Người xứ Nghệ

Cao Xuân Hạo đã để lại thật nhiều trước lúc ra đi

Tôi tiếp nhận tin giáo sư Cao Xuân Hạo từ trần ngay sau giờ phút anh lâm chung, qua điện thoại của một bạn trẻ. Đã từ mấy tháng nay, anh em trong giới ngữ học chúng tôi đều biết Giáo sư lâm bệnh nặng, tuổi cao sức kiệt, khó lòng qua khỏi. Nhưng vào giờ phút ấy, khi biết rằng trên đời này sẽ chẳng còn bao giờ có thể trò chuyện cùng Anh được nữa, lòng tôi bỗng trống trải, ngậm ngùi… 

Mãi đến năm 1965, tôi mới có dịp quen biết anh Cao Xuân Hạo. Khi ấy, tôi vừa chân ướt chân ráo từ Đại học Bắc Kinh trở về, đang lao vào tìm hiểu tiếng Việt, thì may mắn được làm quen với các thầy và các bậc đàn anh ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, tại khu sơ tán Đại Từ, Thái Nguyên. Nhưng lần đầu tiên tôi gặp anh Cao Xuân Hạo là tại Hà Nội, và Anh đã dành trọn một buổi chiều để nói cho tôi nghe về lý thuyết âm tiết tiếng Việt của Anh. Nhìn vào đôi mắt chăm chú theo dõi của tôi, anh Hạo như thấy yên tâm để giải trình một cách chi tiết những quan điểm mà theo cách nghĩ đã thành nếp đương thời thìkhó có thể bình tâm mà nghe được. Và quả thật, tất cả những gìmà anh “nung nấu” và dàn dựng là một lý thuyết hoàn toàn mới mẻ về ngữ âm tiếng Việt, mà trước đó tôi chưa từng được tiếp xúc. Về sau, anh đã công bố một cách vắn tắt lý thuyết này trong bài Le problème du phonème en vietnamien (Vấn đề âm vị trong tiếng Việt) in trong tập “Essais linguistiques – Études Vietnamienns N.40, 1975”. Cho mãi đến năm 1985 Anh mới có dịp công bố tại Paris toàn bộ lý thuyết ngữ âm của Anh trong một tác phẩm viết bằng tiếng Pháp Phonologie et linéarité (Âm vị học và tuyến tính), mà bản thảo sách này anh đã viết xong vào năm 1979 (đến năm 2001 bản tiếng Việt mới được in ở Hà Nội). Trong công trình này, nhà ngữ học Cao Xuân Hạo đã thảo luận cặn kẽ về nhiều vấn đề cơ bản trong ngữ âm học và âm vị học đại cương, cũng như đề xuất một chủ thuyết mới cho việc phân tích và xác lập đơn vị ngữ âm cơ bản của tiếng Việt.
Để bạn đọc không cần đi sâu lắm vào chuyên môn cũng có thể phần nào lĩnh hội được lý thuyết về âm tiết tiếng Việt của Giáo sư Cao Xuân Hạo, tôi xin phép trình bày đôi dòng sơ lược như sau. Với ngữ âm tiếng Việt, các học giả thuở ban đầu (như M.B.Emenau, LêVăn Lý, v.v.) thường bê nguyên xi cách phân tích và xác lập hệ thống ngữ âm theo hệ “âm vị nguyên âm – âm vị phụ âm” trong âm vị học phương Tây, nghĩa là cũng như các ngôn ngữ châu Âu, hệ thống ngữ âm Việt sẽ phải gồm bao nhiêu âm vị phụ âm, bao nhiêu âm vị nguyên âm, phụ âm có thể đứng đầu hoặc đứng cuối từ (âm tiết),v.v. Sau này khi tôi được sang Nga học, mới biết rằng cái cách miêu tả ấy từ những năm 30 của thế kỷ XX đã bị E.D. Polivanov nghi ngờ, và ông đề nghị một mô hình gồm 4 thành tố kế tiếp nhau để miểu tả âm tiết tiếng Hán (gần như đồng thời với Polivanov, Đường Vực ở Trung Quốc cũng       hình dung âm tiết tối đa gồm có 4 thành tố như vậy). M.V.Gordina