Sách do Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội tổ chức in ấn và phát hành năm 1907 nhân việc thành lập ngôi trường ở các ngôi nhà số 4 và số 10 phố Hàng Đào, in lại nhiều lần hàng vạn bản, nhưng cũng như hai cuốn sách quan trọng khác của Đông Kinh Nghĩa Thục là Quốc dân độc bản và Tân đính luân lý giáo khoa thư đều không đề tên người biên soạn. Văn minh tân học sách đã được học giả Đăng Thai Mai, một nhà Hán học uyên thâm, lại là con trai cụ Đặng Nguyên Cẩn “một nhân vật cự phách trong cựu học và lãnh tụ tân học ở tỉnh Nghệ An” (Huỳnh Thúc Kháng), dịch sang tiếng Việt theo bản chữ Hán in khắc gỗ số ký hiệu A.567, xác định niên đại là 1904 nhưng không ghi tác giả là ai, công bố trong công trình Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. – Hà Nội 1961, in lại trong sách Hợp tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 - 1930). – Văn học, Hà Nội 1972.
Cũng cần nói đôi lời về lý do khuyết danh của những công trình quan trọng do trường Đông Kinh nghĩa thục ấn hành. Có thể là để tránh sự khủng bố cá nhân của chính quyền thực dân, như nhiều nhà nghiên cứu đã nêu. Nhưng thiết nghĩ (khía cạnh liên quan chủ đề của tham luận này) cũng có thể là do các chí sĩ tiền bối quan niệm rằng những công trình lý luận chung về duy tân không phải của riêng ai mà là kết tinh trí tuệ tập thể qua nhiều cuộc hội kiến luận bàn về thời cuộc, về “tân thư” và phương lược duy tân. Về việc Phan Chu Trinh hội kiến với sĩ phu Bắc Hà và Nghệ Tĩnh trong cuộc “Bắc hành” đầu năm 1906 và sau khi gặp Phan Bội Châu từ Nhật về năm 1907, trước thời điểm Đông Kinh nghĩa thục khai
giảng thì học giả Nguyễn Hiến Lê và nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân đã viết khá rõ bốn/năm chục năm trước[ii]. Tuy nhiên, đó không phải là những cuộc hội kiến đầu tiên. Năm 1991, nhà văn Sơn Tùng, người đã có hơn một phần tư thế kỷ chuyên sưu tầm điền dã và viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, cung cấp một thông tin quan trọng liên quan vấn đề đang bàn ở đây, là: 3 năm trước cuộc “Bắc hành” của Phan Chu Trinh, năm 1903, cụ Nghè Ngô Đức Kế cùng cụ Bảng Nguyễn Sinh Sắc và một số sĩ phu Nghệ - Tĩnh đã ra Hà Nội gặp Lương Văn Can ở 32 phố Hàng Ngang, rồi về làng Thịnh Liệt ở huyện Thanh Trì hội kiến cùng cụ cử Can và một số sĩ phu Bắc Hà khác tại tư gia của yếu nhân tương lai trong Đông Kinh Nghĩa Thục là cụ Võ Hoành[iii]. Điều này chứng tỏ lúc bấy giờ Hà Nội vẫn đóng vai trò trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước mà một phóng viên tờ Le Courrier de Saigon ghi nhận từ giữa thế kỷ XIX, trước khi người Pháp biến nó thành thủ phủ của Đông Dương[iv] Đó là thành quả của những chủ trương chấn hưng văn hoá Thăng Long do Hướng Thiện hội đền Ngọc Sơn, tổ chức xã hội phi chính thống đầu tiên trong sĩ lâm đất Việt, đề xuất và thực thi, tập hợp nhân tài vật lực của sĩ phu, thương nhân và một số nhân vật thuộc các tầng lớp khác, kể cả không ít quan lại cao cấp như Tổng đốc Đặng Văn Hoà, bác ruột danh nhân Đặng Huy Trứ, hướng vào các hoạt động chung về văn hoá - giáo dục[v]. Rõ ràng đến thời điểm chuẩn bị phát động phong trào Duy Tân (1903/04) trong sĩ phu Bắc Hà vẫn ngấm ngầm tuôn chảy truyền thống - và một điều quan trọng hơn là: vẫn tồn tại những cơ sở hoạt động văn hoá - xã hội yêu nước rộng rãi mà cơ sở quan trọng nhất chính là đền Ngọc Sơn, trụ sở của Hướng Thiện hội từ năm 1841. Những người khởi xướng từ đất Quảng Nam phong trào Duy Tân không thể không biết điều đó, và chắc chắn chủ trương kế thừa để triển khai nhanh chóng và giành thành công quyết định ở trung tâm chính trị và văn hoá của Đông Dương cho cuộc cách mạng tân văn hoá. Có thể nêu một số bằng chứng như sau:
Một là, năm 1903 TS Ngô Đức Kế và PB Nguyễn Sinh Sắc và năm 1906 PB Phan Chu Trinh đều đến gặp CN Lương Văn Can trước tiên chứ không phải ai khác; điều này hoàn toàn không ngẫu nhiên: theo học giả Nguyễn Hiến Lê cụ Cử Can “được Nghĩa hội văn thân Bắc kỳ tín nhiệm”; “Nghĩa hội này lập ngay sau khi có tờ dụ Cần vương của vua Hàm Nghi”[vi]. Xin bổ khuyết: Nghĩa hội này hình thành từ năm 1873 khi Nghĩa đoàn văn thân huyện Thọ Xương (các quận nội thành Hà Nội ngày nay) do ông cử tư thục Kim Cổ (phố Hàng Gai ngày nay) Ngô Dạng, môn sinh của Hội trưởng Hướng Thiện Vũ Tông Phan, đứng đầu tham gia đánh trả tên lái buôn kiêm do thám Jean Dupuis và quân xâm lược Pháp để hỗ trợ việc giữ thành Hà Nội[vii]; năm 1898 (chỉ 8 năm trước khi Phan Chu Trinh ra Hà Nội hội kiến với Lương Văn Can!) Nghĩa đoàn làng Mậu Hoà (huyện Từ Liêm, lúc ấy là ngoại thành Hà Nội) do Tán tương quân vụ ông “Đồ Mậu” (giáo học Mậu Hoà thục xá, tên thật là Vũ Như Đẩu, cháu gọi Hội trưởng Hướng Thiện Vũ Tông Phan bằng bác ruột) chỉ huy, sau khi làm lễ tế lá cờ “Triệt Nguyễn, bình Tây”, hiện vẫn được gìn giữ ở đình làng Mậu Hoà, kéo ra thị trấn Cầu Đơ (Hà Đông ngày nay), sắn sàng tập kích vào Hà Nội[viii].
Hai là, sau khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội năm 1882, Hướng Thiện hội không giải thể mà chỉ phân thành 3 Thiện phả nhỏ và thay đổi hình thức hoạt động (theo chủ trương chúng tôi nghĩ là của Kinh lược sứ đại thần TS Nguyễn Trọng Hợp, em họ Hội trưởng Hướng Thiện thứ hai Nguyễn Văn Siêu và là môn sinh của đồng sáng lập viên TS Nguyễn Văn Lý): “tàng” vào tín ngưỡng phụng thờ Đức Thánh Trần (một tín ngưỡng dân gian sâu rộng: tháng 8 giỗ Cha [Trần Hưng Đạo], tháng 3 giỗ Mẹ [Liễu Hạnh]), Rằm tháng 11 năm 1891 đời Thành Thái họ mượn lời Thánh Trần “giáng” bài Chính kinh răn dạy giữ lòng Trung - Hiếu; năm 1903 (một niên điểm trùng hợp đáng chú ý!) Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền và một số sĩ phu sau này có liên quan Đông Du, Duy Tân - Nghĩa Thục như đương kim Tuần phủ Đoàn Triển và Án sát Nguyễn Duy Nhiếp (con trai Nguyễn Trọng Hợp)... đã cùng An Lạc phả (một trong 3 Thiện phả tách ra từ Hướng Thiện hội) xây dựng trong đền Ngọc Sơn một “Hoằng Thiện kinh đàn” để giảng bài Chính kinh đó. Từ đền Ngọc Sơn bài kinh yêu nước này đã lan truyền chẳng những khắp các tỉnh Bắc kỳ mà cả ở Nghệ - Tĩnh, vào đến tận chùa Nhã Nam ở “Xứ Nam kỳ tự trị”[ix].
