Trong giảng sử và tạp kịch Tống-Nguyên, Gia Cát Lượng trở thành nhân vật túc trí đa mưu có pháp thuật, nhuốm màu đạo sĩ thần kì.
Trong giảng sử và tạp kịch Tống-Nguyên, Gia Cát Lượng trở thành nhân vật túc trí đa mưu có pháp thuật, nhuốm màu đạo sĩ thần kì.
Giảng sử, bình thoại, hý khúc, kinh kịch - những thể loại nhắm tới đại chúng cũng thường thiên về tô đậm hình ảnh một vị quân sư thần mưu diệu toán, tiên phong đạo cốt, trong bất kỳ hoàn cảnh nguy nan nào cũng ung dung bình thản với cây quạt lông trên tay. Tác giả tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa đương nhiên cũng chú trọng khắc họa phong cách đó, thậm chí đã đẩy việc miêu tả phương diện thông minh tài trí lên đến một đỉnh cao điển phạm làm hình thành ấn tượng mà Mao Tôn Cương đã khái quát - ấn tượng về một đấng “tuyệt trí” bên cạnh một “tuyệt gian” Tào Tháo và “tuyệt nghĩa” Quan Công (Tam Quốc tam tuyệt).[1] Tuy thế ai từng đọc kỹ Tam Quốc Diễn Nghĩa đều phát hiện thấy việc đó dường như cũng chưa phải là trọng tâm của tác gia tiểu thuyết và rằng ấn tượng về một vị quân sư tài trí cơ mưu cũng chỉ là kết quả của một lối đọc thông tục thích thú quan tâm theo dõi cốt truyện li kỳ mà thôi. Việc đó cũng tương tự như cách hiểu thông tục về một Lưu Bị - nhân vật được xem là hình ảnh kết tinh lý tưởng một ông vua nhân nghĩa hay hình dung phổ biến về một Tào Tháo gian hùng đáng lên án từ đầu đến chân. Huống nữa, không thể không công nhận tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa dường như cũng đã phải trả giá ít nhiều cho việc biểu hiện cái “tuyệt trí” của nhân vật Gia Cát Lượng. Từ Hồ Thích buổi đầu thế kỉ XX cho đến Hạ Chí Thanh những năm giữa thế kỷ XX, nhiều học giả đều nhận thấy La Quán Trung trên thực tế vì để biểu hiện tài trí tuyệt vời của Khổng Minh nên vô hình trung biến các nhân vật đối thủ từ Chu Du, Lỗ Túc cho đến Tư Mã Ý về sau thành ra những kẻ ít nhiều ngây thơ và ngờ nghệch. Và cho dù là chính sử (từ chú giải Tam Quốc Chí của Bùi Tùng Linh cho đến Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang) đã xác nhận việc hỏa công nhờ gió đông trong trận Xích Bích thì việc cắt nghĩa trời trở gió bằng tình tiết cầu phong của Gia Cát Lượng dẫu sao vẫn gây ra ít nhiều khó chịu cho những độc giả đòi hỏi cao về nghệ thuật xử lý cốt truyện tiểu thuyết.[2]
Gia Cát Lượng như sử sách kí tải hẳn là một nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc trong thời đại Tam Quốc. Tam Quốc Chí nhận định chung Gia Cát Lượng giỏi nhất việc việc trị quốc yên dân, kế đó mới là tài cầm quân, mà việc ứng phó với biến hoá trên chiến trường thì không phải là mặt mạnh của ông (“Ứng biến tướng lược phi kì sở trường”- xem Tam Quốc Chí, phần Gia Cát Lượng truyện thuộc Thục thư).