Du lịch xứ Nghệ

Tác động của du lịch đối với đời sống vùng dân tộc thiểu số ở Nghệ An

Du lịch cộng đồng vùng DTTS đang từng bước trở thành nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế địa phương. Ảnh Hồ Đình Chiến

Du lịch là một trong những ngành lớn nhất trên toàn cầu, có thị trường phát triển nhanh, có thể mang lại nhiều lợi ích đến cho cộng đồng địa phương, tuy nhiên du lịch cũng có thể đe dọa đến nguồn lợi và phá vỡ giá trị văn hóa. Trong một thập niên trở lại nay, ngành du lịch Nghệ An đã chú trọng đầu tư, khai thác, phát triển du lịch ở khu vực dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi. Các hoạt động du lịch ngày càng phong phú, đa dạng, khai thác cả tài nguyên thiên nhiên và văn hóa, theo các phương thức truyền thống và hiện đại. Sức thu hút của du lịch ở vùng dân tộc và miền núi từng bước tăng lên, giá trị và sức sống tiềm tàng của nhiều tài nguyên du lịch được khai thác và khẳng định, mang lại những hiệu quả kinh tế, xã hội rõ rệt.

Theo Niên giám thống kê năm 2020, Nghệ An có 47 thành phần dân tộc khác nhau, chiếm 14,76% dân số trong toàn tỉnh. Tuy nhiên, DTTS chiếm tỷ lệ cao nhất là: Thái, Thổ, Khơ Mú, Mông, Ơ Đu tập trung chủ yếu ở các huyện miền núi và trung du như Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ hợp....Dù là địa bàn còn nhiều khó khăn, song vùng DTTS và miền núi phía Tây Nghệ An lại là nơi có nhiều lợi thế về phát triển du lịch. Tại đây,du khách không chỉ đượctham quan, thưởng lãm cảnh đẹp thiên nhiên mà còn được quan sát, trải nghiệm văn hóa bản địa thông qua các yếu tố phong tục tập quán, trang phục, ẩm thực, âm nhạc, ngôn ngữ...Các giá trị vật chất và tinh thần được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác đem đến bức tranh văn hóa đa dạng, muôn màu. Chính sự phong phú, đa dạng đó đã tạo nên sức hút cho du lịch di sản, tạo nên nét đặc thù, bản sắc riêng của sản phẩm du lịch.

Trong tất cả các DTTS sinh sống tại Nghệ An thì dân tộc Thái là dân tộc có sự tương tác mạnh mẽ nhất đối với ngành du lịch. Bởi dân tộc Thái là dân tộc thiểu số có số dân đông nhất tại Nghệ An, chỉ sau dân tộc Kinh, hơn nữa người Thái cũng có nhiều điểm tương đồng và thích nghi rất nhanh đối với sự thay đổi của cuộc sống. Người Thái tập trung đông nhất ở huyện Con Cuông, Tương Dương, Quỳ Châu. Từ năm 2010 trở lại nay, có nhiều điểm du lịch cộng đồng được đưa vào hoạt động và đạt hiệu quả cao như Bản Thái cổ Hoa Tiến - xã Châu Tiến, ở huyện Quỳ Châu, bản Khe Rạn - xã Bồng Khê, bản Nưa - xã Yên Khê, bản Xiềng - xã Môn Sơn ở huyện Con Cuông, bản Quang Phúc, Quang Thịnh - xã Tam Đình ở huyện Tương Dương…Những địa điểm này có đặc điểm chung là thuần dân tộc Thái, vì thế họ có đủ điều kiện và đủ khả năng để bảo lưu nguyên vẹn các nét văn hóa đặc sắc, truyền thống của người Thái. Đáng kể nhất là những ngôi nhà sàn bằng gỗ mà đến nay nhiều bản vẫn duy trì rất tốt nhà ở theo lối kiến trúc truyền thống nguyên bản. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất có tác dụng thu hút khách du lịch. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của người Thái rất phong phú với những làn điệu dân ca như lăm, khắp, nhuôn, xuối và những điệu múa sạp, lăm vông. Nhiều nhạc cụ độc đáo như cồng, chiêng, trống, khắc luống, sáo, khèn bè…Nghề và làng nghề truyền thống vẫn được bảo lưu và truyền dạy như nghề đan lát, nghề dệt thổ cẩm, rượu cần, rượu men lá. Người Thái cũng sử dụng những dụng cụ nhà bếp truyền thống như chõ nấu xôi bằng gỗ, bàn ghế bằng mây, ẩm thực người Thái cũng rất đa dạng, khá cầu kỳ trong chế biến mang hương vị rất riêng với các món ăn đặc sản núi rừng như thịt gà đen, lợn đen, cá mát, cơm lam, măng đắng... Đặc biệt có nhiều bản dân tộc Thái tại Tương Dương và Quỳ Châu đến nay vẫn còn lưu giữ được sản phẩm du lịch mang tính sáng tạo độc đáo gắn với đời sống văn hóa nông nghiệp của đồng bào cư dân vùng cao đó là guồng nước (cọn nước).