Việc xác định tác giả Văn minh tân học sách nan giải trước hết là vì những người trong cuộc đều không để lại hồi ký và cũng không tiết lộ tí gì qua truyền ngôn về các tác phẩm quan trọng nhất của phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục, dẫu có người tạ thế khá muộn như cụ Lê Đại (1952). Một trong 3 người khởi xướng phong trào, cụ Huỳnh Thúc Kháng, trong các tác phẩm như Thi tù tùng thoại (viết trong những năm đi đày ở Côn Đảo, 1908 - 1921) và Phan Tây hồ tiên sinh lịch sử (1926), tuy cung cấp cho hậu thế khá nhiều chi tiết về phong trào và những nhân vật chủ chốt, nhưng không hề cho biết ai là tác giả Văn minh tân học sách, Quốc dân độc bản, Tân đính luân lý giáo khoa thư... . Các học giả thuộc thế hệ đầu tiên viết về phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục, hoặc di sản thơ văn của nó như Đào Trinh Nhất (s.1900), con trai cụ Đào Nguyên Phổ (mất năm 1907), Đặng Thai Mai (sinh năm 1902), con trai cụ Đặng Nguyên Cẩn (mất năm 1923) và Nguyễn Hiến Lê (sinh năm 1912), cháu gọi cụ Phượng Sơn Nguyễn Côn (mất năm 1960) bằng bác ruột, là những người từng được trực tiếp nghe cha anh kể lại về việc và người của phong trào, cũng không thể cho chúng ta biết gì hơn hai chữ “khuyết danh”. Một số giả thiết về tác giả Văn minh tân học sách chỉ bắt đầu đề xuất từ thế hệ các nhà nghiên cứu thứ hai, sinh ra sau khi sự việc trôi qua đã ba/bốn chục năm, lại chỉ dựa chủ yếu vào một số lời truyền ngôn không trực tiếp từ các đương sự và ngày nay không thể kiểm chứng.
Ông Nguyễn Q. Thắng viết trong công trình Phong trào Duy Tân: “Theo một số nhà nghiên cứu thì tác giả Văn minh tân học sách là Phan Châu Trinh...”. Hai chục trang sau, khi trích dẫn tác phầm này ông mở ngoặc đơn ghi chú: (một bài nghị luận viết bằng chữ Hán năm 1904 không rõ ai là tác giả - sau này nhiều người cho là của Phan Châu Trinh)[x]. Tuy nhiên ông không chỉ rõ “một số nhà nghiên cứu”, “nhiều người” là những ai; cũng không dẫn luận chứng của họ. Theo chúng tôi, dẫu cụ Phan Tây Hồ được cả xưa lẫn nay thừa nhận là lãnh tụ của phong trào xứng đáng gọi là “cách mạng tân văn hoá”, nhưng tác giả Văn minh tân học sách không thể là Cụ vì những lẽ sau đây:
a) Ngay sau khi tiên sinh đã tạ thế (1926), lý do đảm bảo an toàn cá nhân không còn, lý do “phân công” cũng có thể gạt sang bên để tôn vinh người đã khuất, vậy mà hai chiến hữu thân thiết, cả cụ Nghè Huỳnh trong Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử (1926) lẫn cụ Nghè Ngô Đức Kế trong Phan Tây Hồ di thảo (1927) đều không nhắc gì đến Văn Minh tân học sách;
b) Văn chính luận của Phan Chu Trinh có chủ đề bao quát hơn và thường hướng tới tranh biện với chính quyền bảo hộ Pháp;
c) Văn phong trong các tác phẩm chính luận đó không chú trọng sử dụng các thủ pháp tu từ như trong Văn minh tân học sách (xin xem phần dưới đây) mà lý lẽ đanh thép dựa chủ yếu trên các sự thực mà Cụ Tây Hồ nắm rất cụ thể và chính xác.
Mới đây PGS - TS Chương Thâu đề xuất giả thiết mới: người soạn Văn minh tân học sách là Đào Nguyên Phổ. Nhân dịp tái bản vào đầu năm 2008 sách Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hoá đầu thế kỷ XX ông đã sửa cước chú của mình ở trang 119 trong lần xuất bản sách năm 1982: “Tác giả Văn minh tân học sách là một người miền Trung” (ông căn cứ câu trong văn bản VMTHS: “Nghe nói ở Bắc kỳ gần đây...”), thêm cho nó cái đuôi: “hoặc VMTHS được viết tại miền Trung, khi tác giả của nó đang sống ở kinh đô Huế chẳng hạn” (chúng tôi nhấn – VTK)[xi] nhằm dọn đường cho giả thiết tác giả là Đào Nguyên Phổ (người Bắc!). Nhưng theo học giả Đặng Thai Mai, VMTHS được viết ra năm 1904, mà năm 1903 Đào Nguyên Phổ đã ra Bắc làm chủ bút Đại Nam đồng văn nhật báo, thế cho nên PGS Chương phải nêu tiếp ý kiến võ đoán rằng VMTHS “được viết trước năm 1904”, mà không đưa ra căn cứ nào để phản bác ý kiến của học giả họ Đặng. Tuy nhiên, câu trong nguyên bản chữ Hán VMTHS trên đây ông Thâu trích dẫn có một nửa. Nguyên văn cả câu đó là: “Văn Bắc kỳ tài tang dục tàm biệt xuất tân pháp kì sự tất đăng chi báo chỉ, Kinh sư cận thiết Canh nông trường, Bách công trường pháp chí lương ý chí mỹ dã”. Khi dịch sang tiếng Việt GS Đặng Thai Mai ngắt thành 4 câu cho xuôi và dễ hiểu. Từ góc độ phân tích văn bản, câu chữ Hán trên đây chỉ dứt mạch ở chữ “dã”, và như vậy chữ “văn” dùng chung cho cả “Bắc kỳ” (“Văn Bắc kỳ...”) lẫn “Kinh sư” (“[văn] Kinh sư...”), nghĩa là: “Nghe nói ở Bắc kỳ đã xuất hiện cách trồng dâu nuôi tằm mới mà báo chí có đăng rõ, [nghe nói] trong Kinh đô gần đây đã đặt sở Canh nông, sở Bách công với phương pháp thật hay, ý tưởng thật tốt vậy” . Như thế nếu vận dụng cách lập luận của chính PGS Chương Thâu, người viết VMTHS không thể “đang sống ở kinh đô Huế chẳng hạn”, mà phải là người ngồi đâu đó khoảng giữa Bắc kỳ và Kinh đô!
Đến cuốn sách vừa xuất bản mới đây Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ thì PGS Chương đã dẫn cả “tư liệu truyền ngôn” lẫn “tư liệu thành văn” để khẳng định giả thiết của mình[xii].