[3] B.L.Riftin tỏ thái độ không đồng ý với tác giả bộ sử Tam Quốc Chí trong việc đánh giá tài năng quân sự của Gia Cát Lượng. Học giả người Nga viết trong Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc: “Những người nghiên cứu công trình của Trần Thọ tìm thấy trong thế giới quan của ông nhiều chỗ mâu thuẫn thường thường gắn liền với những lí do có tính chất cá nhân lộ liễu. Chẳng hạn người ta biết rằng Gia Cát Đản con trai Gia Cát Lượng khinh bỉ nói về Trần Thọ, và xem ra nhà sử gia trả thù anh ta khi viết: “Đản chỉ đọc sách, tiếng tăm của ông ta vượt xa những cống hiến thực tế của ông ta”. Ở trên đã nói đến sự quan tâm của Trần Thọ tới di sản của chính Gia Cát Lượng. Thọ thậm chí đã viết liệt truyện chi tiết của ông ta. Song những lời sau đây là của Trần Thọ: “Lượng không giỏi với tư cách một vị tướng và không đủ tài năng để chiến thắng kẻ thù”. Tính chất bất công của những lời đánh giá như vậy là hiển nhiên đối với các tác giả Tấn sử, là những người dẫn những lời trích dẫn này trong Trần Thọ liệt truyện, nhưng nhận xét rằng những đoạn như vậy ở nhà sử gia Tam quốc không phải là nhiều”.[4]
Nhìn chung sử Tam Quốc Chí thiên về nhấn mạnh hoạt động quản lý quốc gia của một bậc tướng quốc hơn là quan tâm đến cuộc đời trận mạc của một vị quân sư. Tam Quốc Chí chép công kiến thiết, xây dựng nền hành chính của Khổng Minh ở Ba Thục khá tường tận. Sự nghiệp kinh bang tế thế của Gia Cát Lượng ở Thục Quốc (chủ yếu tại vùng Tây Xuyên lấy từ tay Lưu Chương, vùng mà Lưu Bị định đô và trở thành hậu phương của công cuộc bắc phạt sau ngày Quan Công để mất trọng địa Kinh Châu) mà chính sử chép để lại ấn tượng về một Khổng Minh nhà hoạt động chính trị kết hợp một cách nhuần nhuyễn Nho gia với Pháp gia. Trong đó yếu tố pháp trị dường như có phần nổi trội hơn. Điều đó cũng dễ hiểu trong tình hình đất mới thay chủ và quốc gia cần ổn định để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh lên phía bắc thu phục Trung nguyên, khôi phục Hán triều.
Tất cả những điều đó - tài trí siêu phàm và trị quốc hiệu quả của Gia Cát Lượng vẫn được tiếp tục biểu hiện trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa. Thế nhưng tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa đồng thời với việc tô đậm tài trí siêu phàm còn ra sức khắc sâu nội hàm nhân cách đạo đức cho nhân vật. Kết quả là người đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa không chỉ phục tài mà còn mến đức Gia Cát Lượng. Đức trung thứ, tâm hồn kiên trinh, cuộc đời liêm chính, cung cúc tận tụy, tri thiên mệnh mà vẫn gắng gỏi chuyện đời, độ tinh tế trong ứng xử các mối quan hệ nhân sinh…tất cả những nét nhân cách đó của Khổng Minh được tác giả bộ tiểu thuyết khắc hoạ rất nhuần nhã tạo nên một bề sâu hiếm thấy cho hình tượng thừa tướng nước Thục. Khác với lối trần thuật ngôn hành khô khan đơn điệu của chính sử, tự sự của tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa đã cho ta thấy một con người Khổng Minh sinh động khả cảm, khả ái. Nhiều tình tiết, câu chuyện mà bản thân chúng không hợp hoặc khó cho lối kể chuyện kiểu bình thoại, thuyết thư mà cũng không quan trọng lắm đối việc chép sử lại trở nên rất khả thủ trong tự sự tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa. Những tình