Đông Nam Á” (Chang 1976b: 425). Đây cũng là một ý kiến đã được chấp nhận rộng rãi vào những năm 1990 và được trình bày ngay cả trên các tạp chí nổi tiếng như Science (Normile 1997: 309).
Vì thế, Trương Đức Từ lập luận rằng các chủng lúa hoang đã lan vào Trung Quốc, chứ không phải là việc trồng lúa nước bắt đầu từ bên ngoài, rồi lan vào Trung Quốc. Tuy nhiên, điểm thứ hai này chính là những gì Cung Đình Thanh tuyên bố dựa trên việc đọc (sai) chương sách của Trương. Cung Đình Thanh làm điều này bằng cách đầu tiên thảo luận về tác phẩm của Trương, nhưng ông bỏ qua điểm quan trọng mà Trương đã viết về sự phát tán của lúa hoang hơn là trồng lúa nước. Khi làm như vậy, Cung Đình Thanh biến lập luận của Trương rằng lúa hoang phát tán về phía bắc từ Đông Dương đến lưu vực sông Dương Tử thành lập luận rằng thực hành trồng lúa nước lan rộng trên cùng khu vực đó. Trong quá trình này, Cung Đình Thanh cũng trích dẫn sai nghiên cứu của Trương và đưa thông tin lịch sử mới lạ vào. Để trích dẫn, Cung Đình Thanh nói rằng Trương Đức Từ “khẳng định rằng loại lúa này (Orzya sativa Indica) được đưa (đến Trung Quốc) từ Indonesia (thực ra, Trương nói là 'Indochina') và nó được phát triển dọc theo bờ biển từ Hà Bắc (thực ra, Trương đã đề cập đến 'Hồ Bắc') đến khu vực phía nam sông Dương Tử xung quanh Thượng Hải, đi qua tuyến đường quan trọng của tỉnh Chiết Giang, nơi mà sau này, trong thời Chiến quốc, là nơi Vương quốc Yue (Việt) dưới thời vua Câu Tiễn đã được định vị.” Cung Đình Thanh tiếp tục nói rằng, “Như đã trình bày ở trên, một trong những trung tâm trồng lúa nước sớm nhất của loài người là Hòa Bình, ngày nay thuộc Việt Nam. Nghề trồng lúa nước do đó đã có mặt ở vùng này cách đây 10.000 năm” (Cung 1999b).
Kết luận mà Cung Đình Thanh đưa ra này, không dựa trên bằng chứng. Vào thời điểm ông viết bài báo của mình năm 1999, những suy đoán của Gorman và Solheim về việc thuần canh thực vật sớm ở Đông Nam Á đã bị mất tin cậy từ lâu, và Cung Đình Thanh chỉ đơn giản là hiểu sai sự thật rằng Trương Đức Từ đã nói về sự lan truyền của lúa hoang về phía bắc trong quá khứ hơn là thuần canh lúa nước. Thay vào đó, điều Cung Đình Thanh làm trong bài viết này là kết hợp một lập luận dựa trên mối liên hệ giữa một số tên cụ thể và các tuyên bố xuất hiện trong các bài viết mà ông trích dẫn, hơn là bằng chứng cứ học thuật có thật.
Cụ thể hơn, điều quan trọng đối với Cung Đình Thanh là Gorman đã tìm thấy hạt lúa ở Spirit Cave, Solheim nói rằng thực vật trong vùng có thể đã được thuần canh sớm nhất là 15.000 Trước CN, mà cả Gorman và Solheim đều sử dụng thuật ngữ “Hoabinhian”, và Trương Đức Từ đã khẳng định một con đường mà lúa lan truyền đến Trung Quốc là theo hướng bắc dọc theo bờ biển từ Đông Dương. Điều không quan trọng đối với Cung Đình Thanh là những hạt lúa mà Gorman tìm thấy hóa ra là dại chứ không phải được thuần canh, rằng giả thuyết của Solheim không bao giờ được chứng minh là đúng, rằng Gorman và Solheim đã dùng thuật ngữ “Hoabinhian” để chỉ các địa điểm ở Thái Lan, chứ không phải ở tỉnh Hòa Bình, Việt Nam, và Trương Đức Từ đã đề cập đến sự lan truyền về phía bắc của lúa hoang, chứ không phải lúa nước thuần canh. Nói cách khác, bằng cách tập trung vào những từ ngữ và các tuyên bố nhất định, Cung Đình Thanh đã tạo ra một lập luận rằng lúa đã được trồng ở Hòa Bình từ 10.000 năm trước và sau đó đã phát tán về phía bắc đến đồng bằng sông Dương Tử.
Điều quan trọng ở đây là cách mà Cung Đình Thanh chuyển đổi thuật ngữ “Hoabinhian”, một thuật ngữ được các học giả quốc tế sử dụng theo nghĩa chung chung, thành cụ thể hơn và thuộc về trung tâm Việt Nam hơn, chỉ Hòa Bình. Như đã đề cập ở trên, “Hoabinhian” là một thuật ngữ được quốc tế chấp nhận để chỉ các tàn tích vật chất của những người săn bắn hái lượm thời Đồ đá giữa (Mesolithic), những người sử dụng dụng cụ làm bằng mảnh đá nhỏ và những người sinh sống trong một khu vực địa lý kéo dài từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ngày nay đến đảo Sumatra của Indonesia. Hơn nữa, việc một số vật thể được dán nhãn “Hoabinhian” đơn thuần là vì những mẫu vật đầu tiên của công cụ mảnh đá nhỏ tiêu biểu cho nền văn hóa khảo cổ học này đã được tìm thấy ở tỉnh Hòa Bình, Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học quốc tế chưa bao giờ xác định được một “trung tâm” hay “nơi phát sinh” của văn hóa Hoabinhian. Tuy nhiên, Cung Đình Thanh đã coi tỉnh Hòa Bình ở Việt Nam là trung tâm của mọi thứ thuộc Hoabinhian mà các học giả quốc tế đề cập đến bất kể nơi nào ở Đông Nam Á mà họ nói đến. Làm như vậy, Cung Đình Thanh không chỉ tin rằng cây lúa nước đã có mặt ở Hòa Bình từ 10.000 năm trước, mà điều này có nghĩa là Hòa Bình có thể là “một trong ba cái nôi trồng trọt trên thế giới”, cùng với Nam Mỹ và Trung Đông, trong đó Nam Mỹ cung cấp cho thế giới sắn, Trung Đông, lúa mì và Hòa Bình, lúa nước (Cung 1999b). Quan điểm coi Hòa Bình là một trung tâm văn minh là điều mà các học giả nói đến dưới đây cũng có.
Vì thế Cung Đình Thanh coi Hòa Bình không chỉ là trung tâm của thế giới Hoabinhian cổ đại, mà còn là nơi khai sinh ra nghề trồng lúa nước. Sau khi xác lập “sự thật” này qua việc đọc một cách sáng tạo các tác phẩm của các học giả quốc tế, Cung Đình Thanh sau đó đã tìm cách giải thích những yếu tố lịch sử nào đã giúp kiến thức trồng lúa nước lan truyền từ Hòa Bình đến những nơi xa xôi như đồng bằng sông Dương Tử. Ông làm điều này trong một bài báo khác trong số thứ ba của Tư tưởng, trong đó ông tìm cách gắn kết việc thuần hóa thực vật ở Hòa Bình và sự di cư lên phía bắc của những người rời khỏi khu vực đó với trường hợp mực nước biển dâng trong quá khứ. Cụ thể, ông lập luận rằng có một xu hướng chung của con người là đi về vùng đất thấp và hướng ra biển. Vì vậy, ông cho rằng từ 30.000 năm trước, người Việt cổ đã sinh sống ở vùng đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, sau đó, mực nước biển bắt đầu dâng từ 20.000 đến 17.000 năm trước vào thời kỳ cuối thời đại băng hà. Cung Đình Thanh lập luận rằng điều này đã đẩy người Việt cổ trở lại vùng đồi và chân núi, nơi họ buộc phải bắt đầu tham gia vào việc trồng cây. Ông nói rằng điều này đã dẫn đến sự xuất hiện của văn hóa Hòa Bình. Cung Đình Thanh cũng lập luận rằng mực nước biển dâng cao đã buộc người dân vào khoảng 8.000 năm trước CN phải di cư ra xa hơn nữa, và đây là nguyên nhân dẫn đến sự lan rộng của nghề trồng lúa nước đến các nơi ở Thái Lan và đồng bằng sông Dương Tử (Cung 1999c).
HỌC THUẬT QUỐC TẾ
Việc Cung Đình Thanh dựa vào học thuật của các học giả không phải người Việt Nam chỉ ra một khía cạnh quan trọng không chỉ trong các bài viết của ông mà còn của các học giả Việt Nam khác về cùng chủ đề này - sự tin tưởng vào quan niệm về tính ưu việt của “học thuật quốc tế”. Đây là điểm được thể hiện rõ ràng trong một bài báo đăng trên mạng năm 2001 về cùng chủ đề nông nghiệp ở Hòa Bình của Tiến sĩ y khoa Nguyễn Thị Thanh ở Canada. Sinh tại tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh lấy bằng y khoa tại Paris năm 1965. Bà giảng dạy một thời gian tại Đại học Moncton ở New Brunswick, Canada, nhưng sau đó trở về miền Nam Việt Nam lập nghiệp, mở phòng khám bệnh. Bà vẫn ở đó sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Một tiểu sử ngắn gọn trên Internet nói rằng sau đó bà đã bị bỏ tù ba năm vì chống lại chế độ tham nhũng. Cuối cùng, vào năm 1988, Nguyễn Thị Thanh di cư sang Canada và được cấp bằng sáng chế cho một phương pháp mà bà đã phát triển để điều trị ung thư và các bệnh nhiễm vi rút bằng thuốc diệt nấm (Vơ 2002).
Năm 2001, Nguyễn Thị Thanh đã đăng một bài báo có tên “Việt Nam, Trung tâm Nông nghiệp Lúa nước và Công nghiệp Đá lâu đời nhất Thế giới” trên một trang web do một tổ chức có tên là Thông tấn xã Công giáo Việt Nam (Vietnamese Catholic News Agency) chủ trì, mà vào thời điểm đó nằm ở Huntington Beach, California. Trong thảo luận của mình về quá khứ, Nguyễn Thị Thanh theo mô hình mà Lương Kim Định đặt ra hàng chục năm trước, đó là tưởng tượng tổ tiên của người Việt ban đầu sinh sống ở khu vực ngày nay là Trung Quốc và những người chăn nuôi Hán tộc sau đó đã di cư vào, xua đuổi tổ tiên của người Việt trở về phía nam, và tiếp thu kiến thức nông nghiệp của họ. Khi cho rằng tổ tiên của người Việt đã biết trồng cây, Nguyễn Thị Thanh, cũng như Cung Đình Thanh, trở lại các bài viết của Wilhelm Solheim, và dẫn một đoạn trích dài từ một bài báo năm 1967 trên tạp chí Science, nơi Solheim cũng đã nêu những gì các học giả "có thể" đi đến kết luận vào một ngày trong tương lai. Solheim đã viết:
Tôi nghĩ rằng rất có thể khi khôi phục thêm dữ liệu từ Đông Nam Á lục địa, chúng ta sẽ thấy rằng việc thuần canh thực vật đầu tiên trên thế giới đã được thực hiện bởi các dân tộc Hoabinhian vào khoảng 10.000 năm trước CN ... rằng miền bắc và trung Đông Nam Á Lục địa có nền văn hóa tiến bộ trong đó việc mài và đánh bóng đá đầu tiên ở châu Á, nếu không phải là thế giới, đã phát triển và đồ gốm đã được phát minh; rằng việc thuần canh thực vật đầu tiên này, như gợi ý của Sauer, không chỉ cung cấp ý tưởng về nông nghiệp cho phương Tây (và sau đó là một số loại cây cho Ấn Độ và Châu Phi) mà Đông Nam Á Lục địa tiếp tục là khu vực phát triển ở Viễn Đông cho đến khi Trung Quốc tiếp quản đà này trong nửa đầu thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên (Solheim 1967: 889).
Ngoài nghiên cứu của Sauer, Solheim còn đề cập đến công việc của các học giả khác trong bài báo này trên tạp chí Science mà ông khẳng định tầm quan trọng của Đông Nam Á như một nguồn tiềm năng của nông nghiệp thế giới. Tuy nhiên, khi làm như vậy Solheim nêu bật những điểm phù hợp với lập luận của mình và không đề cập đến những thông tin không phù hợp. Ví dụ, ông nói rằng nhà thực vật học Liên Xô Nikolai Ivanovich Vavilov “dường như là nguồn chính trình bày tính ưu việt của Đông Nam Á về nguồn gốc của nhiều loại cây trồng” (Solheim 1967: 898). Mặc dù sự thực là Vavilov lập luận rằng một số loài thực vật đã được thuần canh ở Đông Nam Á và liệt kê một số ví dụ từ Đông Nam Á hải đảo chứ không phải từ lục địa, ông cho rằng Trung Quốc là “trung tâm độc lập sớm nhất và lớn nhất của nền nông nghiệp thế giới và là cội nguồn của cây trồng” (Vavilov 1951: 21, 28–30). Ông cũng lưu ý rằng Trung Quốc đứng sau Ấn Độ về số lượng các loài thuần hóa được du nhập vào đó, nhưng Ấn Độ đặc biệt quan trọng vì “Ấn Độ chắc chắn là nơi sản sinh ra cây lúa” (Vavilov 1951: 29).
Solheim cũng đề cập trong bài báo này công trình của Trương Quang Trực (Zhang Guangzhi - 張光直), một nhà khảo cổ học, lập luận rằng bằng chứng về việc đốt rừng ở Đài Loan khoảng 11.000 năm trước đây có lẽ là vì mục đích đốt nương làm rẫy, và con người thời đó có thể đã trồng trọt lấy củ và quả. Trương cũng xác định một loại đồ gốm trong khoảng thời gian đó mà ông gọi là “Đồ gốm có sọc” (Corded Ware), vì nó được đánh dấu bằng các sọc (Chang 1972: 63). Solheim liên hệ đồ gốm này với một loại đồ gốm có sọc được tìm thấy ở một số địa điểm của Hoabinhian và nói rằng, “Đi liền với đồ gốm này và các công cụ bằng đá - công cụ một mặt điển hình của người Hoabinhian được dùng như một chiếc cuốc cầm tay tốt - là rất nhiều vỏ sò tươi hoặc vỏ hến. . . và xương động vật.” Sau đó, ông đi đến kết luận: “Như vậy, chúng ta có một nền văn hóa săn bắn-hái lượm với những công cụ tốt để làm đất, một tình huống đầy hứa hẹn cho việc thuần canh các loại cây có củ” (Solheim 1967: 898).
Mặc dù tình hình tại các địa điểm Hoabinhian thực sự có thể hứa hẹn cho việc thuần canh các loại cây lấy củ, cả Solheim lẫn bất cứ học giả nào khác đều không thực sự cung cấp bằng chứng về nông nghiệp Hoabinhian. Tuy nhiên, Nguyễn Thị Thanh nói rằng Sauer, Solheim, Chang và Vavilov đều công nhận rằng “Đông Nam Á, với Việt Nam dẫn đầu, có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm, và đó là nền văn hóa tiên tiến, nhanh chóng, sáng tạo và sôi động chưa từng được chứng kiến ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới ”(Nguyễn 2001). Sau đó, bà nói cụ thể hơn về Hòa Bình:
Dựa trên khảo cổ học, mọi bí mật của thời tiền sử đã được tiết lộ. Và thế giới đã công nhận Việt Nam, tượng trưng là nền văn hóa Hòa Bình, một cái tên đã được quốc tế hóa (Encyclopédie d’Archéologie) và được thế giới khẳng định là nơi có nền nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá sớm nhất thế giới (Nguyễn 2001).
Nói cách khác, đối với Nguyễn Thị Thanh, các học giả quốc tế là trọng tài cuối cùng của sự thật, và về cơ bản bà tìm cách khiến người Việt Nam xấu hổ khi không nhận ra điều mà các học giả quốc tế đã công nhận từ lâu. Dĩ nhiên, vấn đề ở đây là vào thời điểm Nguyễn Thị Thanh viết bài báo của mình, các học giả quốc tế đã xác định từ lâu rằng những suy đoán của Solheim và những người khác trong những năm 1950 và 1960 là không đúng. Do vậy, có sự mâu thuẫn trong việc đồng thời chỉ dựa vào chuyên môn của các học giả quốc tế và bỏ qua kiến thức chuyên môn (cập nhật) của các học giả quốc tế. Tuy nhiên, mâu thuẫn đó rõ ràng có thể chấp nhận được đối với Nguyễn Thị Thanh và những người khác vì họ muốn khắc họa một quá khứ huy hoàng cho người Việt Nam.
DI TRUYỀN HỌC
Trong ấn phẩm Tư tưởng tháng 4 năm 2000, Cung Đình Thanh và đồng nghiệp, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp, đã giới thiệu với độc giả một chủ đề mới thú vị - những hiểu biết mà khoa học di truyền đã cung cấp trong nghiên cứu về sự tiến hóa và di cư của con người. Lúc đó, Nguyễn Đức Hiệp đang là nhà khoa học khí quyển ở New South Wales, Australia. Sinh tại Việt Nam, Nguyễn Đức Hiệp sang Úc vào năm 1974 để học tập và nhận bằng tiến sĩ kỹ thuật tại Đại học Tây Úc năm 1978 và một bằng tiến sĩ khác về kỹ thuật điện tại Đại học Sydney năm 1985 (Nguyễn 2016; “Nguyễn Đức Hiệp” nd). Trong ấn phẩm Tư tưởng tháng 4 năm 2000, Nguyễn Đức Hiệp lưu ý rằng có một số khám phá nhất định có thể thay đổi đáng kể sự hiểu biết của chúng ta về quá khứ, chẳng hạn như vào thế kỷ 19, nhà Đông phương học James Princep đã giải mã các sắc lệnh vốn được viết vào thế kỷ thứ ba trước CN của hoàng đế Ashoka, từ đó đưa ra ánh sáng một chương lịch sử Ấn Độ chưa từng được biết đến trước đây. Nguyễn Đức Hiệp lập luận, đây chính là những gì khoa học di truyền hiện đang làm cho lịch sử di cư cổ xưa của con người (Nguyễn 2000).