Tuy nhiên, “tư liệu truyền ngôn” mà ông dẫn không phải lời truyền trực tiếp của người trong cuộc, mà chỉ là lời kể lại của thân nhân thuộc thế hệ sau, lại chưa có thể kiểm chứng. Còn như về “tư liệu thành văn” thì lập luận của ông bộc lộ nhiều sơ hở về mặt thẩm định văn bản. Chúng tôi xin được phân tích kỹ hơn.
Tư liệu thành văn PGS Chương Thâu sử dụng làm căn cứ cho giả thiết của mình là văn bản chữ Hán nhan đề Ti Đào Nguyên Phổ túc bẩm Hiệp biện Đại học sĩ Cơ mật viện đại thần Lại bộ Thượng thư Hiền Lương tử Trương tướng công ... (nguyên văn: 卑 陶 元 溥 肅 稟 協 辨 大 學 士 機 密 院 大 臣 吏 部 尚 書 賢 良 子 張 相 公 ...), tức tờ trình của cụ Hoàng giáp lên Đại thần Viện Cơ mật Thượng thư bộ Lại đề nghị triều đình xem xét và gửi mua 160 cuốn “tân thư” của Trung Quốc thuộc 7 chủng loại như: địa đồ, lịch sử, chính trị, khoa học, truyện danh nhân cách mạng phương Tây v.v... Bản thân sự phát hiện tư liệu này của PGS Chương trong tập sách Tân văn trích lục ký hiệu VHv. 968, bấy lâu nay nằm im lìm trong kho sách của Viện Hán Nôm, là một đóng góp đáng ghi nhận trong việc nghiên cứu về phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục nói chung cũng như nói riêng về vai trò của Đình nguyên Hoàng giáp họ Đào trong phong trào đó. Nhưng những lập luận của PGS Chương Thâu nhằm lấy tờ trình ông phát hiện làm căn cứ thành văn để khẳng định tác giả VMTHS là Đào Nguyên Phổ thì rất khiên cưỡng, không thuyết phục về mặt thẩm định văn bản.
Một là, PGS Chương đã xử lí khiên cưỡng đối với văn bản khi cho rằng tờ trình được viết trước năm 1903, khi Đào Nguyên Phổ đang làm Hàn lâm thừa chỉ ở kinh đô Huế (tức xuất hiện đồng thời, như Chương Thâu suy đoán, với VMTHS, và do đó (?) cả hai văn bản phải của cùng một tác giả), thế nhưng trong văn bản tờ trình có chí ít 1 chi tiết cho biết chính xác nó được viết năm 1905: “Bản niên Đông Dương thiết lập Đại hội đồng toạ, nghị hưng tân học” (VTK nhấn): Hội đồng cải cách việc học cho người bản xứ được thiết lập như cơ quan tư vấn cho Nha học chính Đông Dương thành lập theo Sắc lệnh 14 - 11 - 1905 của Toàn quyền Paul Beau.
Hai là, trong bài viết về HG Đào Nguyên Phổ ở sách đã nêu trên PGS Chương Thâu đã dành cả 7/15 trang lược thuật lại nội dung của Văn minh tân học sách, sau đó lại kể khá chi tiết hoàn cảnh ông Hoàng giáp được tiếp cận kho sách báo “tân thư” của nhạc phụ làm Tế tửu Quốc Tử Giám tại Huế, tiếp đó điểm lại các ý kiến của Đào Nguyên Phổ trong tờ trình Ti Đào Nguyên Phổ túc bẩm Hiệp biện Đại học sĩ... về nền khoa cử thủ cựu ở nước ta, về sự canh tân giáo dục ở Trung Quốc và các nước Phương Tây, cuối cùng liệt kê một số quyển thuộc 7 chủng loại “Tân thư” đề nghị mua. Tất cả nhằm dẫn đến kết luận rằng hai tác phẩm này cùng chung một số đại ý thì tác giả của chúng phải là một người, tức Đào Nguyên Phổ. Về điểm này chúng tôi xin trích lời cảnh báo của Viện sĩ Đmit’ri Likhatrôv, một chuyên gia Nga lỗi lạc về văn bản học: “Việc phân tích nội dung tư tưởng của tác phẩm bất luận trong trường hợp nào cũng không thể chỉ hạn chế ở những đại ý của tác phẩm. Các tư tưởng trong tác phẩm có thể là chung cho nhiều tác giả do họ cùng đảng phái, nghề nghiệp, đẳng cấp, giai cấp...”(chúng tôi nhấn - VTK)”[xiii]. Như chúng ta đã biết, trước khi phát động phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục các nhân vật chủ chốt đã nhiều lần gặp gỡ, đàm luận và chắc hẳn đã đi đến nhất trí về phương lược chung (tức các đại ý!).
Chúng tôi xin nói thêm trước rằng, về mặt văn phong thì tờ trình trên đây, cũng như bài Tựa của HG Đào Nguyên Phổ cho cuốn Việt sử tân ước toàn biên mà PGS Chương dẫn thêm để củng cố lập luận của mình, không có những đặc điểm văn phong chính luận nổi bật của văn bản Văn minh tân học sách (xin bạn đọc so sánh với trích đoạn tờ trình của HG họ Đào ở Phụ lục).
Tóm lại, cả “tư liệu truyền ngôn” lẫn “tư liệu thành văn” cùng những lý lẽ của PGS Chương Thâu đều chưa phải là những căn cứ thuyết phục để khẳng định tác giả Văn minh tân học sách là Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ.
Một trăm năm đã trôi qua, lại là một thế kỷ bão táp, với cách mạng, chiến tranh và những biến cố xã hội sâu rộng, thư tịch liên quan phong trào Duy Tân - Nghĩa Thục phần thất tán, phần bị thiêu huỷ, nên xem ra không còn cơ hội truy tìm các “ngoại chứng” - tức những dữ kiện ở ngoài văn bản để xác định tác giả của những ấn phẩm vẫn bị gọi là “khuyết danh”. Chỉ còn cách đi tìm các “nội chứng”, tức những thông tin ẩn ngay trong văn bản cho phép đồng nhất tác giả của hai văn bản khác nhau.
*
Ý nghĩ về khả năng sử dụng phương pháp phân tích văn bản học để xác định tác giả Văn minh tân học sách nảy sinh hồi đầu năm 2007 khi chúng tôi bắt đầu đọc lại tác phẩm mang tính tuyên ngôn này về tư tưởng cách mạng tân văn hoá trong phong trào Duy Tân để viết tham luận khoa học “Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn – một cội nguồn văn hoá - xã hội sâu xa của trường Đông Kinh Nghĩa Thục”. Càng nghiền ngẫm bài nghị luận vô danh sắc sảo, càng rõ nét cái cảm giác đã bắt gặp giọng văn này, mạch văn này ở đâu đó: cũng những câu xướng hoặc câu kết nghi vấn, cũng những câu đáp hoặc lời diễn giải đồng dạng, cũng những điệp từ nối những ngữ cú đồng dạng... Cuối cùng chợt nhớ ra: bài báo vang dội một thời Luận về chính học cùng tà thuyết (LVCHCTT) của cụ Nghè Ngô Đức Kế! Xin cùng đọc vài ví dụ:
- LVCHCTT – “Vận nước thịnh hay suy, quan hệ tại đâu? - tại nhân tâm thế đạo. Nhân tâm thế đạo xấu hay tốt, cỗi gốc tại đâu? - tại học thuyết tà hay chính”; hãy so sánh: VMTHS – “Câu nói của nhà học giả phương Tây: ”Văn minh không phải là có thể mua bằng giá trị mà thôi, mà còn phải mua bằng đau khổ nữa”. Giá trị ý nói gì?* - tức thị tư tưởng đó*. Khổ đau ý nói gì?* - tức thị cạnh tranh đó*” nguyên văn: 西 儒 之 言 曰 文 明 者 非 徒 購 之 以 價 値 而 已又 購 之 以 苦 痛 何 謂 價 値 思 想 是 也 何 謂 苦 痛 競 争 是也 ; từ đây khi thật cần thiết, chúng tôi mạn phép học giả quá cố Đặng Thai Mai, sửa lại một số câu dịch đã rất chuẩn của Cụ chỉ nhằm làm rõ thủ pháp tu từ, có đánh dấu* để bạn đọc tiện theo rõi và xem xét - VTK);
- LVCHCTT – “Vậy cho nên trong nước ngày nay, nào là bình phẩm văn chương Kiều, nào là phê bình nhân vật Kiều, nào là chú thích Kiều, nào là thơ vịnh Kiều, cho đến hát tuồng Kiều, diễn kịch Kiều, trong nhà ngoài đường, trên trời dưới đất, đâu đâu cũng Kiều”; xin so sánh: VMTHS – “Trên địa cầu có các nước hoặc là còn dã man, hoặc là mới bán khai, hoặc là đã văn minh* Ấy là tuỳ theo chỗ dân trí từng nước thông hay tắc, nhiều hay ít, chóng hay chậm mà khác nhau” (nguyên văn: 地 球 之 有 國 也 若 者 爲 野 蠻 若 者 爲 半 開 若 者 爲 文 明 每 視 乎 民 智 之 通 塞 多 寡遲 速 爲 此 例 差 ).