tiết, mẩu chuyện đó rất giàu sức biểu hiện. Chúng khiến cho hình tượng vị quân sư được khắc họa một cách đầy đặn và chân thực hơn. Có thể tìm thấy những tình tiết như vậy từ trong những trần thuật của tác giả về mối quan hệ giữa Khổng Minh với Quan Công và Trương Phi - hai hiền đệ của chúa công nhưng đồng thời lại là đại tướng thuộc quyền chỉ huy của mình. Độc giả không khó phát hiện thấy thái độ bất phục tùng lúc công khai lúc ngầm ngầm, cố tình làm khó dễ của hai tướng Quan Trương đối với vị quân sư ngay từ những ngày đầu. Riêng đối Trương Phi thì từ thuở theo đại ca tam cố thảo lư đã từng đòi ném lửa đốt nhà xem tên thôn phu quèn có chịu dậy tiếp huynh trưởng hay không. Như tuồng vị quân sư trẻ tuổi dài lưng tốn vải vì chen ngang vào cái quan hệ tình cảm vườn đào kia mà suốt đời đã hứng lấy mối kỳ thị ghen tuông vô hình đến từ cả Quan Công lẫn Trương Phi. Còn chúa công Lưu Bị trong khi đã để toàn quyền cho Khổng Minh nhưng vẫn vì mối tình thân với riêng hai người em “không sinh cùng năm nhưng thề chết cùng ngày” mà thường đem lại những khó xử cho quân sư. Như ta đọc thấy, chẳng hạn khi Quan Công để mất Kinh Châu rồi chết về tay Đông Ngô, Lưu Bị bất chấp lời khuyên của Khổng Minh đã cất quân cả nước trả thù cho em. Kết quả là toàn bộ chiến lược của thừa tướng đã bị phá sản. Lưu Bị ăn năn đà đã muộn, nhuốm bệnh lâm chung. Thử đọc màn trần thuật cảnh Lưu Bị trối trăng cùng Khổng Minh:
“(Lưu Bị đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Công bại trận chạy về Bạch Đế thành, ốm nằm thấy Quan Trương đến báo mộng, tỉnh dậy biết mình không còn sống được bao lâu-LTT) Liền sai sứ về Thành Đô, mời thừa tướng và bọn thượng thư lệnh Lý Nghiêm đi gấp ngày đêm đến thành Bạch Đế nghe di mệnh. Khổng Minh cùng các quan đem con thứ Tiên Chủ là Lỗ Vương Lưu Vĩnh và Lương Vương Lưu Lý đến chầu ở cung Vĩnh An thăm bệnh, để Thái Tử Lưu Thiện ở lại coi Thành Đô.
Khổng Minh đến cung Vĩnh An, thấy Tiên Chủ bệnh đã nguy kịch, vội vàng phủ phục cạnh long sàng. Tiên Chủ truyền mời ngồi lên cạnh mình, đưa tay vỗ vỗ vào lưng Khổng Minh mà bảo rằng: “Trẫm từ khi có được thừa tướng, may thành được đế nghiệp. Vì nỗi trí thức thiển lậu, không nghe lời thừa tướng, tự rước lấy thảm bại. Ân hận thành bệnh, chưa biết sống chết lúc nào. Con nối nghiệp thì ngu hèn, trẫm không thể không đem đại nghiệp mà ủy thác cùng thừa tướng.” Nói đoạn, nước mắt dàn giụa. Khổng Minh cũng khóc nói: “Mong bệ hạ bảo trọng long thể, để thỏa lòng trông đợi của thiên hạ.” Tiên Chủ đưa mắt ngó quanh một lượt thấy có Mã Tốc em của Mã Lương đang đứng gần cạnh, bèn truyền cho tạm lui. Mã Tốc lui ra. Tiên Chủ bảo cùng Khổng Minh rằng: “Thừa Tướng coi tài Mã Tốc ra sao?” Khổng Minh đáp: “Người này cũng là anh tài thời nay.” Tiên Chủ bảo: “Không phải, trẫm xem người này nói nhiều mà làm thì không được như lời, không nên dùng vào việc lớn. Thừa tướng phải xét cho kỹ.” Dặn dò xong, truyền gọi các quan lên điện, lấy giấy bút thảo xong di chiếu đưa cho Khổng Minh