Trong bài viết của mình, Nguyễn Đức Hiệp đã giới thiệu với độc giả một cách ngắn gọn về công trình của L. Luca Cavalli-Sforza, một nhà khoa học di truyền tại Đại học Stanford, người đã xuất bản một cuốn sách và nhiều bài báo khác nhau vào những năm 1990, tiết lộ những gì khoa học di truyền có thể cho chúng ta biết về sự tiến hóa của con người và định cư trên trái đất (Cavalli-Sforza 1997, 1998; Cavalli-Sforza et al. 1994). Vào những năm 1990, có hai lý thuyết chính liên quan đến sự tiến hóa của con người. Một cho rằng Homo Erectus (người đứng thẳng)đã di cư ra khỏi châu Phi khoảng một triệu năm trước và sau đó tiến hóa độc lập thành Homo Sapiens ở các địa điểm khác nhau. Sự hỗ trợ chính cho lý thuyết này đến từ lĩnh vực khảo cổ học. Tuy nhiên, trong suốt những năm 1990, lý thuyết này đã mất tính thuyết phục khi các học giả như Cavalli-Sforza chứng minh rằng khoa học di truyền đã cung cấp bằng chứng là những người bên ngoài lục địa châu Phi ngày nay đều là hậu duệ của một nhóm nhỏ người Homo Sapiens đã di cư ra khỏi châu Phi vào khoảng 70.000 năm trước. Bằng chứng di truyền này đã ủng hộ lý thuyết chính khác về sự di cư của con người, lập luận rằng người Homo sapiens tiến hóa ở châu Phi trước tiên và sau đó di cư đến phần còn lại của thế giới, nơi cuối cùng chúng thay thế hậu duệ của những người Homo erectus di cư trước đó.
Mặc dù thông tin di truyền này thuyết phục nhiều người, vẫn có những học giả ở Trung Quốc tiếp tục tranh luận rằng con người hiện đại đã tiến hóa độc lập ở Trung Quốc. Đáp lại tuyên bố đó, một nhóm các nhà di truyền học do J. Y. Chu dẫn đầu đã kiểm tra giả thuyết này bằng cách kiểm tra bằng chứng DNA từ một số dân cư, chủ yếu là người thiểu số, ở Trung Quốc. Chu và các đồng nghiệp của ông đặc biệt quan tâm xem liệu có sự phân biệt giữa những người ở miền bắc và miền nam Trung Quốc, và nếu có, thông tin này có thể làm sáng tỏ các mô hình di cư cổ đại hay không. Kết quả nghiên cứu của họ được công bố vào năm 1998 (Chu và cộng sự) và Nguyễn Đức Hiệp đã dành phần lớn bài báo của mình để thảo luận về nghiên cứu này.
Chu và các đồng nghiệp của ông kết luận rằng “các cư dân ở Đông Á phải chịu sự đóng góp di truyền từ nhiều nguồn: Đông Nam Á, Altaic từ Đông Bắc Á, và giữa Châu Á hoặc Châu Âu”. Song, họ không thể xác định “đóng góp tương đối từ mỗi nguồn” vì bộ dữ liệu phần lớn đến từ các nhóm dân tộc thiểu số và do đó không đại diện đầy đủ cho toàn bộ dân cư Trung Quốc. Tuy nhiên, họ đã nhận ra sự khác biệt giữa các nhóm dân cư miền bắc và miền nam Trung Quốc, và lập luận rằng “các nhóm dân cư miền nam Đông Á có thể có nguồn gốc từ các nhóm dân cư Đông Nam Á ban đầu di cư từ châu Phi, có thể qua Trung Á và các nhóm dân cư miền bắc bị ảnh hưởng di truyền mạnh mẽ từ các nhóm dân cư Altaic từ phía bắc.” Dù Chu và các đồng nghiệp của ông không thể xác định liệu các nhóm dân cư Altaic đã di cư vào hay có nguồn gốc trong khu vực hay không, qua kiểm tra bằng chứng di truyền của họ cùng với thông tin từ các nghiên cứu khác nhau về các đặc điểm răng và sọ của các nhóm dân cư trong khu vực, họ kết luận rằng “dường như có khả năng tổ tiên của các nhóm dân cư nói tiếng Altaic có nguồn gốc từ một nhóm dân cư Đông Á ban đầu có nguồn gốc từ Đông Nam Á, mặc dù không thể phủ nhận các nhóm dân cư nói tiếng Altaic hiện tại đã kết hợp với những người đến sau từ Trung Á và châu Âu.” (Chu et al. 1998: 11767).
LỊCH SỬ KHOA HỌC MỚI
Khi trình bày thông tin này, Nguyễn Đức Hiệp đã đưa ra nhận định rằng Hòa Bình thực sự là một trong những địa điểm khảo cổ học lâu đời nhất ở Đông Nam Á, rằng “Vì vậy, có bằng chứng xác thực và là một cơ sở [hỗ trợ cho ý kiến cho rằng] người Hòa Bình đã di cư về phía bắc và là tổ tiên của người Đông Á” (2000). Sau khi nêu quan điểm này, Nguyễn Đức Hiệp đã trích dẫn một số bài báo của Cung Đình Thanh đã đăng trên các số báo Tư tưởng trước đó đã tranh luận về quan điểm này. Trong khi đó, cũng trong số Tư tưởng này, Cung Đình Thanh đã đưa thông tin di truyền mới này vào lược đồ tiền sử của riêng mình trong một bài báo có tựa đề “Dựa trên những tiến bộ trong di truyền (DNA), có lẽ đã đến lúc chúng ta có thể khẳng định nguồn gốc của người Việt?” (Cung 2000).
Trong bài viết này, Cung Đình Thanh chỉ ra rằng các nghiên cứu trước đây về nguồn gốc của người Việt đã dựa vào hoặc là dấu tích văn bản hoặc các bộ xương. Trong thời kỳ thuộc địa, có những học giả người Pháp đã phiên dịch các văn bản cổ của Trung Quốc để lập luận rằng người Việt đã di cư về phía nam trong lịch sử đồng bằng sông Hồng từ các khu vực ở Trung Quốc, và có những học giả Việt Nam cũng đã theo cách giải thích này. Trong thời kỳ thuộc địa, cũng có những nhà khảo cổ học người Pháp ban đầu đã tìm cách xác định chủng tộc của những cư dân đầu tiên trong khu vực dựa trên việc khám nghiệm những chiếc sọ được khai quật tại các địa điểm khảo cổ. Đây là một thực tế mà các học giả Việt Nam tiếp tục thực hiện trong những năm 1980, và dù các học giả khác nhau đưa ra các giả thuyết khác nhau, nhìn chung tất cả họ đều có quan niệm rằng người Việt Nam là sản phẩm của một sự pha trộn có mức độ giữa các chủng tộc đã diễn ra trong khu vực vào thời cổ đại, chẳng hạn như giữa "Indonesiens" từ hải đảo và " Mongoloids" từ phía bắc.
Cung Đình Thanh thừa nhận rằng từ lâu ông đã cố gắng tìm hiểu quá khứ qua những cách tiếp cận này nhưng di truyền học hiện nay đã chứng minh rằng cả hai cách đó đều không đúng, vì cả hai đều cho rằng có một số dân cư phương Bắc ảnh hưởng đến người Việt, trong khi đó các bằng chứng di truyền cho thấy ngược lại rằng những người từ Đông Nam Á di cư lên phía bắc. Ngoài ra, Cung Đình Thanh nói rằng những người di cư lên phía bắc là thành viên của văn hóa Hòa Bình và họ có thể đã di cư lên phía bắc chủ yếu từ chính khu vực Hòa Bình ở miền Bắc Việt Nam, và họ chắc chắn đã góp phần vào việc tạo nên đất nước Trung Hoa (Cung 2000).
Vào lúc Cung Đình Thanh viết bài báo này, các nhà khoa học di truyền vẫn chưa xác định được chính xác thời gian diễn ra cuộc di cư về phía bắc của con người vào Đông Á. Trong một bài báo vào cuối năm 1999, một nhóm các nhà khoa học di truyền, trong đó có cả J.Y. Chu, đã lập luận đơn giản rằng “sự xâm nhập đầu tiên của con người hiện đại vào phần phía nam của Đông Á là khoảng ~ 60.000 năm trước, tiếp theo là một cuộc di cư lên phía bắc trùng với các sông băng rút vào khu vực đó” (Bing và cộng sự 1999: 1723). Tuy nhiên, các nghiên cứu sau đó đã đề cập đến vấn đề niên đại của cuộc di cư phía bắc đó. Ví dụ, vào năm 2005, một nhóm các học giả di truyền đã xác định sự di cư về phía bắc của những người đầu tiên vào Đông Á vào khoảng ∼25.000 –30.000 năm trước, tức là trước thời kỳ Hoabinhian, và rất lâu trước khi thuần canh thực vật (Hong et al. . 2008). Trong khi đó, vào năm 2008, một nghiên cứu khác đã xác định một cuộc di cư sớm hơn về phía bắc của những người đầu tiên vào Đông Á bắt đầu vào khoảng 60.000 năm trước (Hong et al. 2008). Phát hiện này có vẻ phù hợp với kết quả của một nghiên cứu từ năm 2011, kết luận rằng Đông Nam Á có hai sự phân tán chính, sự phân tán thứ hai dẫn đến sự định cư của Đông Á (Reich và cộng sự 2011).
Bức tranh hiện đang nổi lên là những người đầu tiên đến Đông Nam Á trong hai luồng phân tán và hai cuộc di cư về phía bắc vào Đông Á. Những sự kiện này xảy ra trước khi có bằng chứng về nền văn hóa Hoabinhian, và rất lâu trước khi có bất kỳ bằng chứng nào về việc thuần canh thực vật hoặc nông nghiệp ở Đông Nam Á. Cuối cùng, hai cuộc di cư rất sớm về phía bắc này cuối cùng được theo sau bởi một cuộc di chuyển về phía nam muộn hơn nhiều của những người mà ngày nay chúng ta gọi là “người Hán” trong hơn hai thiên niên kỷ qua từ các khu vực mà ngày nay là miền bắc Trung Quốc đến các khu vực ở phía nam của Sông Dương Tử (Wen et al. 2004).