Tuy nhiên, Luận về chính học cùng tà thuyết viết bằng quốc ngữ, Văn minh tân học sách viết bằng Hán văn, đem đối chiếu để khẳng định rằng hai tác phẩm này cùng một tác giả thì không tránh khỏi bị coi là một sự so sánh khập khiễng, khiên cưỡng. Hợp tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng (nxb Văn học, Hà Nội 1972, 2 tập) không công bố được một tác phẩm văn xuôi nào của TS Ngô Đức Kế. Không phải là người chuyên nghiên cứu về tác gia này, lúc bấy giờ chúng tôi đành thúc thủ.
May thay, mới đây PGS-TS Ngô Đức Thọ đã cung cấp cho chúng tôi tờ trình viết bằng Hán văn của cụ Nghè họ Ngô xin sửa đổi phép thi, nhan đề Bẩm vi thỉnh tương thí pháp lược hành cải định dĩ cổ sĩ phong nhi hợp thời nghĩa sự (稟 為 請将 試 法 畧 行 改 定 以 鼓 士 風 而 合 辰 義 事 từ đây xin gọi tắt là Thỉnh cải định thí pháp- TCĐTP). PGS Thọ lại kèm theo văn bản chữ Hán một bản dịch sang tiếng Việt do ông thực hiện nhưng còn chưa công bố[xiv], cùng một số tài liệu liên quan ông sưu tầm được và cho phép chúng tôi tuỳ nghi sử dụng. Xin chân thành cảm ơn cử chỉ hào hiệp của ông Thọ!
Chúng tôi tiến hành phân tích đối chiếu hai văn bản Văn minh tân học sách khuyết danh và Thỉnh cải định thí pháp của TS Ngô Đức Kế theo phương pháp phân tích văn bản học của Viện sĩ Đmit’ri Likhatrôv. Dựa trên kinh nghiệm thực tế lâu năm khảo sát thẩm định các thư tịch khuyết danh hoặc mạo danh trong văn - sử Nga thời cổ và trung đại, Đ. Likhatrôv khái quát hoá thành một lý thuyết cơ bản và một phương pháp phân tích văn bản học hiệu quả trong công trình kinh điển Văn bản học (1964) chúng tôi đã trích dẫn trên đây. Riêng về vấn đề minh định tác giả của những thư tịch khuyết danh, Viện sĩ Likhatrôv yêu cầu một sự phân tích toàn diện đối với thư tịch, bao gồm lai lịch văn bản, nội dung tư tưởng, văn phong và ngôn ngữ. “Tổng thể những quan sát càng rộng, càng đa dạng thì việc việc thẩm định sẽ càng chắc chắn”[xv]. Dựa vào kinh nghiệm thực tế phong phú, ông cảnh báo: “Các dữ liệu “chính thức” về tác giả của thư tịch ghi ở đầu đề văn bản đôi khi lại ít xác thực hơn các dữ liệu không chính thức. Những chỉ dẫn gián tiếp lại chắc chắn hơn trực tiếp; những chỉ dẫn cố ý thường ít xác thực hơn những chỉ dẫn không cố ý và tưởng chừng “ngẫu nhiên”; đôi khi những hiện tượng ngôn từ đem
lại cho ta nhiều hơn là những hiện tượng văn phong v.v... Tóm lại, rất nhiều khi điều thứ yếu lại hoá ra có giá trị hàng đầu, ngược lại điều chủ yếu lại thành thứ yếu”[xvi].
Chúng ta thử đi theo các bước Viện sĩ Likhatrôv đã chỉ ra.
I. Lai lịch hai văn bản Văn minh tân học sách và Thỉnh cải định thí pháp
Lai lịch VMTHS, trừ vấn đề tác giả, đã rõ từ lâu, khỏi phải bàn nhiều. Còn như về lai lịch TCĐTP thì PGS Thọ trong bản thảo sắp công bố cho biết như sau: tài liệu quý giá này, do cụ Thúc Ngọc Trần Văn Giáp phát hiện chép trong tập sách viết tay của Thư viện Long (thư viện riêng của Thượng thư Cao Xuân Dục) nhan đề Văn minh tân học sách, chép nhiều bài liên quan phong trào Duy Tân – Nghĩa thục, đã được cụ Thúc Ngọc Trần Văn Giáp giới thiệu trong công trình Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (1972); riêng ở cuối TCĐTP có ghi rõ tên tác giả “Sắc tứ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Ngô Huệ Kế túc”; theo cụ Thúc Ngọc thì người chép viết sai chữ “Đức” lối cổ, còn theo PGS Ngô Đức Thọ thì người chép nhầm với tên lót của thân phụ cụ Nghè Kế là Ngô Huệ Liên). Ông Thọ kể rằng ngay hồi giúp biên tập công trình của cụ Thúc Ngọc, ông đã sao lại một bản, dịch sang tiếng Việt và đem trình với hai học giả Đào Duy Anh và Đặng Thai Mai, được cả hai cụ ghi nhận là tài liệu rất có giá trị. Tài liệu này lưu trữ đã lâu năm ở Thư viện Khoa học Xã hội, rồi ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm dưới số ký hiệu A.566, nhưng cho đến nay, theo PGS Thọ, “chưa có dịp nào thích hợp để giới thiệu” nên nhân dịp sắp công bố tuyển tập thơ văn của TS Ngô Đức Kế, ông đã viết khá kỹ về hoàn cảnh ra đời của thư tịch này. Ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập hai vấn đề liên quan đề tài tham luận đây.
1. Về niên đại - chỉ xin lưu ý 1 điểm, đó là TCĐTP xuất hiện sau VMTHS: học giả Đặng Thai Mai căn cứ một số chi tiết trong văn bản xác định VMTHS viết năm 1904; PGS Ngô Đức Thọ, có lẽ căn cứ chi tiết TCĐTP được phát hiện trong thư viện của Cao Xuân Dục, cho rằng văn bản này được trình cho họ Cao khi ông được bổ làm Thượng thư bộ Học mới thành lập vào năm 1907; bất luận thế nào TCĐTP không thể được soạn trước năm 1906 vì trong văn bản có những câu: “Gần đây họ [Trung Quốc] mới sửa đổi phép học, phép thi, bỏ khoa cử”; “Phép thi do Trung Quốc đặt ra, không phải là phép tắc của tổ tiên ta. Trung Quốc đặt ra mà năm trước trung Quốc đã bỏ đi...”. Trung quốc bỏ phép thi cũ năm 1905, đó là “năm trước”, vậy năm Ngô Đức Kế viết TCĐTP có thể là 1906.