mà than rằng: “Trẫm không học hành sách vở được gì, chỉ biết đại khái mà thôi. Thánh nhân có câu “Con chim sắp chết, tiếng kêu ai oán; người ta sắp chết, lời nói khôn ngoan.” Trẫm vốn những mong cùng các khanh diệt giặc Tào chung phò nhà Hán. Không may nửa đường chia biệt. Vậy phiền Thừa Tướng cầm chiếu này trao cho Thái Tử Thiện, bảo nó chớ xem đó là lời nói thường. Phàm mọi việc còn mong thừa tướng dạy bảo thêm cho nó!” Khổng Minh cùng các quan khóc lạy dưới đất: “Xin bệ hạ tĩnh dưỡng long thể, chúng thần nguyện đem hết sức trâu ngựa để báo đền ơn tri ngộ!” Tiên Chủ sai nội thị dìu Khổng Minh dậy, một tay gạt lệ, một tay cầm lấy tay Không Minh mà rằng: “Trẫm chết đến nơi rồi, còn lời tâm phúc ngỏ cùng Thừa Tướng đây.” Khổng Minh nói: “Bệ hạ thánh dụ điều gì?” Tiên Chủ khóc nói: “Tài Thừa Tướng gấp mười Tào Phi, tất có thể an bang định quốc, hoàn thành nghiệp lớn. Con trẫm nếu phò trợ được thì làm, nhược bằng nó bất tài thì tiên sinh tự làm chủ nhân của Thành Đô vậy.”[5] Khổng Minh vừa nghe, tay chân rụng rời, mồ hồi đổ khắp mình, khóc lạy dưới đất: “Thần đâu dám không hết sức cạn lực, dốc niềm trung trinh cho đến chết mới thôi!” Dứt lời, rập đầu xuống đất đến chảy máu. Tiên Chủ bảo Khổng Minh ngồi lại lên gường, gọi Lỗ Vương Lưu Vĩnh, Lương Vương Lưu Lý đến trước mặt, dặn rằng: “Chúng mày phải nhớ lời trẫm: sau khi trẫm mất rồi, ba anh em mày phải coi Thừa Tướng như cha, không được khinh nhờn.” Nói đoạn, sai hai con cùng lạy Khổng Minh. Hai Vương bái lạy xong, Khổng Minh nói: “Thần dù gan óc lầy đất cũng không báo đáp được ơn tri ngộ này.” Tiên Chủ bảo các quan: “Trẫm đã giao con côi cho Thừa Tướng, bảo chúng coi Thừa Tướng như cha. Các khanh cũng chớ coi thường mà phụ lòng trông đợi của trẫm.” Lại dặn Triệu Vân: “Trẫm với khanh cùng nhau từ thuở gian nan, hoạn nạn vui buồn có nhau cho đến giờ, không ngờ chia biệt ở đây. Khanh nghĩ đến tình cố cựu mà sớm hôm trông nom con trẫm, chớ phụ lời trẫm!” Triệu Vân khóc lạy nói: “Thần há dám không hết sức khuyển mã.” Tiên Chủ lại bảo với các quan: “Bá quan các khanh, trẫm không thể dặn dò từng người một, chỉ mong mỗi người ai cũng bảo trọng!” Dứt lời vua băng, thọ 63 tuổi. Bấy giờ là ngày 24 tháng Tư, mùa hạ, năm Chương Võ thứ ba (công lịch 222 - LTT).”[6]
Ngay cả với những độc giả quen nết đọc cho biết cốt truyện cũng không thế không thầm phục tài tự sự quán xuyến diễn biến toàn sách của tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa. Chi tiết Mã Tốc trong đoạn trên xem ra có vẻ hơi lạc lõng thế nhưng chỉ khi ta đọc đến hồi 95 kể chuyện Khổng Minh mắc sai lầm dùng Mã Tốc ở trận Nhai Đình thì mới bộc lộ tính đích đáng của nó. Tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa đã tô đậm đoạn “Tiên Chủ lâm chung phó thác con côi” thành một màn tự sự giàu sức biểu cảm. Trần thuật của tác giả cho thấy so với đoạn kí tải thuật kể sơ lược trong Tam Quốc Chí kịch tính của màn chuyện này được nâng cao lên rất nhiều. Khổng Minh dường như đã trở thành nhân