Như vậy, có hai sai lầm rất cơ bản trong lập luận của Cung Đình Thanh. Thứ nhất là dù Solheim đưa ra giả thuyết rằng “việc thuần canh thực vật đầu tiên trên thế giới được thực hiện bởi những người thuộc nền văn hóa Hoabinhian, ở một nơi nào đó ở Đông Nam Á,” điều này không được chứng minh là đúng, và đã rõ ràng vào thời điểm mà Cung Đình Thanh viết. Sai lầm thứ hai là bằng chứng di truyền cho sự định cư của người Đông Á chứng tỏ rằng con người đã di cư vào Đông Á từ rất lâu trước khi có bằng chứng về văn hóa Hoabinhian và rất lâu trước khi có bằng chứng về sự thuần canh thực vật và nông nghiệp ở Đông Nam Á, và do đó, những người di cư này không thể đến từ thế giới văn hóa Hoabinhian, như Cung Đình Thanh tưởng tượng. Điểm thứ hai này có thể không được rõ ràng vào thời điểm mà Cung Đình Thanh viết, nhưng hiện tại là như vậy, và như chúng ta sẽ thấy bên dưới, những ý kiến của Cung Đình Thanh hiện đang được một tác giả ở Việt Nam quảng bá. Điều đó nói lên rằng, Cung Đình Thanh hình dung rõ ràng rằng ông đang trong quá trình tạo ra một lịch sử mới và khoa học hơn về người Việt, và ông tuyên bố rằng “Chúng tôi nhận thấy rằng đã đến lúc chúng ta phải đánh giá lại những lý thuyết trước đây về nguồn gốc của người Việt để đưa chúng đến với những tiến bộ khoa học hiện nay” (Cung 2000).
VƯỜN ĐỊA ĐÀNG Ở PHƯƠNG ĐÔNG
Không lâu trước khi Cung Đình Thanh bắt đầu công bố các bài viết của mình về tiền sử, Stephen Oppenheimer, một bác sĩ nhi khoa người Anh với nhiều năm kinh nghiệm làm việc tại Đông Nam Á, đã xuất bản cuốn sách mang tên Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia (1998), với những gì Cung Đình Thanh sẽ viết. Trong công trình này, Oppenheimer cho rằng Đông Nam Á, chứ không phải Trung Đông hay Trung Quốc, là “cái nôi của nền văn minh” sớm nhất. Ông lập luận rằng cuộc Cách mạng Đồ đá mới (Neolithic Revolution) lần đầu tiên diễn ra ở đó, và chính từ đó mà kiến thức về nông nghiệp được lan truyền đến những nơi khác trên thế giới. Cuối cùng, Oppenheimer cho rằng bằng chứng cho cái nôi văn minh Đông Nam Á này phần lớn đã biến mất khi lãnh thổ nơi nền văn minh này được cho là xuất hiện, thềm lục địa Sunda, bị nhấn chìm vào thời kỳ cuối kỷ băng hà. Tuy nhiên, Oppenheimer chỉ ra nhiều dấu vết của bằng chứng từ nhiều lĩnh vực khác nhau, từ khảo cổ học và ngôn ngữ học đến địa chất và thần thoại mà ông biện luận ủng hộ nghiên cứu của mình.
Viết về Đông Nam Á, Oppenheimer chủ yếu tập trung vào thế giới hải đảo, và nói rất ít về Việt Nam. Lý thuyết nổi bật về tiền sử Đông Nam Á hải đảo là một nhóm cư dân nói ngôn ngữ Austronesian bắt đầu di cư vào khu vực này từ Đài Loan từ khoảng 5.000 năm trước. Luận điểm “ra khỏi Đài Loan” này cho rằng khi những dân tộc này di cư vào khu vực, họ đã mang vào việc trồng lúa và sản xuất một số loại đồ gốm, cùng với các tập quán khác (Bellwood 2004). Mặc dù đây là lý thuyết chính cho thời tiền sử của khu vực, Solheim (1996) đã đưa ra một giải thích thay thế cho sự phát tán của những người nói tiếng Austronesian, biện luận rằng họ xuất hiện trong khu vực và lan ra ngoài khu vực mà ngày nay là Đông Indonesia vào thời hậu kỳ của kỷ băng hà thông qua các mạng lưới buôn bán lâu đời.
Oppenheimer dựa trên lý thuyết của Solheim bằng cách lập luận rằng nông nghiệp xuất hiện trước hết ở Đông Nam Á và sau đó khi con người buộc phải di cư do mực nước biển dâng cao vào hậu kỳ của kỷ băng hà, họ không chỉ truyền bá bản thân và ngôn ngữ của họ mà còn cả kiến thức về nông nghiệp từ "cái nôi của nền văn minh" này. Tuy nhiên, bằng chứng mà Oppenheimer xây dựng lập luận này là cực kỳ mỏng và có vấn đề. Ví dụ, về sự tồn tại của nghề trồng lúa ở Đông Nam Á, Oppenheimer trích dẫn (1998: 68–69) một báo cáo về cuộc khai quật khảo cổ học một địa điểm hang động ở miền nam Thái Lan có đề cập đến “hạt lúa” được tìm thấy ở mức độ có niên đại vào khoảng 7.000-9.000 năm trước. Báo cáo đó không cho biết liệu những loại ngũ cốc đó là từ lúa thuần canh hay lúa dại, nhưng Oppenheimer lưu ý rằng “nếu” niên đại đó đúng với lúa thuần canh, thì rõ ràng là lúa đã được thuần canh độc lập ở Đông Nam Á (Oppenheimer 1998: 83).
Xây dựng một luận cứ dựa trên một giả thuyết là nguy hiểm và trong trường hợp này, nó đã được chứng minh là tai họa, vì bằng chứng sớm nhất về lúa thuần canh ở Thái Lan có niên đại từ 2.000–1.500 trước CN, và đó là giống lúa mà các học giả cho rằng đã được thuần canh đầu tiên trong khu vực thung lũng sông Dương Tử(Castillo 2011: 115–116). Tuy nhiên, việc chỉ đề cập đến khả năng lúa có thể được thuần canh lần đầu tiên ở Đông Nam Á cũng đủ khiến một số độc giả Việt kiều yêu thích cuốn sách của Oppenheimer. Địa đàng ở Phương Đông dường như đã được giới thiệu với bạn đọc tiếng Việt lần đầu tiên vào năm 2000 trên một tạp chí ở California có tên Thế kỷ 21 (Ngô Thế Vinh), tuy nhiên tôi không thể tìm thấy bài điểm sách này. Sau đó vào tháng 8 năm 2001, một bài nhận xét được xuất bản trên Tư tưởng, và được in lại vào tháng 12 trên Thế kỷ 21. Bài nhận xét này là của nhà dịch tễ học tên là Nguyễn Văn Tuấn. Sinh ra tại tỉnh Kiên Giang, miền Tây Nam Bộ của Việt Nam, Nguyễn Văn Tuấn rời đất nước vào năm 1981 với tư cách là một “thuyền nhân” và cuối cùng chuyển đến Úc để lấy bằng y khoa. Vào thời điểm viết bài điểm sách Địa đàng ở Phương Đông của Oppenheimer, Nguyễn Văn Tuấn là phó giáo sư dịch tễ học tại Đại học Bang Wright, Hoa Kỳ (“Nguyễn Văn Tuấn” n.d.).
Trong bài điểm sách Địa đàng ở Phương Đông, Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh điều mà ông coi là ba điểm chính của cuốn sách. Những điều này chứng tỏ rằng trong thời hậu kỳ kỷ băng hà, một khu vực rộng lớn ở Đông Nam Á hiện bị nhấn chìm đã từng nổi trên mặt nước biển, khoảng 9.000–10.000 năm trước, người dân ở khu vực này bắt đầu làm nông nghiệp và khi nước biển bắt đầu dâng với sự kết thúc của hậu kỳ kỷ băng hà cách đây khoảng 8.000 năm, người dân từ khu vực này đã phân tán về các hướng (Nguyễn 2001: 12). Hai điểm cuối cùng này đặc biệt quan trọng đối với Nguyễn Văn Tuấn vì ông liên hệ chúng với thời tiền sử của người Việt. Một lần nữa, mặc dù Oppenheimer không tập trung vào tiền sử của Việt Nam, nhưng Nguyễn Văn Tuấn cho rằng những phát hiện trong vườn Địa đàng ở phương Đông có thể hỗ trợ một cách nhìn mới về quá khứ của người Việt. Để trích dẫn, ông nói rằng nhờ cuốn sách của Oppenheimer:
Chúng ta có bằng chứng để khẳng định rằng trước khi tiếp xúc với người Hán đến từ phía bắc (Trung Quốc), tổ tiên chúng ta đã tạo ra một nền văn minh khá tinh vi, nếu không muốn nói là tinh vi nhất Đông Nam Á. . . Tổ tiên chúng ta đã phát triển và tận dụng kỹ thuật trồng lúa trước thời Hán, hoặc là những người đã dạy người Hán trồng lúa (không phải ngược lại). Và có thể tổ tiên chúng ta là tổ tiên của người Trung Quốc ngày nay. Đã đến lúc phải trả lại sự thật và vinh quang cho tổ tiên chúng ta (Nguyễn 2001: 14).