là người đầu tiên áp dụng mô hình đó cho tiếng Việt. Ở Việt Nam, cách miêu tả ngữ âm tiếng Việt theo mô hình gồm 4 đối hệ “âm đầu – âm đệm – âm chính – âm cuối” như thế đã được trình bày một cách rất sáng sủa trong giáo trình của anh Đoàn Thiện Thuật. Điều khiến mọi người dễ “cảm tình” với mô hình này là ở chố nó phần nào thoát khỏi cái hình ảnh châu Âu về hệ nguyên âm và hệ phụ âm, đồng thời theo từng “đối hệ”, người ta có thể tìm mối liên hệ với chữ cái của chữ Quốc ngữ (lại chính là bộ chữ ABC có được từ sự phân tích ngữ âm châu Âu). Bởi vậy, cho đến nay, và có lẽ còn về lâu về dài, mọi người vẫn dễ dàng chấp nhận nó để đưa vào dạy ở nhà trường, và tưởng rằng đó chính là hình ảnh lý tưởng của ngữ âm tiếng Việt được mô tả một cách khoa học nhất đã được lựa chọn. Trong khi đó thì Cao Xuân Hạo, ngay từ những ngày cuộc chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra, đã bắt đầu trăn trở về một cách miêu tả ngữ âm tiếng Việt sao cho đúng với bản chất âm thanh và chức năng của nó. Theo Anh, âm tiết tiếng Việt là một chỉnh thể mà về mặt chất liệu âm thanh cũng như về mặt chức năng không có một căn cứ gì để có thế “cắt khúc” ra thành 4 thành tố kế tiếp như vậy. Cũng như trong hệ thống ngữ pháp tiếng Việt, âm tiết là đơn vị ngữ âm cơ bản tối thiểu không chịu sự chia cắt ra thành những cái gì “ngắn” hơn được nữa. Và do đó, không làm gìcó được những âm vị mang tính “khúc đoạn” ở đây, và Anh đề xuất quan điểm “phi đoạn về âm vị và cấu trúc âm tiết Việt Nam”. Theo Anh, “trong tiếng Việt, người bản ngữ nghe các âm tố như những quá trình âm vị học động,  kết quả của những động tác cấu âm, nghĩa là nghe âm tiết đúng như thực trạng của nó. Trong các thứ tiếng châu Âu, do nhu cầu phân biệt trật tự của các âm tố ở bên trong âm tiết, các âm tố được tri giác như những trạng thái tĩnh”. Quan điểm của anh mới lạ và gây sửng sốt cho nhiều người, trong nước thì không nói làm gì, ở nước ngoài cũng vậy. Đến nỗi, có một vị từ một nước Đông Âu đến thành phố Hồ Chí Minh dự một cuộc hội thảo, sau khi biết qua quan điểm “âm vị phi đoạn” của anh Cao Xuân Hạo, liền hỏi nhỏ người ngồi bên cạnh: “Ông Hạo đã qua trường lớp nào về âm vị học chưa?” (!). Thực ra, nếu vị này có biết chút ít về D.E. Polivanov (Nga) hay Ch.F.Hockett (Hoa Kỳ) thì sẽ có thể bình tĩnh hơn, vì từ những tác giả như thế, ta đã thấy một dự báo về khả năng không chia cắt âm tiết tiếng Hán ra thành các âm vị “đoạn tính” là nguyên âm hay phụ âm như trong các ngôn ngữ châu Âu.
Bây giờ, nếu ai chịu khó đọc qua tác phẩm Âm vị học và tuyến tính  của Anh, sẽ vô cùng kinh ngạc về vốn tri thức sâu rộng của tác giả, không chỉ về những vấn đề cơ bản của lý thuyết ngôn ngữ, lý thuyết ngữ âm, thực nghiệm ngữ âm mà cả về đặc điềm loại hình của hàng loạt các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Hãy nhường lời đánh giá công trình của Anh cho   các học giả danh tiếng ở Pháp. Không phải chờ đến tác phẩm đồ sộ Âm vị học và tuyến tính, mà ngay sau khi đọc bài Vấn đề âm vị trong tiếng Việt   nói ở trên, nhà ngữ học J.P.Chambon đã nêu bật những “hệ qủa trọng đại” đối với ngôn ngữ học mà bài báo có nhan đề khiêm tốn kia đã dẫn tới: Một là, “nhà ngữ học Việt Nam đã nhắc đúng lúc cho ta nhớ rằng trong ngôn ngữ học, chủ nghĩa duy vật rất xa với chủ nghĩa chất liệu”. Hai là, “âm vị học cổ điển” thoát thai từ các ngôn ngữ châu Âu “nay đã bị bắt quả tang về tội dĩ Âu vi trung và buộc phải từ bỏ mọi tham vọng tự cho mình là có giá trị phổ quát”. Ba là, “các nhà âm vị học hiện đại chẳng qua là những người thợ chuyên làm chữ viết ABC cho tất cả các ngôn ngữ của nhân loại”. Bốn   là, [...], v.v. Sau khi công trình dày dặn của Cao Xuân Hạo được in ra tại Paris, liền có bài của hai nhà ngữ học Pháp A.G. Haudricourt và C.Hagège, nhận xét rằng một trong những điều có thể tiếp thu được qua cuốn sách này là “phải chi những người bản ngữ của các thứ tiếng đơn âm tiết xây dựng      nên nền âm vị học hiện đại, thì họ chắc chắn sẽ lấy âm tiết làm đơn vị cơ bản, chứ không phải âm vị”. G.S. Nathan viết trên tạp chí Language rằng có lẽ thú vị hơn cả là “cách phân loại hình ngôn ngữ của Cao theo tiêu chuẩn kích thước của âm vị là những nhân tố mà ông lấy làm cơ sở đầu tiên để     nêu rõ sự dị biệt giữa hai loại hình ngôn ngữ. Cái ưu thế mà chữ viết ABC có được ở phương Tây không phải chỉ đơn thuần là do một chủ nghĩa đế quốc văn hoá, mà chính là kết quả của những đặc trưng làm thành bản chất của hai loại hình ngôn ngữ hữu quan”. Có thể không phải mọi điều trong lý thuyết của Cao Xuân Hạo đều đã thuyết phục được các nhà ngữ học trong nước và quốc tế, song với những ghi nhận như trên cũng đủ cho thấy giá trị nhận thức luận và phương pháp luận rất sâu sắc trong công trình về ngữ âm của Anh. Từ Việt Nam, Anh đã cất lên một tiếng nói đầy ấn tượng giữa biển cả bao la những công trình về ngôn ngữ học trên thế giới.
Có nhiều người hiểu lầm “không phân đoạn” là “không phân lập”, vì vậy mà cũng không thật sự hiểu lý thuyết của anh Hạo. Cao XuânHạo chỉ nói “không phân đoạn” đối với âm tiết tiếng Việt, chứ chưa bao giờ nói “không phân lập”, bởi vì làm gì có thứ âm vị học mà “không phân lập”.    Các thành tố ngữ âm trong âm tiết, dù phân đoạn (như trong các ngôn ngữ châu Âu) hay không phân đoạn (như trong các ngôn ngữ Việt, Hán) đều được phân lập trong quá trình tri nhận âm tiết (dù là tri nhận tĩnh hay tri nhận động). Anh Hạo viết trong sách của mình: “Tính không kế tiếp, hay tính không quan yếu của trật tự trước sau của một tổ hợp đơn vị ngôn ngữ học không có nghĩa là các đơn vị ấy không phân lập. Chừng nào ta có thể phân tích một đơn vị của ngôn ngữ hay của lời nói thành những thành tố của nó, những thành tố ấy tất phải phân lập”. Như vậy hoàn toàn có thể nói đến “phân lập đoạn tính” và “phân lập phi đoạn tính” trong âm tiết. Với anh Cao Xuân Hạo thì trong âm tiết tiếng Việt không có chuyện “phân lập đoạn tính” (không thể “cắt khúc” âm tiết ra được), mà chỉ có thể là “phân lập phi đoạn tính” thôi. Thanh điệu cũng như các âm tố nguyên âm hay phụ âm trong âm tiết đều là “phi đoạn” như nhau . Anh Hạo đã hoàn toàn nhất quán trong cách tiếp cận của mình, và trong khoa học, đẩy lý thuyết đi đến tận cùng tuyệt nhiên không phải là một thái độ “cực đoan” cần né   tránh. Chính đây là chỗ anh Hạo khác biệt một cách triệt để với tất cả các tác giả khác còn lại khi nói về âm tiết tiếng Việt, trong đó có cả tôi ( thể hiện trong sách Âm tiết và loại hình ngôn ngữ và các công trình trước đó), là người được coi là có cách nhìn tiếng Việt khá gần gũi với quan niệm của Cao Xuân Hạo. Khi tôi chứng minh rằng cái gọi là “âm đệm” thực ra không hề chiếm vị trí thứ hai trong sơ đồ 4 thành tố kế tiếp, cũng không phụ thuộc hẳn váo “âm đầu” hay “vần cái” (tính chất “nước đôi” này của “âm đệm” phần nào đã được M.V. Gordina nói tới), mà phải dứt khoát coi nó là đặc trưng chung của toàn bộ âm tiết, như là thanh điệu, và phân lập với tất cả các yếu tố còn lại, thì không ít người nhăn mũi bảo là “kỳ quặc”. Còn anh Hạo thì nhiệt liệt hoan nghênh, cho là một bước đột phá quan trọng trong cách nhìn nhận các thành tố trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt. Có điều, tôi vẫn nói đến khả năng phân lập đoạn tính ít nhiều có thể thấy được giữa hai thành tố “âm đầu” và “vần cái” được định vị (do đó không đối lập nhau về trật tự tuyến tính) kế tiếp nhau trong lòng âm tiết tiếng Việt (cũng như tiếng Hán). Anh Hạo thắc mắc tại sao tôi lại còn nói đến “đoạn   tính” của “âm đầu” và “vần cái” làm gì nữa, mà không coi tất cả đều là “phi đoạn” có phải nhất quán hơn không. Theo Anh (và phù hợp với kiến giải của nhà ngữ học Mỹ A.Glison), cái ấn tượng về “đoạn tính” sở dĩ có được là dựa vào khả năng chuyển đổi vị trí trước sau giữa các đơn vị ngữ âm, nghĩa là các đơn vị này có tham gia vào sự đối lập về trật tự (như act so với cat trong tiếng Anh). Tôi nghĩ, cái căn cứ phân đoạn của anh Hạo cũng như của A.Glinson đưa ra là không sai, song không phải là duy nhất. Tôi không thể làm ngơ trước một thực tế hiển nhiên là người bản ngữ tiếng Việt cũng như tiếng Hán đã tạo ra không ít các từ láy âm và các loại ngôn từ đặc biệt như nói lái chẳng hạn (với sự chuyển đổi “âm đầu” và “vần cái” trong một tổ hợp song tiết). Không phải ngẫu nhiên mà âm vận học truyền thống Trung Hoa, thực chất là lý thuyết âm vị học về âm tiết được xây dựng (trước khi có sự can thiệp của âm vị học cổ điển chấu Âu) trên tư liệu Hán ngữ vốn cùng loại hình với Việt ngữ, từ lâu vẫn ghi nhận sự phân lập cái trước cái sau giữa “thanh mẫu” (âm đầu) và “vận mẫu” (vần cái). Tôi nghĩ, sự định vị “trước-sau” cũng có thể tạo nên một ấn tượng nào đó về “tuyến tính” cho “thanh mẫu” và “vận mẫu”, điều không có được đối với thanh điệu và cái gọi là “âm đệm”. Ngoài điểm “bất đồng” này ra, giữa     chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhau trên mọi vấn đề. Bao trùm lên tất cả là một tinh thần chung cùng nhau tìm đường miêu tả ngôn ngữ “từ bên trong bản thân nó” (như Baudouen de Courtenay đã nhắc nhở từ đầu thế kỷ XX), cố gắng thoát ra khỏi những giáo điều có sẵn từ bên ngoài, từ cách miêu tả vốn chỉ thích hợp với các ngôn ngữ biến hình ở phương Tây, nhưng lại là một sự áp đặt thô bạo đối với các ngôn ngữ đơn lập âm tiết      tính như tiếng Việt. Trên tinh thần này, ở chừng mực nào đó, chúng tôi cũng tìm thấy tiếng nói chung với một số nhà ngữ học khác, như anh      Đoàn Thiện Thuật chẳng hạn. Tất cả chúng tôi đều không ai dại gì mà bỏ qua âm tiết để đi thẳng đến các âm vị nguyên âm và phụ âm như trong âm vị học phương Tây. Bản thân tôi đồng cảm sâu sắc với anh Cao Xuân Hạo, cũng tức là thấm thía với nhận định của GS Vương Lực, nhà ngôn ngữ học kiệt xuất của Trung Quốc, rằng: “Bây giờ chúng ta ngày nào cũng nói đến đặc điểm của tiếng Hán, nhưng ngày   nào cũng vẫn chỉ quẩn quanh trong cái vòng vây của của ngữ pháp Âu Tây. Cần phải thoát ra khỏi bàn tay của phật Như Lai, rồi sau mới mong khỏi bị đè bẹp dưới Ngũ Hành Sơn” (Tạp chí Trung Quốc ngữ văn, 1956).
Cũng chính trên tinh thần đó, nhà ngữ học và nhà giáo Cao Xuân Hạo bước vào lĩnh vực nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. Và ở trận địa này, Anh lại tiếp tục “chiến đấu” với những giáo điều có sẵn từ Âu Tây mang đến. Lý thuyết âm tiết không phân đoạn của Cao Xuân Hạo dẫu sao vẫn nặng về học thuật trong lĩnh vực ngữ âm – âm vị học, ít người hỏi đến, và hiện vẫn chưa tìm thấy sự ứng dụng nó vào thực tiến cuộc sống, mặc dù theo tôi nghĩ, nó sẽ là chỗ dựa tốt nhất cho công việc phân tích và tổng hợp lời nói tiếng Việt, một công việc thiết yếu trong khoa học hình sự. Trong khi đó thì ngữ pháp lại là câu chuyện mà bất cứ ai từng cắp sách đến trường đều phải biết tới, và từ lâu họ đã đúc kết bằng một câu tục ngữ xứng đáng: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Nếu như ngữ pháp các tiếng châu Âu khá thích hợp với cách phân tích câu theo sơ đồ “Chủ ngữ - Vị ngữ”, thì phần lớn các câu rất tự nhiên trong tiếng Việt như Chó treo, mèo đậy lại từ chối cách phân tích này. Anh Hạo giải thích rằng câu trong các ngôn ngữ như tiếng Việt có một cấu trúc khác hẳn: nó gồm hai phần trong đó phần thứ nhất nêu lên một cái Đề (đề tài) còn phần thứ hai nói một điều gì đấy liên quan đến cái đề ấy, gọi là phần Thuyết. Đề có thể bất cứ là đóng vai gì, bất cứ có quan hệ gì với Thuyết, miễn sao thành một nhận định có ý nghĩa, có nội dung thông báo nào đấy, cho nên các kiểu câu trong các thứ tiếng như tiếng Việt đa dạng gấp mấy mươi lần các kiểu câu của tiếng châu Âu. Với    cách phân tích Đề - Thuyết như vậy, hầu hết những câu mà ngữ pháp “Chủ - Vị” không kham nổi, đành liệt chúng vào hạng “bất bình thường”(khốn nỗi những câu “cứng đầu” như thế lại chiếm một phân lượng khá lớn trong tiếng Việt) đều trở nên hết