vật chính của màn chuyện. Lưu Bị lâm chung ngoái đi ngoảnh lại cũng chỉ trực tiếp trối trăng dặn dò có mấy người. Không kể hai người con (đáng lẽ phải có con trưởng Lưu Thiện) thì chỉ có nói chuyện cùng Khổng Minh rồi Triệu Vân. Thái tử kế vị ngày nay chính là ấu chúa A Đẩu mà Triệu Vân bọc trước ngực tả xung hữu đột phá trùng vây quân Tào cứu ra năm xưa. Khi đó Lưu Bị “quẳng con xuống đất, nói Vì mày, suýt nữa ta mất một viên đại tướng” (hồi 42) thì giờ đây giao con cho Thừa Tướng, Lưu Bị còn dặn dò thêm Triệu Vân nữa. Lưu Bị năm xưa quăng con mà khiến cho Triệu Vân “dù gan óc lầy đất cũng không đủ báo đáp” thì giờ đây trao con lại “khiến cho Thừa Tướng nguyện “dốc lòng trung trinh đến chết mới thôi”. Đằng sau câu chuyện tình vua tôi, nghĩa quân thần cảm động lòng người, đằng sau sự thú vị của tình tiết được trình bày hết sức chọn lọc, một độc giả tinh tường sẽ còn đọc thấy biết bao ý vị nhân sinh và dư ba trong tâm tư. Chính điều đó làm nên chiều sâu nội tâm, đường nét nhân cách cho các hình tượng nhân vật, gợi lên sự sâu thẳm của cuộc đời nhân thế. Lưu Bị vì sao mà trối cùng Khổng Minh “Con trẫm nếu phò trợ được thì làm, nhược bằng nó bất tài thì khanh tự làm chủ nhân của Thành Đô vậy (Chúng tôi nhấn mạnh bằng in nghiêng- LTT)”? Còn Khổng Minh vì sao mà vừa nghe mấy lời đó đã “tay chân rụng rời, mồ hồi đổ khắp mình, khóc lạy” “rập đầu đến chảy máu”? Mĩ nhân đẹp cho người yêu mình, kẻ sĩ chết cho người tri kỉ. Thuật hoài, ngôn chí suy cho cùng cũng chỉ là bút mực lời chữ. Muốn tỏ được lòng trung trinh, lập trường kiên định nhiều lúc phải máu nhuộm cờ đào, gan óc lầy đất, gói thân da ngựa mới thỏa nguyện cam lòng.
Thế giới nhân vật Tam Quốc là thế giới của gồm cả những minh quân hiền tướng năng thần lẫn hôn quân bạo chúa nịnh thần tặc tử cho chí vô số những anh tài trên các phương diện chính trị ngoại giao quân sự. Trong đó hạng mưu sĩ thuyết khách sớm Sở tối Tần - một đặc sắc của thời đại được mô tả khá sinh động. Có sử gia liên hệ đến tình trạng tự do lưu thông nguồn nhân lực trong một số khu vực trên thế giới ngày nay. Người ta cũng chú ý đến ngoài thường lệ chúa chọn bề tôi còn có hiện tượng anh tài chọn minh chủ trong Tam Quốc. Ai cũng thấy Trần Cung chọn thờ Lã Bố là sai, nhưng cũng có người tiếc Khổng Minh không theo phò Tào Tháo. Có thể vào thủa tam cố thảo lư, Lượng chưa thấu được cái tài diễn điều nhân của Bị nhưng cái sáng suốt của kẻ “nắm được xu thế của lịch sử” chắc đã khiến cho kẻ sĩ này ngần ngại khi rời Ngọa Long Cương. Thế nhưng nếu Khổng Minh không ra khỏi lều tranh thì Tam Quốc ai biết rồng ngọa Nam Dương? Vậy mà ở đời nhiều khi chỉ vì nặng một lời nguyền, một lời thác gửi đinh ninh của đồng chí mà cam lòng dấn thân làm đấng bậc giữa đời. Dù có khi biết sức không trì níu nổi cuộc cờ canh bạc hoặc biết rõ oan khốc lăng loàn sẽ đổ xuống giữa đầu. Nhưng bù lại họ đã có thể nhắm được mắt xuôi được tay, tâm hồn chính nhân an nhiên cùng cây cỏ. Khổng Minh chắc chắn là một người như thế.