Sách của Oppenheimer không ủng hộ những khẳng định mà Nguyễn Văn Tuấn đưa ra ở đây, và có những người Việt đọc bài điểm sách của ông đã dễ dàng nhận ra điều đó. Một người đã làm điều này, tên là Nguyễn Quang Trọng sống ở Rouen, Pháp (2002). Trong một phản hồi chi tiết cho bài điểm sách của Nguyễn Văn Tuấn được đăng trên một tạp chí trực tuyến có trụ sở tại California, Nguyễn Quang Trọng đã tranh luận với lập luận của Nguyễn Văn Tuấn từng điểm một. Về vấn đề phát triển nông nghiệp ở Đông Nam Á, Nguyễn Quang Trọng lưu ý rằng ngay cả chính Oppenheimer cũng không thực sự khẳng định, vì ông biết rằng bằng chứng từ Thái Lan mà ông trích dẫn chưa được xác nhận. Ngoài ra, Nguyễn Quang Trọng cũng lưu ý rằng không có bằng chứng trực tiếp nào về nông nghiệp từng được tìm thấy ở các địa điểm Hoabinhian ở Việt Nam. Khẳng định của Nguyễn Văn Tuấn rằng “tổ tiên chúng ta” đã phát triển nông nghiệp và đã truyền dạy kỹ thuật đó cho người Hán, vì vậy không phải là một sự thật mà là một ví dụ về cảm giác tự tôn quá mức, Nguyễn Quang Trọng lập luận.
Một điểm quan trọng khác mà Nguyễn Quang Trọng đưa ra là thật sai lầm khi nghĩ con người trong thời kỳ sơ khai này là một phần của những nhóm được xác định rõ ràng và không thay đổi. Thay vào đó, ông tranh luận rằng ngay cả trong thời kỳ sơ khai này có một sự pha trộn rất lớn các tộc người. Đây chính là những gì các nghiên cứu di truyền và khảo cổ học gần đây đã tiết lộ. Dù luận điểm về Đài Loan vẫn chưa bị lật ngược, nó đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Điều mà các học giả có thể thấy là không phải những người nói tiếng Austronesian đã mang cả một “gói” thực hành Đồ đá mới làm sẵn vào Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Thay vào đó, một số kỹ thuật liên quan đến những người nói tiếng Austronesian có thể đã xuất hiện trong “các lĩnh vực tương tác” ở khu vực ngày nay là đông Indonesia và New Guinea (Anderson và O’Connor 2008: 3). Hơn nữa, không phải tất cả các cuộc di cư hoặc tiếp xúc của người Austronesian đều liên quan đến nông nghiệp. Ví dụ, đồ gốm, đồ tạo tác đã được dùng để lần theo dấu các cuộc di cư của người Austronesian, không nhất thiết phải luôn gắn liền với nông nghiệp (Spriggs 2011: 523). Cuối cùng, khoa học di truyền đang chứng minh rằng thay vì tưởng tượng một làn sóng người di cư tràn qua một khu vực, những người nói tiếng Austronesian đã pha trộn với các nhóm dân cư còn tồn tại vững chắc và chiếm ưu thế về số lượng trong khu vực (Soares et al. 2008). Nói cách khác, các học giả vẫn đồng ý rằng có những cuộc di cư vào khu vực từ phía bắc mang theo kiến thức nông nghiệp, tuy nhiên những cuộc di cư đó là một phần của quá trình di cư và tương tác vô cùng phức tạp và đa dạng của con người.
Như vậy, Địa đàng ở phương Đông đưa ra một số tuyên bố có vấn đề, và những quan niệm mà cuốn sách đã truyền cảm hứng cho Nguyễn Văn Tuấn khẳng định đơn giản là sai. Nhưng, Nguyễn Văn Tuấn không đơn độc khi coi cuốn sách này như một sự ủng hộ vững chắc cho một cái nhìn cụ thể về quá khứ mà ông muốn thúc đẩy. Năm 2005, bản dịch tiếng Việt sách của Oppenheimer được xuất bản tại Việt Nam. Bản dịch tiếng Việt này có phần giới thiệu của Nguyễn Văn Tuấn nhẹ nhàng hơn nhiều so với phần mở đầu trước đó của ông. Có lẽ Nguyễn Văn Tuấn nhận ra rằng mình đã thổi phồng tầm quan trọng của cuốn sách, nhưng nếu có, điều đó cũng không thành vấn đề vì bản dịch này ra đời cùng thời điểm người Việt ở Việt Nam bắt đầu viết về những vấn đề này. Những gì ban đầu là một cuộc thảo luận giữa những người Việt ở nước ngoài, nay đã thu hút sự chú ý của độc giả ở Việt Nam, cả trên mạng và qua in ấn.
HÀ VĂN THÙY
Trong khi có rất nhiều cá nhân ở Việt Nam bắt đầu thảo luận về vấn đề tiền sử này, thì một nhà văn đã đóng vai trò chủ đạo, một cựu nhà báo tên là Hà Văn Thùy. Sinh năm 1944 tại tỉnh Thái Bình, miền Bắc Việt Nam, Hà Văn Thùy tốt nghiệp đại học ngành sinh học năm 1967 tại Hà Nội. Vào những năm 1980, Hà Văn Thùy làm phóng viên ở tỉnh Kiên Giang, miền Tây Nam Bộ của Việt Nam. Cuối những năm 1980, ông vướng vào một vụ tranh chấp với chính quyền trong Hội Nhà báo, tổ chức mà tất cả các nhà báo phải là thành viên mới được làm việc, và cuối cùng bị khai trừ vào năm 1989 (“Hà Văn Thùy” n.d.). Tuy nhiên, việc kết thúc sự nghiệp báo chí chính thống của Hà Văn Thùy không dẫn đến việc ông chấm dứt viết lách, vì ông tiếp tục cho ra đời các bài viết về các chủ đề khác nhau, và năm 2005, ông chuyển sang chủ đề tiền sử.
Trong năm đó, Hà Văn Thùy đã đăng một bài báo trên một trang web tên là Talawas do một tác giả người Việt bất đồng chính kiến ở Đức, Phạm Thị Hoài, điều hành. Vào đầu những năm 2000, Talawas là diễn đàn đầu tiên cho các cuộc thảo luận phản biện trong giới trí thức Việt Nam. Nhiều người đóng góp và độc giả là người Việt Nam sống ở nước ngoài, tuy nhiên họ đến từ một nhóm dân cư ngày càng đa dạng ở hải ngoại. Một số họ đã ra đi vào cuối Chiến tranh Việt Nam, một số khác đã rời đi với tư cách thuyền nhân vào cuối những năm 1970 và 1980, số khác đến Liên Xô và Đông Âu trong Chiến tranh Lạnh và đã ở lại, và có người Việt Nam đang học tập ở nước ngoài. Cuối cùng, ngày càng nhiều trí thức từ Việt Nam đọc và tham gia Talawas khi việc sử dụng Internet được mở rộng trong nước và khi mọi người phát hiện ra cách vượt tường lửa để vào một số trang web.
Hà Văn Thùy bắt đầu bài viết của mình bằng cách bày tỏ mối quan tâm tương tự như của Cung Đình Thanh và Lương Kim Định, tức là nỗi sợ hãi về sự tồn vong của văn hóa Việt Nam. Ông lưu ý rằng trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, người ta lo sợ rằng văn hóa Việt Nam sẽ bị chiếm đoạt bởi các yếu tố từ các nền văn hóa ngoại lai và do đó chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị về sự cần thiết phải bảo tồn tinh hoa văn hóa Việt Nam. Nhưng, Hà Văn Thùy cho rằng càng nhiều người nói về chủ đề này thì các ý kiến càng trở nên phức tạp, đến mức cần phải xác định rõ dân tộc Việt Nam chính xác là ai và định nghĩa chính xác văn hóa Việt Nam là gì. Hà Văn Thùy thừa nhận mình không phải là một nhà sử học, nhưng là “một người có tinh thần trách nhiệm đối với nền văn hóa dân tộc”, ông mong muốn được chia sẻ ý kiến của mình với bạn đọc (Hà 2005).
Trong bài viết của mình, Hà Văn Thùy nhắc lại rất nhiều những gì Cung Đình Thanh, Nguyễn Đức Hiệp, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Thị Thanh đã viết, và ông cảm ơn các tác giả này và những tác giả khác trong phần ghi chú ở cuối bài viết. Đồng thời, ông cũng cố gắng vượt xa công trình của những tác giả này và nối kết chặt chẽ hơn nữa những ý kiến của họ với những quan điểm mà Lương Kim Định đã đưa ra trong những năm 1960 và đầu những năm 1970, cũng như những quan niệm về sự hình thành lịch sử của các chủng tộc mà một học giả Việt Nam tên là Nguyễn Đình Khoa đã đề xuất trong cuốn sách năm 1983 có tựa đề Nhân chủng học chủng tộc ở Đông Nam Á.
Lĩnh vực nhân học (anthropology) chỉ bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 1990 sau khi đất nước mở cửa giao lưu học thuật với các nước phương Tây và Nhật Bản. Trước những năm 1990, kiến thức nhân chủng học được tạo ra bởi các học giả trong hai lĩnh vực: dân tộc học (ethnology) và nhân chủng học (racial anthropology). Các học giả trong các lĩnh vực này tập trung vào việc phân loại các nhóm người, có thể là theo dân tộc hoặc chủng tộc. Những nỗ lực này bắt đầu từ công việc của các học giả Pháp trong thời kỳ thuộc địa nhưng chúng cũng phù hợp với học thuật mà các học giả Liên Xô tham gia. Nguyễn Đình Khoa đã dựa trên cơ sở công trình nghiên cứu nhân trắc học của các học giả Pháp và Liên Xô, cũng như nghiên cứu nhân trắc học của riêng ông để lập luận rằng ban đầu có hai chủng tộc người trên địa bàn Việt Nam: Austroloids và Mongoloids. Sự pha trộn giữa họ đã tạo ra các tiểu nhóm chủng tộc như Indonesia và Melanesiens, loại chủng tộc mà các học giả Pháp đã đề xuất lần đầu tiên trong thời kỳ thuộc địa và đã áp dụng cho các hộp sọ được tìm thấy trong các địa điểm khảo cổ học ban đầu. Sau đó, trong thời kỳ đồ đồng (Bronze Age), các nhân tố Austroloid giảm dần và các nhân tố Mongoloid trở nên thống trị, và đây là những gì chúng ta thấy ở người Việt (Nguyễn 1983: 106).