2. Về vai trò của Tập Xuyên Ngô Đức Kế trong phong trào Duy Tân - Đông Kinh Nghĩa thục – vai trò ấy, căn cứ phát biểu vắn tắt nhưng chuẩn xác của một số nhân vật chủ chốt trong phong trào về cụ Tập Xuyên, rõ ràng không phải là thứ yếu như ngày nay một số người lầm tưởng, tức chỉ là “người tán trợ”, cho nên trong Lễ tưởng niệm các tiên liệt của Đông Kinh Nghĩa Thục nhân 100 năm thành lập tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội người ta đã quên hẳn không nhắc đến tên Ngô Đức Kế! Đọc kỹ Tự truyện (“Niên biểu”) của Phan Bội Châu và tiểu sử của Phan Chu Trinh (Huỳnh Thúc Kháng: Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử) có thể thấy rõ ràng mặc dù trẻ tuổi nhất (đỗ tiến sĩ năm 23 tuổi, khi phong trào khởi phát, 1903, mới 25) nhưng Tập Xuyên Ngô Đức Kế được cả hai vị lãnh tụ của phong trào yêu nước và cách mạng hồi đầu thế kỷ trước rất nể trọng, coi là một trong hai thủ lĩnh (vị kia là Đặng Nguyên Cẩn) của phong trào Duy Tân ở miền Nghệ Tĩnh và do tài năng văn học (“trổ từ tuổi thiếu niên”, như lời cụ Huỳnh nhận định sau này), chí khí và học vấn sâu rộng về tân học nên thường được những lãnh tụ của phong trào tham vấn về kế sách và chương trình hành động. Xét từ giác độ vấn đề Ngô Đức Kế và VMTHS có 3 dữ kiện đáng chú ý:
a) Trong Thi tù tùng thoại, viết ngay trong 13 năm bị lưu đày ở Côn Đảo (1908 - 1921), Huỳnh Thúc Kháng ghi nhận Ngô Đức Kế là người sớm đọc tân thư và hăng hái đề xướng tân học: “Sau đỗ rồi, cụ ở nhà đóng cửa đọc sách, thường lưu tâm đến việc nước. Học thuyết Âu Tây mà người Tàu đã dịch trong sách, cụ đọc được nhiều và có chỗ tâm đắc. Trong khoảng ấy, kể phong triều bài xích khoa cử, đề xướng tân học, cụ là một người rất khẳng khái”[xvii] (chúng tôi nhấn, VTK).
b) Theo nhà văn Sơn Tùng, người đã ¼ thế kỷ nay chuyên sưu tầm và viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1903, tức ngay từ khi phong trào chuẩn bị khởi phát, TS NGô Đức Kế đã cùng PB Nguyễn Sinh Sắc, có tiểu đồng Nguyễn Tất Thành cắp tráp theo hầu, ra Hà Nội gặp các cụ Lương Văn Can, Võ Hoành và một số yếu nhân khác trong Đông Kinh Nghĩa Thục tương lai[xviii].
Thông tin của ông Sơn Tùng có thể được chứng thực một cách gián tiếp bởi 3 điều: một là, ngay đương thời cụ Huỳnh Thúc Kháng đã khẳng định mối liên hệ mật thiết và uy tín của Ngô Đức Kế đối với sĩ phu Bắc Hà: “Cụ Tập Xuyên thường ra Bắc Hà nên nhiều người biết tên”[xix]; hai là, ngay trong năm 1903 diễn ra cuộc hội kiến lịch sử ấy Lương Văn Can và Nguyễn Thượng Hiền đã tham gia cùng Thiện phả An Lạc (một trong 3 phả Thiện tách ra từ Hướng Thiện hội sau khi Hội trưởng Nguyễn Văn Siêu mất năm 1872 và quân Pháp đánh thành Hà Nội năm 1873) dựng Thiện đàn giảng kinh trong đền Ngọc Sơn, nơi hiện vẫn còn tấm bia lập ngay năm 1903 ghi việc đó và có khắc tên hai yếu nhân ấy của Đông Kinh Nghĩa Thục tương lai[xx]; và ba là, giáp Tết Độc lập đầu tiên vào đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh, cậu bé Tất Thành năm xưa cắp tráp theo hầu cha trong cuộc hội kiến với cụ Cử Can, đã tới thăm các cụ cao niên trong phả Thiện Ngọc Sơn và “xin phép gợi vài ý”: “...điều Thiện lớn nhất là yêu nước, yêu dân chủ; điề Ác lớn nhất là xâm lược, áp bức. Nay ta có thể giảng công khai như thế”[xxi] (tức Hồ Chủ tịch có biết việc các bậc tiền bối từng phải “tàng”, tức kín đáo nói những ý đó trong bài Chính kinh của Đức Thánh Trần mà họ giảng tại Thiện đàn trong đền! - VTK).
c) Bà Lê Thi Kinh, tức Phan Thị Minh, cháu ngoại của cụ Phan Chu Trinh, dẫn công trình Phong trào Duy Tân (1970) của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân, viết về cuộc “Bắc hành” tháng Chạp 1905 – đầu năm 1906 của cụ Tây Hồ như sau: “...thầy trò [Phan Chu trinh và Ông Ích Đường] ra thẳng Hà Nội gặp các sĩ phu Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Võ Hoành... để bàn kế duy tân. Sau đó lại lộn trở vào Nghệ Tĩnh để gặp Tập Xuyên Ngô Đức Kế vốn là bạn của ông từ trước để cùng các sĩ phu duy tân ở đây bàn chương trình hành động. Từ Nghệ Tĩnh ông lại đi thẳng ra Lạng Sơn v.v...”[xxii]. Tại sao Phan Chu Trinh không thẳng từ Hà Nội lên Lạng Sơn mà lại phải “mua đường đất” như vậy - lộn vào Nghệ Tĩnh rồi mới từ đó lên Lạng Sơn? Hẳn là có việc quan trọng cần bàn với Ngô Đức Kế (đó là việc gì - xin nói dưới đây).
II. Nội dung Văn minh tân học sách và Thỉnh cải định thí pháp
Đọc kỹ nội dung của hai văn bản này không thể không thấy TCĐTP là một bài nghị luận triển khai trong 15 trang viết tay đề mục 3 về sửa đổi phép thi (“Tam viết cải định thí pháp”), vốn chỉ chiếm có hơn hai trang trong 19 trang bản in (29 trang bản viết) của VMTHS - triển khai theo một cấu trúc lôgich như nhau. Xin so sánh:
- VMTHS (1904): dùng phép thi cũ và lối văn bát cổ với những quy tắc phức tạp và gò bó để xét thực học là vô lý, hoàn toàn phí công sức vô ích –> ngay Trung Quốc từ khoa Canh tý (1900) cũng đã bỏ lối bát cổ chỉ thi sách luận –> ta cũng chỉ nên dùng hai lối văn ấy để thi.
- TCĐTP (1906/07): phép tắc đổi theo thời thế, mà thời thế nay đã đổi thay, ngay đến Trung Quốc từ các đời Hàm Phong (1851 - 1862) và Đồng Trị (1862 - 1875) cũng đã thông thương, biến đổi theo phương Tây –> sĩ phu ta không phải không biết lối văn bát cổ với những quy tắc gò bó là vô dụng, nhưng vẫn phải dốc hết tâm lực mà theo vì triều đình vẫn dùng lối văn ấy để tuyển dụng –> phép thi rắc rối ấy do Trung Quốc đặt ra xưa kia, nay chính họ từ năm trước (1905) đã bỏ hẳn rồi –> ta nếu chưa bỏ được ngay thì cũng nên biến thông chút ít: bỏ chế nghĩa, thi phú, chế biểu, chỉ chuyên thi sách luận –> biên soạn lại sách học, mua tân thư.