Tác giả Tam Quốc chí diễn nghĩa tìm cách nhấn mạnh màu sắc nho gia và ý vị bi kịch trong hình tượng Khổng Minh. Quả đúng như nhận xét tinh tường của Hạ Chí Thanh: “Việc Khổng Minh nhận gánh vác cái trách nhiệm giúp rập Lưu Bị - người được xem là thừa kế hợp pháp chính thống dòng dõi nhà Hán phục hưng Hán triều tỏ rõ lập trường nho gia của ông” (Trung Quốc cổ điển tiểu thuyết sử luận, Giang Tây nhân dân xuất bản xã, tr.56). Vốn định tiêu dao ngày tháng giữa sơn lâm, Khổng Minh từng phất tay áo bỏ đi khi Từ Thứ muốn giới thiệu ông ra giúp đời (hồi 36). Vậy mà cảm cái đức ân cần, ơn tri ngộ và tấm lòng thành khẩn của Hoàng thúc, Khổng Minh cuối cùng đã giã từ lều tranh Nam Dương. Cố tránh đường nhập thế phần lớn vì bản thân ông biết trước khó lòng xoay chuyển mệnh trời, mà rốt cuộc đành dấn thân cho sự nghiệp - ấy là phong độ của một kẻ sỹ biết rõ không thể làm mà gắng gỏi làm, cúc cung tận tụy tử nhi hậu dĩ - một lòng tận tụy cho sự nghiệp đến chết mới thôi. Không biết cho đến tận lúc quẩy lại gánh nặng non sông Thục Hán mà tiên chúa phó lại rồi trút hơi thở cuối cùng giữa đường hành quân thu phục Trung Nguyên, Khổng Minh có biết câu mà người bạn thời ẩn dật Nam Dương Tư Mã Huy nói khi Lưu Bị tìm đến Ngọa Long Cương năm xưa - “Khổng Minh tuy gặp chủ, nhưng không gặp thời, tiếc thay!”[7] hay không? Thành thử, đọc hết bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa độc giả phục tài thần mưu diệu toán của quân sư quân Thục quốc một phần mà càng cảm bội phần đức trung thứ, chí công vô tư, tinh thần hy sinh, xử thế nghĩa dũng, cuộc đời thanh bạch liêm khiết của vị thừa tướng Thục Hán. Đỗ Phủ dường như cũng chung phần cảm nghĩ khi viết câu bất hủ “Xuất sư vị tiệp thân tiên tử, Trường sử anh hùng lệ mãn khâm” (Sự nghiệp chửa thành quân sư đã sớm mất, Mãi khiến bậc anh hùng tiếc thương lệ đầm vạt áo).[8]
Cùng với võ tướng Triệu Tử Long, quân sư Gia Cát Lượng là một nhân vật có lẽ giành được cảm tình trọn vẹn nhất của cả tác giả lẫn độc giả. Chúng ta thậm chí có quyền nghĩ tới việc cho đây là cặp nhân vật lý tưởng trong bộ tiểu thuyết trường thiên này.[9]
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Thọ, Tam Quốc chí (Bùi Tùng Linh chú), Trung Hoa thư cục, 1959.
2. La Quán Trung, Tam Quốc diễn nghĩa (thượng, hạ quyển), Nhân dân xuất bản xã, 2004.
3. La Quán Trung, Tam Quốc diễn nghĩa (ba tập), Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỉ-Lê Huy Tiêu hiệu đính, Nxb. Văn Học, 2004.