Hà Văn Thùy lấy những ý tưởng này và kết hợp chúng với những gì Lương Kim Định, Cung Đình Thanh và các cộng sự đã viết để tạo nên câu chuyện tiền sử như sau: Cư dân tiền sử ở Đông Nam Á gồm có hai chủng tộc chính: Mongoloids và Austroloids. Một nhóm người Mongoloids di cư lên phía bắc và trở thành "người Mông Cổ phương Bắc", một chủng tộc lớn mà từ đó người Hán nổi lên. Tại một thời điểm nào đó sau khi những người Mông Cổ này di cư lên phía Bắc, người Việt cũng làm như vậy. Những người Việt này, theo Hà Văn Thùy, là chủng Indonesian, tức là một phân nhóm chủng tộc được hình thành từ sự giao thoa giữa người Austroloids và Mongoloids. Họ cũng là những người đã sản sinh ra nền văn hóa Hoabinhian. Họ đã phát triển châu Á lục địa, nhưng sau đó bắt đầu từ khoảng 2.500 năm tước CN, người Hán bắt đầu đẩy người Việt xuống phía nam. Sự pha trộn cũng diễn ra, và vì thế khi người Việt cuối cùng trở về “quê hương” ở Việt Nam, yếu tố Mongoloid trong cấu trúc chủng tộc của họ đã tăng lên, nhưng yếu tố Indonesian trong cộng đồng người Hán di cư xuống phía nam sông Dương Tử cũng tăng lên dẫn đến sự xuất hiện của một tiểu loại chủng tộc "Southern Mongoloid".
Qua câu chuyện này, Hà Văn Thùy tìm cách giải thích chính xác người Việt Nam là ai. Ông dành ít thời gian hơn để thảo luận về văn hóa Việt Nam thực sự là gì, nhưng thực chất, ông đồng ý với Lương Kim Định rằng cái mà người ta gọi là “văn hóa Trung Hoa” thực sự do tổ tiên người Việt tạo ra. Trong khi Lương Kim Định đã tìm cách chứng minh điều này thông qua việc vận dụng sáng tạo lý thuyết nhân học cấu trúc và thông qua khái niệm lịch sử mù mờ của chính mình, thì Hà Văn Thùy lưu ý rằng những phát hiện khoa học di truyền của J.Y. Chu và các đồng nghiệp của ông đã chứng minh quan điểm mà Lương Kim Định tìm cách chứng minh: tổ tiên của người Việt sống ở đất Trung Quốc trước khi có người Trung Quốc, và như vậy họ là những người đã tạo ra nền tảng văn hóa cho cái mà sau này trở thành “Trung Quốc”.
Từ khi bước chân vào lĩnh vực này trên Talawasnăm 2005, Hà Văn Thùy đã tiếp tục viết về chủ đề này. Hơn nữa, các tác phẩm của ông đã sớm xuất hiện tại Việt Nam, cả trên báo in và trên các trang web trong nước. Năm 2006, ông xuất bản tại Hà Nội một phiên bản mở rộng của bài báo trên Talawas của mình có tựa đề Định vị lại Nguồn gốc Văn hóa Việt Nam. Tiếp theo là xuất bản Hành trình định vị lại nguồn gốc: Nghiên cứu và đối thoại năm 2008 và Tìm nguồn gốc thông qua khoa học di truyền năm 2011. Năm 2014 Hà Văn Thùy xuất bản hai tác phẩm tại Mỹ thông qua Amazon, cả hai đều đề cập đến chủ đề này ở một mức độ nào đó: Viết lại Lịch sử Trung Quốc (2014a), trong đó có phần giới thiệu của Nguyễn Đức Hiệp, và Sự phát triển lịch sử của văn hóa Việt Nam (2014b). Cuối cùng, vào năm 2016, nhà xuất bản của Hội Nhà văn, một cơ quan văn hóa chính thức, đã xuất bản Khám phá lịch sử Trung Quốc (2016a) và Đóng góp vào việc tiếp nhận lịch sử văn hóa Việt Nam (2016b). Trong khi đó, ngoài một loạt ấn phẩm này, Hà Văn Thùy còn viết rất nhiều trên Internet, nhắc lại quan điểm của mình ở hầu hết mọi cơ hội và thách thức tất cả những ai đưa ra quan điểm khác về quá khứ, từ cố GS Phan Huy Lê (2017), nhà sử học hàng đầu ở Việt Nam, đến bản thân tôi (2015), bằng cách tham gia vào “trao đổi” hoặc “thảo luận” một chiều mà ông đăng trên mạng.
KẾT LUẬN
Hà Văn Thùy là một nhân vật quan trọng ở chỗ ông đã tổng hợp các yếu tố từ nhiều ý kiến khác nhau đã phát triển liên quan đến tiền sử Việt Nam, từ những quan niệm mà Lương Kim Định đã phát triển ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1960 và đầu những năm 1970, đến những ý kiến được Cung Đình Thanh và những người khác quảng bá trong cộng đồng người Việt hải ngoại vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, cho đến các học giả ở Việt Nam trong những năm 1980 và 1990. Hơn nữa, người ta cũng có thể coi Hà Văn Thùy là một kiểu “cầu nối Internet” ở chỗ ông là một trong những cá nhân đầu tiên ở Việt Nam tham gia vào những ý tưởng về thời tiền sử đã được người Việt hải ngoại phát triển và đưa lên mạng, và ông đã làm như vậy trước tiên trong không gian mạng bên ngoài Việt Nam trước khi việc thảo luận về những quan điểm đó được chấp nhận ở Việt Nam.
Nhưng, Hà Văn Thùy đồng thời là một nhân vật gây tranh cãi ở chỗ ông đang tích cực quảng bá những ý kiến được coi là quan điểm của các nhà khoa học mà không giữ một vị trí hay chuyên môn học thuật. Hơn nữa, bất cứ điều gì xảy ra trong quá khứ khiến ông ta mất tư cách nhà báo chính thức tiếp tục đặt ông ta vào góc nhìn tiêu cực trong mắt một số người. Do đó, tôi cho rằng sự kết hợp giữa tính không rõ ràng về thân thế của Hà Văn Thùy và sự xuất hiện khắp nơi trên mạng của ông ta như là người phát ngôn cho phiên bản tiền sử mới này của Việt Nam, khiến nhiều người khó nhìn thấy những gì đang xảy ra bên ngoài thế giới của Hà Văn Thùy.
Tuy nhiên, nhiều quan điểm từ “lịch sử bên lề” này hiện đang được hưởng một địa vị “trung tâm”. Ví dụ, nếu ai muốn tìm hiểu về “nền văn minh lúa nước”, thì phiên bản tiếng Việt của Wikipedia (“Văn minh lúa nước” nd) hiện nay trình bày là quan điểm về quá khứ đã biến Việt Nam trở thành một trung tâm trồng lúa đầu tiên mà nhóm tác giả trong tiểu luận này đã quảng bá, với các tham chiếu đến Sauer, Solheim, Gorman và Oppenheimer, và các liên kết đến các bài viết của Cung Đình Thanh và các cộng sự của ông. Xa hơn nữa, nếu người ta xem trang web của Khoa Việt Nam học, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, người ta sẽ thấy rằng bài điểm sách ca ngợi của Nguyễn Văn Tuấn về Vườn địa đàng ở phương Đông của Oppenheimer đăng trên tạp chí Thought năm 2001 đã được đăng lại trên trang web trường đại học này vào ngày 3 tháng 6 năm 2019 (Khoa Việt Nam học). Ngoài ra, những tuyên bố ở đầu bài báo này của Hà Văn Thùy về Lương Kim Định ở Văn Miếu năm 2012 đã được đăng tải kịp thời lên trang web của Trung tâm Nghiên cứu Lý luận và Ứng dụng Văn hóa cũng như của thuộc Đại học Quốc gia Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh. Cuối cùng, mặc dù sách của Lương Kim Định vẫn bị cấm vào thời điểm diễn ra hội thảo chuyên đề năm 2012 đó, hiện nay chúng đã được tái bản tại Việt Nam (Phạm 2017). Do đó, nhiều quan điểm được thảo luận trong chuyên luận này, mặc dù có lẽ không quen thuộc với giới học thuật, nhưng rõ ràng là rất quan trọng đối với nhiều người Việt Nam.
CHÚ THÍCH
* Liam C. Kelley là Phó Giáo sư Nghiên cứu Đông Nam Á tại Viện Nghiên cứu Châu Á thuộc Đại học Brunei Darussalam. Chuyên ngành của ông là về lịch sử Việt Nam cận đại, nhưng ông đặc biệt quan tâm đến việc quá khứ Việt Nam thời tiền hiện đại đã được diễn giải lại và tái định nghĩa như thế nào kể từ đầu thế kỷ 20. Kelley đã xuất bản về lịch sử quan hệ ngoại giao và văn hóa Trung-Việt, lịch sử Việt Nam và tôn giáo Việt Nam. Gần đây, ông đã xuất bản về những thách thức mà lĩnh vực nghiên cứu Đông Nam Á phải đối mặt trong thời đại Cách mạng Kỹ thuật số và toàn cầu hóa. Trong một thập kỷ qua, Kelley cũng đã duy trì một blog học thuật: Le Minh Khai’s SEAsian History Blog (https: //leminhkhai.wordpress.com), nơi ông tìm cách tương tác với các độc giả ngoài giới học thuật. Cuối cùng, cùng với Giáo sư Phan Lê Hà của Viện Giáo dục Sultan Hassanal Bolkiah tại Đại học Brunei Darussalam, Kelley đồng tổ chức hội nghị thường niên, Gắn kết với Việt Nam: Đối thoại Liên ngành.