Ngoại trừ người Thái, Thổ, còn lại các DTTS ở Nghệ An hầu hết đều sinh sống trên núi cao, địa hình hiểm trở, đặc biệt sống cao nhất là dân tộc Mông, Khơ Mú. Người Mông không làm nhà sàn như người Thái và Khơ Mú mà lại làm nhà trệt bằng gỗ Sa mu, Pơ mu để tránh gió. Trang phục của người Mông không khoe vẻ đẹp cơ thể qua kỹ thuật cắt may như trang phục của người Thái, Thổ mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp ở trang trí, màu sắc, hoa văn của người Mông. Thời gian qua, tỉnh Nghệ An đã hỗ trợ kinh phí cho các hộ kinh doanh dịch vụ du lịch cộng đồng với nhiều hạng mục như xây dựng nhà vệ sinh, mua sắm trang thiết bị phục vụ nhu cầu ăn ở của khách du lịch, hỗ trợ đội văn nghệ của các thôn, bản mua sắm nhạc cụ và trang phục biểu diễn để phục vụ du khách. Ngoài ra, tỉnh còn mở các lớp tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn về du lịch, đào tạo tiếng Anh; hỗ trợ kinh phí tuyên truyền, quảng bá cho các địa phương có điểm du lịch cộng đồng...

Tuy các DTTS có sự khác biệt với nhau về phong tục tập quán, nhưng tài nguyên thiên nhiên và du lịch sinh thái vẫn đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của dân tộc ít người. Hầu hết các hang động, thác nước, rừng nguyên sinh quý hiếm đều tập trung ở miền núi phía Tây nơi phân bố đông nhất đồng bào DTTS như hang Bua, hang Thẩm Ồm, thác Khe Kèm, thác Bảy tầng...Đặc biệt, vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát với diện tích phần lớn nằm ở huyện Con Cuông có một bộ tộc người thiểu số sống ở vùng sơn cùng thủy tận đó là tộc người Đan Lai. Nơi đây cũng đang là điểm đến của du khách ưa thích khám phá thiên nhiên, đi bộ, chèo thuyền kết hợp trải nghiệm văn h bản địa của đồng bào DTTS và homestay, chơi các trò chơi dân gian như ném còn, đu quay, trải nghiệm trên khung cửi để dệt vải, xe tơhay tự mình vào bếp để chế biến các món ăn dân giã của đồng bào... Du lịch có thể kích thích các ngành nghề khác cùng phát triển như giao thông, ăn uống, lưu trú, trang phục, từ đó tạo ra việc làm tại chỗ cho người lao động, góp phần tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống, từng bước xóa đói, giảm nghèo và dần xóa bỏ phong tục di cư của người dân từ vùng này qua vùng khác, từ đó nâng cao mức sống cho đồng bào DTTS.

Du lịch không chỉ có những tác động về kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến cuộc sống cá nhân của đồng bào DTTS. Du lịch tác động lên cách sống, truyền thống văn hóa cũng như suy nghĩ tình cảm của người dân. Du lịch đẩy mạnh phong trào văn hóa, văn nghệ ở địa phương, đẩy lùi những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan. Du lịch khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, từ đó, thôi thúc họ có ý thức bảo tồn văn hóa truyền thống, quảng bá hình ảnh vùng đất và con người miền Tây Nghệ An đến với bạn bè trong nước và quốc tế. Nhờ các định hướng trong phát triển du lịch, nhiều di sản văn hóa trước đây bị mai một nay đã được phục hồi như: kiến trúc nhà truyền thống của người Thái, Mông, Khơ Mú, trang phục thủ công, âm nhạc, món ăn dân giã... được gìn giữ và phát huy. Vì vậy, du lịch cũng giúp mọi người  hiểu nhau hơn, được gần gũi nhau hơn tạo nên tình đoàn kết, giúp củng cố các mối quan hệ xã hội cũng như ý thức của người dân về công tác bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và xây dựng cảnh quan.