4. La Quán Trung, Tam Quốc chí diễn nghĩa (2 tập), lời bình Mao Tôn Cương, dịch thuật Tử Vi Lang, Nxb. Văn hoá Thông tin, 2006.
5. La Quán Trung, Tam Quốc chí diễn nghĩa (hai tập), lời bình Mao Tôn Cương, dịch thuật Mộng Bình Sơn, Nxb. Văn hoá Thông tin, 2006.
6. Sử Ký của Tư Mã Thiên, Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê giới thiệu, trích dịch và chú thích, Lá Bối in lần thứ nhất 1970, Saigon-Vietnam.
7. Claudine Salmon biên soạn, Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc tại Á châu, Trần Hải Yến dịch, Nxb. KHXH, 2004.
8. B.L.Riftin, Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc, Phan Ngọc dịch từ nguyên bản tiếng Nga, Nxb. Thuận Hoá – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.
9. Lỗ Tấn, Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Bách Hoa văn nghệ xuất bản xã, bản in năm 2002.
10. Trung Quốc văn học thất luận - Seven Topics on Chinese Literature, Quảng Tây Sư phạm Đại học Xuất bản xã (Guangxi Normal Univ. Press).
11. Lưu Sóc, Tiểu thuyết khảo tín biên, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1997.
12. Chu Nhất Huyền, Tam Quốc diễn nghĩa tư liệu hội biên, Bách hoa văn nghệ xuất bản xã, bản in 1983.
13. Trịnh Chấn Đạc, Văn học đại cương -Literature compendium, Trung Hoa thư cục xuất bản lần đầu 1926, Quảng Tây sư phạm đại học xuất bản xã tái bản, 2003.
14. Hayden White, Hậu hiện đại lịch sử tự sự học, Trần Vĩnh Quốc–Trương Vạn Quyên dịch, Trung Quốc xã hội khoa học xuất bản xã xuất bản, bản in năm 2003.
15. Chu Nhất Huyền, Minh Thanh tiểu thuyết tư liệu tuyển biên, Tề Lỗ thư xã, bản in 1990.
16. Hoàng Sương-Hứa Kiến Bình, Nhị thập thế kỷ Trung Quốc cổ đại văn học nghiên cứu sử - Tiểu thuyết quyển, Đông Phương xuất bản trung tâm, 2006.
17. Andrew H. Plaks, Trung Quốc tự sự học, Bắc Kinh đại học xuất bản xã, bản in 1996.
18. Tôn Khải Đệ, Tam Quốc chí bình thoại dữ Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa, Văn Sử, quyển 1, 2 kì, 6/1934.
19. Hồ Thích cổ điển văn học nghiên cứu luận tập, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, bản in 1998.
20. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, Nxb. Lao động, 2006.
21. Minh Thanh tiểu thuyết nghiên cứu, Kỳ 1, năm 2000.
22. Hạ Chí Thanh, Trung Quốc tiểu thuyết sử luận (Hồ Ích Dân, Thạch Hiểu Lâm, Đơn Khôn Cầm dịch từ bản tiếng Anh The Classic Chinese Novel), Giang Tây nhân dân xuất bản xã, bản in 2001.
23. Chúc Tú Hiệp, Tam Quốc nhân vật tân luận, Thượng Hải, Quốc tế văn hóa phục vụ xã, 1948
24. Lỗ Tư Miễn, Tam Quốc diễn nghĩa nghiên cứu luận văn luận tập, Bắc Kinh, Tác gia xuất bản xã, 1957.
Chú thích:
[1]Lời Mao Tôn Cương: “Ngô dĩ vi Tam Quốc hữu tam kì, khả xưng tam tuyệt: Gia Cát Khổng Minh nhất tuyệt dã, Quan Vân Trường nhất tuyệt dã, Tào Tháo diệc nhất tuyệt dã” - Độc Tam Quốc Chí Pháp.