1 Tác giả xin chân thành cảm ơn hai nhà phê bình giấu tên về những bình luận vô cùng xây dựng của họ cho Tạp chí Quốc tế về Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương (International Journal of Asia Pacific Studies)
2 Tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Tường Vũ của Đại học Oregon, Hoa Kỳ đã chia sẻ tài liệu tham khảo này với tôi.
3 Tạp chí này không còn có sẵn trên mạng. Do đó, tôi đã dựa vào hình ảnh của trang web này được chụp vào ngày 14 tháng 4 năm 2006 bởi Internet Archive’s Wayback Machine. Để truy cập các bài báo từ tạp chí này được trích dẫn trong tiểu luận này, độc giả có thể nhập URL trích dẫn vào Wayback Machine (http://archive.org/web/). Thỉnh thoảng Cung Đình Thanh tải lên các tập tin PDF của bản in của tạp chí Tư tưởng, và những lúc khác, ông đặt bài viết trên các trang web. Đối với các tệp PDF, tôi có thể trích dẫn số trang, nhưng đối với các trang web thì không có phân trang.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Anderson,A.andO’Connor,S.2008.Indo-Pacificmigrationandcolonization–Introduction.
Asian Perspectives 47: 2–11, https://doi.org/10.1353/asi.2008.0010.
Bayard, D. T. 1970. Excavation at Non Nok Tha, northeastern Thailand, 1968. Asian Perspectives 13 (1): 109–144.
Bellwood, P. 2004. The origins and dispersals of agricultural communities in Southeast Asia. In Southeast Asia: From prehistory to history, eds. Glover, I. and Bellwood, P., 21–40. London: RoutledgeCurzon.
Bing,S.etal.1999.Y-chromosomeevidenceforanorthwardmigrationofmodernhumans intoeasternAsiaduringthelasticeage.TheAmericanJournalofHumanGenetics 65 (6): 1718–1724, https://doi.org/10.1086/302680.
Castillo, C. 2011. Rice in Thailand: The archaeobotanical contribution. Rice 4 (3–4): 114–
120, https://doi.org/10.1007/s12284-011-9070-2.
Cavalli-Sforza, L. L. 1997. Genes, people and languages. Proceedings of the National Academy of Sciences of the USA 94: 7719–7724, https://doi.org/10.1073/ pnas.94.15.7719.
____. 1998. The Chinese human genome diversity project. Proceedings of the National Academy of Sciences of the USA 95: 11501–11503, https://doi.org/10.1073/ pnas.95.20.11501.
Cavalli-Sforza, L. L., Menozzi, P. and Piazza, A. 1994. The history and geography of
human genes. Princeton: Princeton University Press.
Chang, K-c. 1972. Prehistoric archaeology of Taiwan. Asian Perspectives 13 (1): 59–77.
Chang, T-T. (Zhang Deci). 1976a. The rice cultures [and discussion]. Philosophical Transactions of the Royal Society of London: Series B, Biological Sciences 275 (936): 143–157.
____. 1976b. The origin, evolution, cultivation, dissemination, and diversification of
Asian and African Rices. Euphytica 25 (1): 425–441.
1983. The origins and early cultures of the cereal grains and food legumes. In The origins of Chinese civilization, ed. Keightley, D. N., 65–94. Berkeley: University of California Press.
Chu, J. Y. et al. 1998. Genetic relationship of populations in China. Proceedings of the National Academy of Sciences of the USA 95: 11763–11768, https://doi.org/10.1073/ pnas.95.20.11763.
Colani, M. 1927. L’Age de la pierre dans la province de Hoa-Binh (Tonkin) [The stone age in Hòa Bình province]. Mémoires du service géologique de l’Indochine [Records of the Geological Service of Indochina] 14 (1):1–126.
Công báo Việt Nam Cộng Hòa [Official gazette of the Republic of Vietnam]. 1957. 5January.
Cung, Đ. T. 1999a. Tiếng chim gọi đàn: thư ngỏ 1 [A bird’s call to the flock: Open letter 1]. Tư tưởng [Thought], 1 (March). http://tutuong.hypermart.net/htmlfiles/ThuNgo1. htm (accessed through the Wayback Machine on 1 November 2017).
____. 1999b. Sự thuần canh cây lúa nước và ảnh hưởng của việc biển tiến đối với tư duy của con người Việt cổ [The domestication of wet rice and the influence of the advance of the sea on the thinking of the ancient Việt people]. Tư tưởng 3 (July): 16–21. http://tutuong.hypermart.net/pdffiles/tutuong3_extracts.PDF (accessed through the Wayback Machine on 1 November 2017).
____ . 1999c. Khái niệm về biển tiến – Việt Nam [The concept of the sea advance – Vietnam]. Tư tưởng 3 (July): 11–16. http://tutuong.hypermart.net/pdf files/tutuong3_extracts. PDF (accessed through the Wayback Machine on 1 November 2017).
____. 2000. Nhờ tiến bộ của di truyền học (DNA), phải chăng đã đến lúc chúng ta có thể khẳng định được nguồn gốc dân tộc Việt Nam? [Based on advances in genetics (DNA), perhaps the time has come that we can affirm the origins of the Vietnamese people?]. Tư tưởng 7 (April). http://tutuong.hypermart.net/html files/nguon goc dan toc vietnam.htm (accessed through the Wayback Machine on 1 November 2017).
“Cung Đình Thanh.” n.d. Việt Nam văn hiến [Vietnamese civilization]. http://www.
vietnamvanhien.net/CungDinhThanh.html (accessed 21 November 2017).
Gorman,C.F.1969.Hoabinhian:Apebble-toolcomplexwithearlyplantassociationsinSoutheast Asia. Science 163 (3868): 671–673.
Hà, V. T. 2005. Tìm lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hoá [Relocating ancestral origins and cultural origins]. Talawas, 2 May. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3789&rb=0302 (accessed 13 December 2017).
.2006.Tìmlạicộinguồnvăn hóaViệt[RelocatingtheoriginsofViệtculture].Hanoi: Nhà xuất bản Vănhọc.
. 2008. Hành trình tìm lại cội nguồn: nghiên cứu và đối thoại [The journey of
relocating origins: Research and conversations]. Hanoi: Nhà xuất bản Văn học.
. 2011. Tìm cội nguồn qua di truyền học [Finding origins through genetic science].
Hanoi: Nhà xuất bản Văn học.
. 2014a. Viết lại lịch sử Trung Hoa [Rewriting Chinese history]. No publication
information.
.2014b.TiếntrìnhlịchsửvănhoáViệt[ThehistoricalevolutionofViệtculture].No
publication information.
.2015.ThảoluậnvớigiáosưLiamC.KelleyvềtriếtgiaKimĐịnh[Discussingwith professor Liam Kelley about philosopher Kim Định]. Khoahocnet [ScienceWeb],8 July. https://khoahocnet.com/2015/07/08/ha-van-thuy-thao-luan-voi-giao-su- liam-c-kelley-ve-triet-gia-kim-dinh/ (accessed 13 December 2017).
. 2016a. Khám phá lịch sử Trung Hoa [Exploring Chinese history]. Hanoi: Nhàxuất bản Hội Nhàvăn.
. 2016b. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt [Contributing to the reconceptualization of the history of Việt culture]. Hanoi: Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
. 2017. Trao đổi với G. S. Phan Huy Lê về sử Việt [An exchange with professor PhanHuyLêaboutViệthistory].Văn hóa[Culture].VietnameseAmericanArtists & Media Association, 14 May. https://nhatbaovanhoa.com/a5705/ha-van-thuy- trao-doi-voi-gs-phan-huy-le-ve-su-viet (accessed 13 December2017).
“Hà Văn Thùy.” n.d. Wikipedia. https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_V%C4%83n_ Th%C3%B9y (accessed 12 December 2017).
Higham,C.F.W.,Douka,K.andHigham,T.F.G.2015.AnewchronologyfortheBronze Age of northeastern Thailand and its implications for Southeast Asian prehistory. PLOS ONE 10 (9):1–20,https://doi.org/10.1371/journal.pone.0142511.
Hong, S. 2005. Y-chromosome evidence of southern origin of the East Asian–specific haplogroup O3-M122. The American Journal of Human Genetics 77 (3):408–419, https://doi.org/10.1086/444436.
Hong,S.etal.2008.YchromosomeevidenceofearliestmodernhumansettlementinEast Asia and multiple origins of Tibetan and Japanese populations. BMC Biology 6 (45): 1–10, https://doi.org/10.1186/1741-7007-6-45.
Kovach,M.J.,Sweeney,M.T.andMcCouch,S.R.2007.Newinsightsintothehistoryof rice domestication. Trends in Genetics 23 (11): 578–587, https://doi.org/10.1016/j. tig.2007.08.012.
Lương,K.Đ.1970.Việtlýtốnguyên[TracingViệtprinciplestothesource].Saigon:AnTiêm.
. 1973. Cơ cấu Việt Nho [Việt Confucian structure]. Saigon: NguồnSáng.
“Lương Kim Định.” n.d. Wikipedia. https://en.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%C6%A1ng_ Kim_%C4%90%E1%BB%8Bnh (accessed 19 December 2017).
Matthews, J. M. 1966. A review of the ‘Hoabinhian’ in Indo-China. Asian Perspectives9 (1): 86–95.