Tuy nhiên, trên đây chúng tôi đã dẫn lời cảnh báo của Viện sĩ Likhatrôv về việc phân tích nội dung hai tác phẩm nhằm minh định tác giả không thể hạn chế ở những đại ý. Ông chỉ rõ: “... tiêu biểu hơn nhiều (cho việc minh định tác giả - VTK) là những chi tiết trong tư tưởng, những tiểu ý, những sắc thái riêng trong lập luận, những kiểu cách chứng minh cá biệt, những ví dụ ưa dùng”[xxiii].
Trong VMTHS và TCĐTP có những chi tiết ý , những cách lập luận trùng hợp như vậy:
- VMTHS: “Không biết những lối mở đề, thừa tiếp, khởi ý, kết thúc, thanh luật biền ngẫu có ích gì cho thực dụng không?...Thế rồi cấm liên thượng phạm hạ, cấm lạc vận thất niêm, cấm viết sai, viết sót chữ trong đầu đề <...> cấm những chỗ dập xoá, dời xuống, móc lên, sửa chữa* <...>” (不 知 破 承 起 束 聲 律 駢 偶 其 能 裨 寔 用 者 果 何用 也 <…> 然 且 連 上 犯 下 則 有 禁 落 韻 失 粘 則有 禁 遺 舛 題 字 則 有 禁 <…> 塗 遺 勾 改 則 有 禁 <...>); hãy so sánh: TCĐTP – “Cho nên mới phải nghêu ngao nghiền ngẫm nơi bàn học, dốc hết tâm lực, cố sống cố chết mà học lấy được; những cách mở đề, thừa tiếp, khởi ý, kết thúc cùng cái phép thanh luật biền ngẫu đều phải luyện tập không lúc nào ngơi* <...> Những quy tắc dập xoá, dời xuống, móc lên, sửa chữa, thất niêm lạc vận, lỡ sai một chút thì tên tuổi bị vùi lấp...” (是 以 呻 吟 窗 下 尽 心 力 捨 性 命 而 爲 之 破 承 起 束 聲 律 駢 偶 且 習 焉 之 不 暇 <...> 塗 遺 勾 改 失 粘 落 韻 之 規 一 或 有 誤 焉 則 一 名 埋 没 矣 ...; xin nhấn mạnh: chẳng những tiểu ý mà nhiều từ ngữ cũng trùng khớp hoàn toàn);
- VMTHS: “Đời người không sống đến trăm năm thế mà dốc hết tinh thần hữu dụng đem vùi vào đống sách đầy xe, ngất nóc. Đời người còn có những nghĩa vụ phải làm, thế mà nửa phần cái tài trí vô cùng lại bị hao mòn vào chồng giấy loại mọt đục, mối ăn!”* (人 生 無 期 頤 之 壽 齡 而 有 用 精 神 全 爲 充 棟 汗 牛 所 糜 敝人 世 有 關 係 之 義 務 而 無 窮 才 智 半 爲 攒 蜂 飽 蠧 所 消 磨 ); hãy so sánh: TCĐTP – “Đời người chỉ sống trăm năm, thông minh tài lực có bao lăm mà từ nhỏ đến già vùi đầu vào đó, tâm lực hao mòn hết cả” (人 生 只 此 百 年 聰 明 才 力 所 有 幾 何 而 自 幼 至 老 埋 頭 於 是 消磨 已 尽 );
- VMTHS: “Lấy Kinh, Truyện và ba sử (Sử Nam, sử Tàu, sử Thái tây) đặt đề mà hỏi, cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không gò bó kiêng kị, không cần thể cách gì hết”* (取 經 傳 三 史 中 [南 中 西 ] 命 題 發 問 聽 其 議 論 汪 汪 條 對 洋 洋 不 必 抅 忌 不 必 體 格 ); hãy so sánh: TCĐTP – “...đề ra những câu hỏi về ý nghĩa lớn trong Kinh. Truyện, về những việc lớn trong vài bộ sử (sử nước ta, sử Trung Quốc, sử Thái tây) cùng là những điều về thực học về chính trị, công thương, cách trí. Người hỏi tuỳ ý mà ra đề, người đáp tuỳ ý mà phô diễn, không cần thể, không cần lệ, không gò, không bó gì hết”* (問 以 經 傳 中 之 大 義 一 二 史 中 [本 國 史 中 國 史 泰 西 史 ] 之 大 端 以 及 政治 工 商 格 致 之 寔 学 問 者 隨 意 命 題 對 者 隨 意 敷 衍 無 体 無 例 無 抅 無 縛 )
Cũng đã phát hiện một số cách chứng minh cá biệt, những ví dụ, từ ngữ ưa dùng trùng khớp trong hai văn bản, như:
- Dùng hình ảnh so sánh tỉnh/thức - say/mê để chứng minh ta đã lạc hậu trong canh tân so với Trung quốc - VMTHS: “Người ta tỉnh giấc rồi, ta còn mê ngủ” (人 覺 悞 矣 而 我 猶 昏 睡 ); hãy so sánh: TCĐTP – “Sĩ phu nước ta vẫn như say chưa tỉnh, vẫn như mộng chưa thức” (我 國 士 夫 如 醉 未 醒 如 夢 未 覺 );
- Cả 2 văn bản cùng dùng từ “tự xưng” (nguyên văn: 自 命 ) để đả kích thói tự cao tự đại của lũ hủ Nho: VMTHS – “tự chiếm bậc thanh cao, tự xưng bậc gìn giữ thế đạo” (nguyên văn: 以 高 人 自 居 以 世 道 自 命 ); TCĐTP – “Thường ngày thì tự xưng ta đây là nhà Nho, ta đây là người khoa mục” (nguyên văn: 平 居 自 命 則 曰 我 儒 教 也 我 科 目 也 );
- Khi phê phán sự vô bổ của các loại sách tầm chương trích cú, chú sớ, tranh biện của nho gia Tống, Minh, trong cả VMTHS lẫn TCĐTP trong các ví dụ đều kể Mông dẫn (蒙 引 ) và Tồn nghi ( 存 疑 );
- Đề cập vấn đề sách giáo khoa, cả 2 tài liệu đều dùng những từ tương tự để nói về cơ quan làm sách: VMTHS – ‘Lập một thư cục hiệu đính sách”* (nguyên văn: 設一 校 書 局 ); TCĐTP – “Đặt một thư cục in ấn sách” (nguyên văn: 置 一 印書 局 ) và về tinh giản sách kinh điển Nho học: VMTHS – “trích lấy đại yếu, biên thành một tập <...> bỏ bớt những chỗ rườm rà” (nguyên văn: 摘 舉 其 大 要 編 爲 一 書 <...> 刊 宂 去 煩 ); TCĐTP – “trước hết soạn lại các sách Nho học, bỏ bớt rườm rà, soạn lại cho gọn (nguyên văn: 先 將 儒書 刊 煩 就 簡 );
- Khi nói đến các trước tác lớn trong “tân thư” cả hai tài liệu cùng chỉ nêu ví dụ ba tác gia: Lư Thoa (Rousseau), Tư Tân Tắc (Spencer) và Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu).
- Khi nêu ví dụ về trường tân học cả hai tài liệu đều có nêu trường Quốc học ở Huế.