[2] Cách nói Tam Quốc diễn nghĩa là một tập binh thư suy cho cùng cũng chỉ là một lối so sánh mà thôi. Những mưu mẹo trong bộ tiểu thuyết không phải là những khuôn mẫu luôn luôn đúng. Việc trình bày nó cũng không phải là kín kẽ hoàn toàn. Một độc giả đã từng đọc nhiều tiểu thuyết trinh thám hay truyện tình báo phương Tây chắc chắn sẽ bất mãn ít nhiều khi đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa.
[3] Nguyên văn cả đoạn: “Khả vị thức trị chi lương tài. Quản, Tiêu chi á bỉ hĩ. Nhiên liên niên động chúng, vị năng thành công, cái ứng biến tướng lược, phi kì sở trường!”
[4] B.L.Riftin, Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc (Bản dịch Phan Ngọc, Nxb. Thuận Hoá – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây).
[5] Tam Quốc Diễn Nghĩa lấy nguyên đoạn lời Lưu Bị từ Gia Cát Lượng truyện - Thục Thư - Tam Quốc Chí, chỉ thay đổi mấy chữ cuối cùng “Nhược kì bất tài, quân khả tự thủ” (Nếu con ta bất tài, khanh có thể tự mình tự làm chủ lấy) thành “Nhược kì bất tài, quân khả tự vi Thành Đô chi chủ”. Hàm ý đi từ chỗ mơ hồ (tự thủ - thay thế mà làm hoặc nói làm thay) chuyển sang rõ ràng xác định (tự là chủ nhân của kinh đô). Chả trách Khổng Minh nghe xong “tay chân rụng rời, mồ hồi đổ khắp mình, khóc lạy dưới đất”, đáp lời xong còn “rập đầu xuống đất đến chảy máu” (chúng tôi nhấn mạnh bằng in đậm-LTT). Xin nhớ là trong Gia Cát Lượng truyện (Tam Quốc Chí) không có các chi tiết đó! Mới biết hàm súc trong văn đâu phải là số chữ , số lời. Và cái sự thực, ý vị nhân sinh mà tiểu thuyết diễn tả đâu phải là thứ mà kí tải lịch sử (chí/thư/lục) phản ánh được!
[6] Tam Quốc Diễn Nghĩa, Nhân dân văn học xuất bản xã, bản in lần thứ 13, 2004, hồi 85, quyển hạ, tr.697.
[7] Nguyên văn: “Ngọa Long tuy đắc kì chủ, bất đắc kì thời, tích tai!”. Xem Tam Quốc Diễn Nghĩa, Nhân dân văn học xuất bản xã, bản in lần thứ 13, 2004, hồi 63, quyển thượng, tr.310.
[8] Đỗ Phủ viết Thục tướng (Thừa tướng nhà Thục) vịnh Khổng Minh:
Tam cố tần phiền thiên hạ kế,
Lưỡng triều khai tế lão thần tâm.
Xuất sư vị tiệp thân tiên tử,
Trường sử anh hùng lệ mãn khâm
Tạm diễn nghĩa:
Ba lần đến thảo lư vời hỏi kế sách bình thiên hạ,
Hai triều sáng nghiệp tấm lòng của lão thần.
Sự nghiệp chửa thành quân sư đã sớm mất,
Mãi khiến cho bậc anh hùng tiếc thương lệ đầm vạt áo.
[9] Triệu Vân trên thực tế đã trở thành tùy tướng của Khổng Minh. Khổng Minh trước sau giữ một mối cảm tình nồng hậu đối viên tướng này. Trần thuật của tiểu thuyết cũng cho ta thấy Tử Long đáng gọi văn võ song toàn kiêm gồm trí dũng. Triệu cũng là một danh tướng đã để cho “nhân gian được thấy đầu bạc”, khác với phần đa những chiến tướng đã kết liễu đời mình ngoài cửa trận. Trần thuật về Triệu Vân và Gia Cát Lượng có thể nói dường như không có yếu tố gọi là “phúng dụ ngầm”.
2266
2315
21417
220353
121356
114513480