sức bình thường. Cội nguồn của ngữ pháp “Đề - Thuyết” (tức là “ngữ pháp chức năng”) đã có từ trường phái ngữ học Praha. Song những phản ứng lại với ngữ pháp châu Âu thì từ lâu trước đó đã có trong tác phẩm của các nhà Đông phương học Nga (như A.D. Polivanov và A.A.Dragunov) với lý thuyết “âm tiết - hình vị” (slogomorphema) mà người kế thừa xuất sắc và phát triển nó trên ngữ liệu tiếng Việt là GS Nguyễn Tài Cẩn. Như vậy, so với ngữ âm thì ở lĩnh vực ngữ pháp các nhà ngữ học châu Âu có vẻ ít chủ quan hơn và sự “phản tỉnh” của họ có phần kịp thời hơn, để có thể sớm đưa ra lý thuyết về ngữ pháp chức năng, một lý thuyết ngữ pháp có nhiều khả năng thích dụng cho các ngôn ngữ thuộc nhiều loại hình khác nhau. Nếu tôi không nhầm thì ở Việt Nam, người đầu tiên gặt hái thành quả đáng kể trong việc ứng dụng lý thuyết ngữ pháp chức năng vào tiếng Việt, chính là GS Cao Xuân Hạo với cuốn Tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng (1991). Cuốn sách được in ra, ngay lập tức thu hút sự chú ý của đông đảo bạn đọc trong học giới và giáo giới, và không chỉ một lần, người ta tụ họp nhau để “hội thảo” về những gì mới mẻ được đề cập đến trong cuốn       sách này. Vượt lên trên tất cả những ý kiến ngược xuôi khác nhau, một điều không thể phủ nhận được là cuốn ngữ pháp của anh Hạo thực sự mang đến một bầu không khí mới cho ngữ pháp tiếng Việt, mà xuất phát điểm vẫn là cái tinh thần vốn thường trực ở Anh : cố gắng thoát ra khỏi những bế tắc do rập khuôn ngữ pháp Tây Âu đưa lại, tiến tới nhìn nhận tiếng Việt sao cho    sát đúng hơn với bản thể và linh hồn của nó. Tôi thật sự vui mừng là anh Hạo đã đi vào nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt và đã đạt tới kết quả đáng kể như vậy. Tôi vẫn nhớ là năm 1985, khi tôi đến chào từ giã GS Yu.V.Rozhdestvensky, cố vân khoa học của tôi ở Moskva, ông khuyên tôi là sau ngữ âm, tôi nên đi sâu vào ngữ pháp tiếng Việt, vì ở đó thể hiện rõ nhất linh hồn và tư duy dân tộc. Song duyên phận của cuộc đời và cũng do sở học của mình, đã dẫn tôi sang lĩnh vực ngữ văn Hán Nôm, chủ yếu đi sâu nghiên cứu chữ Nôm, và ở đây tuy không bão táp như ở ngữ pháp, nhưng cũng có ít nhiều sóng gió, đủ để thử thách bản lĩnh con người, và cũng đủ đất cho những ai muốn tìm về bản sắc dân tộc Việt Nam. 
Cùng với hai công trình vạm vỡ kể trên về ngữ âm và ngữ pháp, Cao Xuân Hạo còn viết một loạt các bài nghiên cứu khác, hầu hết được tập hợp in lại trong cuốn Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa (1998). Đây là những vấn đề cụ thể, anh viết ra để tiếp tục trình bày những khía cạnh của lý luận cũng như của thực tế ngữ liệu tiếng Việt. Qua đây, ta càng thấy học vấn uyên bác và tầm nhìn sâu rộng của anh trong nhiều lĩnh vực ngôn ngữ học trong nước và thế giới. Anh Hạo cũng đầy nhiệt huyết trong việc truyền thụ những kiến thức hữu ích vào bộ bộ môn Ngữ văn và Tiếng Việt trong nhà trường, tập trung thể hiện qua các tập sách anh