- Ở phần kết của cả hai tài liệu đều gắn vấn đề canh tân với số phận của 25 triệu đồng bào: VMTHS – “Chả biết hai mươi lăm triệu đồng bào ta rồi sẽ kết cục ra sao đây?” (nguyên văn: 不 知 二 十 五 兆 之 同 胞 其 將 何 所 終 極 那 ); hãy so sánh: TCĐTP – “... dưới nghĩ đến đông đảo hai mươi lăm triệu đồng bào...” (nguyên văn: 下 念 吾 二 十 五 兆 同 胞 之 眾 ).
III. Văn phong ngôn ngữ Văn minh tân học sách và Thỉnh cải định thí pháp
Ở đầu phần tham luận này chúng tôi đã nêu sự giống nhau về văn phong giữa VMTHS viết bằng Hán văn và Luận về chính học cùng tà thuyết viết bằng quốc ngữ do trong hai văn bản cùng sử dụng phổ biến một số thủ pháp tu từ. Những thủ pháp ấy cũng là đặc trưng chung cho TCĐTP có tên tác giả là Ngô Đức Kế và VMTHS khuyết danh. Xin nêu thêm một số ví dụ tiêu biểu về xướng - kết đồng dạng và điệp từ:
- TCĐTP: “Nói về chính thể ư? – thì có chuyên chế, có cộng hoà, có dân chủ. Nói về giao thiệp ư? – thì có lãnh thổ, có tô giới, có công pháp, có thương ước, có lãnh sự, có công sứ. Nói về cạnh tranh ư? – thì có pháo đài, có thiết giáp hạm, có ngư lôi, có địa lôi, có tầu ngầm. Nói về chính pháp ư? – thì có tầu thuỷ, có đường sắt, có điện tín, có bưu chính, có ngân hàng, có bảo hiểm <...> Nói về học thuật ư? – thì có thiên văn học, địa lý học, địa chất học, khí tượng học, hoá học, âm học, điện học, thuỷ học, nhiệt học <...> ” (言 乎 國 体 則 曰 専制 曰 共 和 曰 民 主 言 乎 交 涉 則 曰 領 土 曰 租 埠 曰 公 法曰 商 約 曰 領 事 曰 公 使 言 乎 競 争 則 曰 炮 臺 曰 鉄 甲 艦 曰 魚 雷 曰 地 雷 曰 潜 水 艇 言 乎 政 法 則 曰 輪 船 曰鉄 路 曰 電 線 曰 郵 政 曰 銀 行 曰 保 險 <...> 言 乎 學 術 則 曰 天 文 學 地 理 學 地 質 學 氣 學 化 學 聲學 電 學 水 學 熱 學 <...>);hãy so sánh: VMTHS – “Nông học có hội: người ta đương cạnh tranh về nghề nông đấy! Còn ta thì vẫn như cũ! <...> Thương chính có sở: người ta đương cạnh tranh về nghề buôn đấy! Còn ta thì vẫn như cũ! <...> Công nghiệp có xưởng: người ta đương cạnh tranh về công nghệ đấy! Còn ta thì vẫn như cũ! <...> ” (農 學 有 會 人 農 戰 矣 而我 如 故 也 <...> 商 政 有 衙 人 商 戰 矣 而 我 如故 也 <...>工 作 有 廠 人 工 戰 矣 而 我 如 故 也 <...>). Hãy so sánh: VMTHS – “Không nghe câu chuyện nước Nhật Bản ư? Trong thời gian hơn 30 năm gần đây, nước Nhật thâu nhập văn minh châu Âu, nay đã đạt được mục đích rồi. Không nghe câu chuyện nước Xiêm La ư? Trước đây vài mươi năm nước Xiêm đã giao thông với Âu châu, phái con em đi du học, nay chính sự đã có phần mới mẻ, khả quan rồi. Lại không nghe nói chuyện nước Tàu ư? Tàu vốn là một nước thủ cựu, thế mà chỉ do trong ngoài cùng kích thích, nay trên dần dần hiểu ra phương pháp Âu tây có thể nương theo, dưới cũng biết rằng học thuật Âu tây là đáng chuộng. Nay nước Tàu đã có sở phỏng tạo,có hội quảng học rồi <...>” (( 不 聞 之 日本 乎 三 十 餘 年 之 間 輸 入 歐 洲 文 明 今 則 達 其 目 的 矣 不 聞 之 暹 羅 乎 數 十 年 前 與 歐 洲 通 派 子 弟 往 學 今 已 畧 有 新 政 可 觀 矣 又 不 聞 支 那 乎 支 那 故爲 永 舊 國 也 一 自 外 界 内 界 互 相 擊 剌 之 於 是 乎 上 焉 者 漸 知 西 法 可 憑 下 焉 者 亦 知 西 學 之 足 尚 今 則倣 造 有 局 廣 學 有 會 <...>).
- TCĐTP: “Nhìn ra thế giới thì người ngày một tiến bộ thế kia. Nhìn lại nước ta thì mình ngày một thụt lùi thế này” (觀 於 世 界 其 日 進 也 如 彼 觀 於 吾 國 其 日 退 也 如 此 ). Hãy so sánh: VMTHS – “Văn minh nước ta thì có tính chất luôn tĩnh thế này. Văn minh châu Âu thì có tính chất luôn động thế kia” (夫 以 我 國 之 文 明 其 永 静 性 如 此 歐 洲 之 文 明 其 永 動 性 也 如彼 )
Giọng văn chính luận của Tập Xuyên Ngô Đức Kế có những đặc trưng riêng, không trộn lẫn với ai được. Khi chuyển từ Hán văn sang viết bằng tiếng Việt cụ vẫn giữ nguyên giọng chính luận của riêng mình, thậm chí theo chúng tôi tiếng mẹ đẻ đã tạo điều kiện cho ngòi bút chính luận của Cụ thoả sức tung hoành, các thủ pháp tu từ đặc trưng trở nên nhuần nhuyễn hơn, ứng dụng được cả vào thơ ca quốc ngữ của Cụ. Xin hãy đọc bài thơ “Hỏi Gia Long” (1923) mà học giả Đặng Thai Mai công bố trong công trình của ông Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (nxb Văn hoá, Hà Nội - 1961), in lại trong Hợp thuyển thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (nxb Văn học, Hà Nội 1972).
Có câu thường nói: văn là người. Tuy nhiên, để minh định tác giả thì chỉ trong tổng thể với những căn cứ về lai lịch, về nội dung tư tưởng và ngôn ngữ, văn phong mới trở thành căn cứ thuyết phục. Trong tổng thể các chứng cứ đã trình bày trên đây có thể kết luận rằng văn phong VMTHS và TCĐTP là của một tác giả.