Maybon, C. B. and Russier, H. 1909. Notions d’histoire d’Annam [Ideas about the historyof Annam], vol. 1. Hanoi and Haiphong: Imprimerie d’Extrême-Orient.
Ngô, S. L. 1983 [1479]. Đại Việt sử ký toàn thư [Complete book of the historical records ofĐại Việt]. Hanoi: Khoa học xã hội.
Ngô, T. V. 2000. Tìm về phương Đông – Địa đàng lại đánh mất [Searching in the East – A lost eden]. Thế kỷ 21 (April–May).
Nguyễn, Đ. K. 1983. Nhân chủng học Đông Nam Á [Racial anthropology of SoutheastAsia]. Hanoi: Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp.
Nguyễn, Đ. H. 2000. Khám phá mới di truyền học về nguồn gốc con người ở Ðông Á (Theo báo cáo khoa học của GS. J. Y. CHU) [A new genetic discovery about the origins of people in East Asia (According to a scientific report by professor J. Y. Chu)]. Tư tưởng 7 (April). http://tutuong.hypermart.net/htmlfiles/Khamphaditruyenhoc_ NDH.htm (accessed through the Wayback Machine on 1 November 2017).
____ . 2016. Sài Gòn Chợ Lớn: qua những tư liệu qúy trước 1945 [Saigon and Cholon:
From pre-1945 rare sources]. Ho Chi Minh: Nhà xuất bản Văn hóa, văn nghệ. “Nguyễn Đức Hiệp.” n.d. LinkedIn. https://au.linkedin.com/in/duc-hiep-8985b81b
(accessed 20 November 2017).
Nguyễn, Q. T. 2002. Về nguốn gốc dân tộc Việt Nam và ‘Địa đàng Phương Đông’ của Oppenheimer [On the origins of the Vietnamese people and “Eden in the East” by Oppenheimer]. Hợp lưu [Confluence] 64: 24–52. http://www.nhanvan.com:80/ magazines/hopluu/64/nguyenquangtrong_venguongoc.htm (accessed through the Wayback Machine on 11 December 2017).
Nguyễn, T. T. 2001. Việt Nam, trung tâm nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá, xưa nhất thế giới [Việt Nam, the oldest center of wet rice agriculture and stone industry in the world]. VietCatholic, 9 September. http://www.mevietnam.org/NguonGoc/ ntt-vanminhluanuoc.html (accessed 6 December 2017).
Nguyễn, V. T. 2001. Nhân đọc “Eden in the East”: đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam [On reading “Eden in the East”: Posing again the question of the origins of the Vietnamese people and civilization]. Tư tưởng 15 (August), 10–15. http://tutuong.hypermart.net/pdf files/TUTUONG15.pdf (accessed through the Wayback Machine on 1 November 2017).
____. 2019. Nhân đọc ‘Eden in the East’: đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam” [On reading “Eden in the East”: Posing again the question of the origins of the Vietnamese people and civilization]. Khoa Việt Nam học [Faculty of Vietnamese studies], 3 June. http://vns.edu.vn/index.php/vi/nghien-cuu/van-hoa- viet-nam/1161-dat-lai-van-de-nguon-goc-dan-toc-va-van-minh-viet-nam (accessed 14 October 2019).
“Nguyễn Văn Tuấn.” n.d. Wikipedia. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1% %85n_V%C4%83n_Tu%E1%BA%A5n_(gi%C3%A1o_s%C6%B0_d%E1%B-B%8Bch_t%E1%BB%85_h%E1%BB%8Dc) (accessed 12 December 2017).
Normile, D. 1997. Yangtze seen as earliest rice site. Science 275 (5298): 309, https://doi. org/10.1126/science.275.5298.309.
Oppenheimer, S. 1998. Eden in the East: The drowned continent of Southeast Asia. London: Weidenfeld and Nicolson.
____ . 2005. Địa đàng ở Phương Đông: lịch sử huy hoàng của lục địa Đông Nam Á bị chìm [Eden in the East: The glorious history of the drowned continent of Southeast Asia]. Transl. Lê, S. G. and Hoàng, T. Ha, ed. Cao, X. P. Hanoi: Nhà xuất bản Lao động.
Phạm, Đ. T. 2017. Tái bản bộ sách triết lý an vi của Kim Định [The republication of the set of books on the tranquillity philosophy of Kim Định]. Zing.vn, 5 May. https://news. zing.vn/tai-ban-bo-sach-triet-ly-an-vi-cua-kim-dinh-post744323.html (accessed 29 April 2019).
Reich, D. et al. 2011. Denisova admixture and the first modern human dispersals into Southeast Asia and Oceania. The American Journal of Human Genetics 89 (4): 516–528, https://doi.org/10.1016/j.ajhg.2011.09.005.
Sauer, C. O. 1952. Agricultural origins and dispersals. New York: American Geographical Society.
Soares, P, et al. 2008. Climate change and postglacial human dispersals in Southeast Asia. Molecular Biology and Evolution 25 (6): 1209–1218, https://doi.org/10.1093/ molbev/msn068.
Solheim, W. G. II. 1967. Southeast Asia and the West. Science 157 (3791): 896–902.
____. 1971. New light on a forgotten past. National Geographic 139 (3): 330–339.
____. 1972. An earlier agricultural revolution. Scientific American 226 (4): 34–41.
____. 1996. Nusantao and the north-south dispersals. Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin 2: 101–109.
____. 1999. Thắp sáng lại quá khứ bị lãng quên [New light on a forgotten past]. Translated by Hoài Văn Tử and Vĩnh Như. Tư tưởng [Thought] 2 (May): 28–30. http://tutuong.hypermart.net/pdf/files/Tutuong2_extracts.pdf (accessed online through the Wayback Machine on 1 November 2017).
Spriggs, M. 2011. Archaeology and the Austronesian expansion: Where are we now?
Antiquity 85 (328): 510–528, https://doi.org/10.1017/S0003598X00067910.
Stark, M. 2014. Dr. Wilhelm G. Solheim II (19 November 1924–25 July 2014): Appreciation. Antiquity Online. http://antiquity.ac.uk/tributes/solheim.html (accessed 21 November 2017).
Tạ, C. Đ. T. 2008. Về ‘huyền sử gia’ Kim Định và các chi, bàng phái ‘huyền sử học’ Việt Nam? [How about “obscure historian” Kim Định and the branches and factions of Vietnamese “obscure history studies?]. Talawas, 4 February, http://www.talawas. org/talaDB/suche.php?res=12188&rb=0302 (accessed 28 April 2019).
Taylor, K. W. 1983. The birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press.
. 2013. A history of the Vietnamese. Cambridge: Cambridge University Press.
Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam [Committee for Social Science Research of Vietnam].
1971. Lịch sử Việt Nam [History of Vietnam]. Hanoi: Khoa học xã hội.
“Văn minh lúa nước” [Wet rice civilization]. n.d. Wikipedia. https://vi.wikipedia.org/ wiki/V%C4%83n_minh_l%C3%BAa_n%C6%B0%E1%BB%9Bc (accessed 19 December 2017).
Vavilov, N. I. 1951. Phytogeographic basis of plant breeding. Chronica Botanica 13 (1/6): 13–54.
Vơ, T. S. 2002. Bs Nguyễn Thị Thanh: khoa học & đức tin; phỏng vấn đặc biệt [Dr. Nguyễn Thị Thanh: Science and faith], 14 May, http://motgoctroi.com/StNguoiNViec/ BsNThiThanh_Ductin.htm (accessed through the Wayback Machine on 11 December 2017).
Vũ, K. T. 2012. Tọa đàm tưởng niệm cố triết gia Lương Kim Định nhân 15 năm ngày mất của ông [Symposium commemorating the late philosopher Lương Kim Định on the occasion of the fifteenth year since his passing]. Văn hóa học: Trung tâm văn hóa học lý luận và ứng dụng [Cultural studies: Centre of Theoretical and Applied Cultural Studies], 20 July, http://www.vanhoahoc.edu.vn/tin-tuc/tin-lien- quan/2252-toa-dam-tuong-niem-co-triet-gia-luong-kim-dinh-nhan-15-nam-ngay- mat-cua-ong.html (accessed 29 April 2019).
Wen, B. et al. 2004. Genetic evidence supports demic diffusion of Han culture. Nature 431: 302–305, https://doi.org/10.1038/nature02878.
Who’s who in Vietnam, 3rd ed. 1974. Saigon: Vietnam Press.
Yen, D. E. 1980. The Southeast Asian foundations of oceanic agriculture: A reassessment.Journal de la Société des Océanistes 36 (66):140–147.
____. 1982. Ban Chiang pottery and rice: A discussion of the inclusions in the pottery mix. Expedition 24 (4): 51–64.
Võ Xuân Quế (dịch)
Ghi chú: Những chỗ chữ đậm trong bài là của người dịch.
Nguồn:Kelley, L. C. 2020. The centrality of “fringe history”: Diaspora, the Internet and a new version of Vietnamese prehistory. International Journal of Asia Pacific Studies 16 (1): 71–104, https://doi.org/10.21315/ijaps2020.16.1.3
[1]http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-co-trung-dai-o-viet-nam/2254-ha-van-thuy-buoc-dau-tim-hieu-su-nghiep-triet-gia-kim-dinh.html(Chú thích của người dịch)
tin tức liên quan
Videos
Đền Hồng Sơn
Chuyển đổi số và liên thông Thư viện - xu hướng phát triển tất yếu
Một nước Nhật quá xa xôi!
Kí hiệu không gian rừng sim trong tác phẩm điện ảnh "Mắt biếc"
Lenk
Thống kê truy cập
114513376
2162
2315
21313
220249
121356
114513376