viết chung với các thầy giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đông đảo độc giả không chuyên môn ngôn ngữ học cũng biết đến Cao Xuân Hạo qua giọng văn đầy chất trí tuệ, lại nhẹ nhàng châm biếm và hài hước có duyên trong nhiều bài anh viết trên các báo, mà hầu hết đã kịp in lại trong tập Tiếng Việt. Văn Việt. Người Việt (2001). Tôi biết, có một số học giả đáng kính phải chịu thua, không tài nào viết được một vài bài thật nhẹ nhàng và hồn nhiên để có thể “vừa cáu vừa cười” đi đến được với công chúng như anh Cao Xuân Hạo. Nhưng trước khi đến với công chúng với tư cách học giả, Cao Xuân Hạo từ lâu đã là một dịch giả được công chúng yêu thích qua những bản dịch các tác phẩm văn học Nga và văn học Pháp. Anh đã dịch bằng một thứ tiếng Việt mà Anh thực sự nắm được linh hồn của nó. Anh Hạo là người đa tài, mà tài nào cũng thực sự là tài. Nói đến ngoại ngữ, không phải chỉ lũ chúng tôi, những người từng nhiều năm ăn bánh mìở Nga về, mà cả người Nga cũng thán phục khả năng nói tiếng Nga lưu loát của anh, ngay cả khi họ chưa biết rằng anh chỉ tự học tiếng Nga qua Đài Tiếng nói Việt Nam. GS V.M. Sonlsev mỗi lần sang làm việc với Viện Ngôn ngữ học, đều hầu như chỉ yêu cầu anh Hạo dịch giùm. Và anh luôn được GS V.M. Sonlcev giúi    vào tay mấy bao thuốc lá, thứ mà Anh nghiện, để làm quà. Tôi không dám chắc là anh Hạo có nói được tiếng Trung Quốc hay không, nhưng qua những gì mà anh viết có đả động đến tiếng Hán chữ Hán, tôi có thể biết chắc là anh am tường về lịch sử tiếng Hán cũng như về đặc trưng của tiếng Hán và chữ Hán, một vốn tri thức Hán học rất đáng nể mà chưa chắc ai cũng dễ      dàng có được.
Trước khi tôi ngồi viết những dòng này trong nỗi hoài niệm về một người anh lớn trong học giới đã giã biệt chúng ta, bạn tôi bên văn học là anh Trần Đình Sử có gọi điện chia sẻ cùng tôi về nỗi hoài niệm tiếc thương này. Anh Sử bỗng nhắc tới hồi còn là một thiếu sinh ở Miền Trung, trong kháng chiến chống Pháp hay khi hoà bình mới lập lại gì đó, anh và các bạn anh vẫn thường hát một bài ca khá phổ biến trong giới sinh viên và học sinh thời bấy giờ mà giai điệu và lời ca chứa chan niềm tin vào Cách mạng, vào nền Dân chủ Cộng hoà của chúng ta. Tác giả khúc ca đầy nhiệt huyết đó là anh Cao Xuân Hạo. Được biết Anh còn sáng tác một số ca khúc trữ tình khác nữa. Song có lẽ cái tầm vóc cao lớn của anh với tư cách là một học giả uyên bác và có chủ thuyết, một dịch giả tài ba nữa, đã che khuất đi ở anh một con người nghệ sĩ ở tuổi thanh niên.
Anh đã ra đi thanh thản, nhẹ nhàng, sau khi đã kịp để lại cho chúng ta trên cõi đời này một tài sản tinh thần quý giá, đó là tất cả trí tuệ và tấm lòng của Anh đối với tiếng Việt, chữ Việt, người Việt và đất nước Việt Nam thân yêu./.
Hà Nội, Cuối Thu, ngày 21-10-2007
 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114511360

Hôm nay

223

Hôm qua

2336

Tuần này

21734

Tháng này

218233

Tháng qua

121356

Tất cả

114511360