Như vậy, du lịch có vai trò rất quan trọng đối với đời sống vùng DTTS tại Nghệ An, đánh thức nhiều tiềm năng và góp phần bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, giao lưu, hội nhập văn hóa giữa các dân tộc, nếu không biết cách định hướng thì nền văn hóa của dân tộc Kinh sẽ ảnh hưởng quá nhanh vào mọi mặt sinh hoạt cộng đồng của các DTTS, nhất là dân tộc Thái, Thổ, từ đó dẫn đến nguy cơ mai một, phai nhạt dần bản sắc văn hóa các dân tộc. Ở một phương diện khác, sự phổ cập rộng rãi của tiếng Việt trong khu vực DTTS làm cho ngôn ngữ dân tộc Thái, Thổ, Mông, Khơ Mú... pha tạp tiếng Kinh. Vùng DTTS trước đây ít giao tiếp xã hội, giao lưu văn hóa hạn chế hơn. Nhưng khi du lịch phát triển, sự giao thoa văn hóa được mở rộng thì chính đồng bào lại mong muốn được học hỏi ở người Kinh nhiều hơn, sinh hoạt, giao tiếp giống như người Kinh hơn. Sự tác động bên ngoài chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa tiêu dùng dẫn đến rất nhiều người dần thiếu hụt hoặc đánh mất đi cảm giác tự tin, nảy sinh tâm lý mặc cảm, tự ti dân tộc, từ đó chủ động rũ bỏ nhiều thứ thuộc về mình. Đặc biệt những DTTS có số lượng người quá ít như Ơ Đu, Đan Lai lại càng ít có khả năng và điều kiện để tự bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc mình. Đây là vấn đề cần hết sức lưu tâm, bởi du khách thường muốn được trải nghiệm một nền văn hóa mới mẻ, lạ lẫm, đó chính là lý do họ đi du lịch. Những bản sắc văn hóa dân tộc được du khách thích tìm hiểu, khám phá như tiếng nói, phong tục tập quán, trang phục...nếu bị mai một, sa sút và biến mất đi thì sẽ ảnh hưởng tới sự lựa chọn của du khách.

Có thể khẳng định phát triển du lịch cộng đồng vùng DTTS đang từng bước trở thành nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế và du lịch địa phương. Tuy nhiên, để phát triển du lịch một cách bền vững và không làm ảnh hưởng nền văn hóa đặc sắc của đồng bào DTTS thì cần có sự thông hiểu, chung sức của chính quyền, đoàn thể và cả Nhân dân. Cần xây dựng mối liên kết giữa địa phương, doanh nghiệp và các nhà quản lý để tạo ra những sản phẩm văn hóa tiêu biểu có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, dễ tiếp cận đối với du khách nhưng không làm ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục của địa phương. Du khách đến tham quan lưu trú tại các bản làng, điểm du lịch ở các vùng DTTS cũng cần tuân thủ và tôn trọng phong tục tập quán, lối sống và văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc. Và đặc biệt, điều quan trọng là cần có phương án bảo tồn khẩn cấp các giá trị văn hóa được coi là linh hồn của dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một như ngôn ngữ, trang phục, dân ca, dân vũ, kiến trúc nhà ở... phải làm sao xây dựng cho được những sản phẩm du lịch mang sắc thái lạ, hp dẫn, có nhiều yếu tố đặc sắc, đặc thù cho từng tộc người, từng vùng khác nhau. Tuyệt đối chống hàng giả trong xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa DTTS, không làm giả các sinh hoạt văn hóa truyền thống na ná giống nhau nhằm mục đích thu hút khách du lịch. Điều đó sẽ làm biến dạng hoặc thương mại hóa các giá trị văn hóa bản địa.

Bài do tác giả gửi VHNA

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114515855

Hôm nay

2193

Hôm qua

2340

Tuần này

21456

Tháng này

213794

Tháng qua

121009

Tất cả

114515855