Quá trình ra đời của Văn minh tân học sách và Thỉnh cải định thí pháp có thể tóm lược như sau. VMTHS được biên soạn năm 1904, vậy nó phải được thảo luận thống nhất trong sĩ phu tham gia Duy Tân - Nghĩa Thục từ trước đó. Trước thời điểm đó, cho đến nay chúng ta mới biết có cuộc hội đàm năm 1903 của sĩ phu Trung - Bắc mà Sơn Tùng qua hồi ức của ông Cả Khiêm và bà Thanh, anh chị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã miêu tả khá chi tiết, từ hành trình ra Hà Nội của PB Nguyễn Sinh Sắc, TS Ngô Đức Kế và một vài người khác đến thành phần và địa điểm hội kiến. Trong số tham dự thì Ngô Đức Kế, như đã trình bày ở mục I.2., là người hội đủ nhất các điều kiện để được trao nhiệm vụ chấp bút văn bản thể hiện quan điểm chung đã nhất trí về sách lược của nền tân học họ dự định xây dựng. Ngay năm sau, 1904, Ngô Đức Kế hoàn thành VMTHS. Tiếp đó, khi các thủ lĩnh khởi phát phong trào chuẩn bị giành thắng lợi quyết định ở ngay Hà Nội, dinh luỹ chính trị của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, Phan Chu Trinh đầu năm 1906 từ Quảng Nam, nơi phong trào đã khởi phát từ 1904, ra Hà Nội hội kiến với Lương Văn Can cùng một số nhân vật chủ chốt trong sĩ phu Bắc Hà, hẳn đã đi đến nhất trí “tương kế tựu kế”: nhân Toàn quyền Paul Beau ký Sắc lệnh 14 - 11 - 1905 thành lập Nha học chính Đông Dương với Hội đồng cải cách việc học của người bản xứ, họ quyết định công khai gửi một bức thư cho Chính phủ Nam triều đòi cải cách chế độ thi cử để mở đường cho nền tân học họ sắp trống giong cờ mở khai trương giữa Hà Nội. Việc này Ngô Đức Kế, người hai năm trước đã được giao soạn thảo VMTHS, mà đảm nhận sẽ thuận lợi hơn cả. Điều này giải thích một cách logich tại sao Phan Chu Trinh “mua đường đất”: từ Quảng Nam ra không ghé luôn Nghệ Tĩnh mà chỉ sau cuộc hội kiến ở Hà Nội, mới lộn trở vào gặp Ngô Đức Kế chuyển đạt ý chung đề nghị viết bức thư công khai kiến nghị sửa phép thi, rồi lại quay ra lên Lạng Sơn vào đồn Phồn Xương gặp Đề Thám. Ngô Đức Kế đã hoàn thành việc soạn thảo và gửi bức thư này (tức “Bẩm vi thỉnh tương thí pháp lược hành cải định...”) vào cuối 1906 - đầu 1907, chắc phải trước tháng 3 - 1907, khi khai trương trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
*
Qua sự phân tích đối chiếu toàn diện trên đây đối với 2 văn bản Văn minh tân học sách và Thỉnh cải định thí pháp đến đây có thể khẳng định rằng tác giả của hai văn bản này chỉ là một người. Như vậy: tác giả Văn minh tân học sách là Tiến sĩ Ngô Đức Kế.
Còn một căn cứ nữa. Đó là bài thơ của cụ Tập Xuyên viết trong ngục Hà Tĩnh mà cụ Huỳnh Thúc Kháng đưa vào ở vị trí thứ hai, chỉ sau bài thơ tù của cụ Tây Hồ, trong tập Thi tù tùng thoại. Cụ Huỳnh đã làm một bản dịch thơ sang tiếng Việt:
Xe như nước chảy, ngựa như rồng
Vì cớ gì ta vẫn bực lòng
Ham học văn minh đà mấy lúc
Mão tù đâu khéo cấp cho ông!
Hai câu cuối nguyên văn chữ Hán như sau:
年 來 愛 說 文 明 學
贏 得 南 冠 作 楚 囚
Nghĩa là:
Mấy năm lại đây hay thuyết về nền học văn minh (tức nền tân học!)
Vậy nên được nhận cái mũ phương Nam của tên tù nước Sở (tức tên tù mất nước)
Bài thơ viết năm 1907, “mấy năm lại đây” có thể hiểu là 2 - 3 năm trước, tức 1904 - 1906, đúng thời gian ra đời của VMTHS và TCĐTP. Có một điều chắc chắn: không có bài thơ thứ hai của bất kỳ chiến sĩ Duy Tân nào khác gắn trực tiếp như thế việc mình bị bắt bớ tù đày với việc “hay thuyết về nền học văn minh”!*
Như vậy là thêm một căn cứ nữa, dẫu là căn cứ gián tiếp. Nhưng Viện sĩ chuyên gia văn bản học đã chẳng nói đấy thôi: đôi khi, những chỉ dẫn gián tiếp lại chắc chắn hơn những chỉ dẫn trực tiếp.
Hà thành, Mậu Tý trọng Hạ, ngày Canh Tý
(29 - 6 - 2008)
Lỗ sinh Vũ cẩn bút
---------------------------------------------
*Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc ở TP Hồ Chí Minh mách bảo chúng tôi rằng trong một bài thơ tức sự nhân ra sở ruộng làm xâu ở Côn Đảo, cụ Nghè Tập Xuyên còn một lần nữa nhắc đến mấy chữ “văn minh tân học”:
Cộng thuyết văn minh tân học hảo,
Bình sinh cao thượng bất như đê.
Cụ Huỳnh dịch:
Cho biết hèn hơn cao thượng đấy,
Văn minh học lối chớ nên kiêu.
Xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo của ông Ngạc! – VTK.
*
Phụ lục
Phiên âm:
Ti Đào Nguyên Phổ túc bẩm
Hiệp biện Đại học sĩ Cơ mật viện Đại thần Lại bộ Thượng thư Hiền Lương tử Trương tướng công hành duy ngọc miến
Thiết chiếu ngã quốc tòng tiền sở dĩ năng tự mệnh vi văn hiến chi bang giả, thực lại Chu Khổng chi giáo, đào dã nhi hoá thành chi. Kí học Trung quốc chi văn bất đắc bất thủ tư ư Trung Quốc chi thư tịch, diệc do học Tây học giả tất tu đa cấu Tây thư dã. Tố tự Đông Tây giao thông nhi hậu Trung Quốc du học chi sĩ biến ư Âu Mỹ chư bang, cố phàm Tây phương sử truyện cập cách trí giáo khoa chư thư vô bất dịch xuất Hoa văn, dĩ tì học giới. Kim Trung Quốc học đường lâm lập, nhất thiết học khoá giai dụng tân thư nhi Ngũ kinh Tứ thư tắc duy độc chính văn minh đại nghĩa nhi dĩ. Cái hoàn doanh phong hội kim dữ tích thù tắc học vấn nhất đồ quyết bất khả nệ cổ nhân nhi giao cựu tập, kì thế nhiên dã.
Bản niên Đông Dương thiết lập Đại hội đồng toạ, nghị hưng tân học, phàm giáo pháp thí pháp vô bất châm chước cải lương, dĩ trăn hoàn thiện. Thả Hán học, Tây học kiêm cử tịnh hành, thị thành ngã bang văn minh tiến bộ chi hảo thời cơ dã. Bảo hộ quốc gia dĩ hưng học vi tối trọng đại, tối khẩn thiết chi sự, đa phương tưởng lệ, tận lực khuếch trương. Tức tựu tân thư nhất khoản ngôn chi. Tiền thử nghiêm cấm Thanh thương bất đắc du nhập Hoa báo cập Nhật - Nga chiến sử, chiến đồ ư đông Dương hạt nội. Chí bản niên dĩ thân nghị bãi cấm, thính nhân đắc tuỳ ý mãi quan nhi phàm nhập khẩu chi hoá duy tân thư miễn kì nạp thuế dục thư giá bất chí đằng ngang dã. Hiện lưỡng kì các tỉnh thành hữu năng lập Học hội, sáng Thư viện, như Hải Phòng, Thái Bình, Hưng Hoá, Bình Thuận các xứ, sở tại công sứ quan giai quỹ công ngân dĩ trợ chi, hựu khuyến quảng cấu Trung Tây chư thư dĩ công giảng tập. Thử giai ti sở mục kích nhi tâm hỉ chi <...>
Dịch nghĩa:
Ti chức Đào Nguyên Phổ kính cẩn trình lên dưới trướng
Quan Hiệp biện Đại học sĩ Đại thần Viện Cơ mật Thượng thư bộ Lại tước Hiền Lương tử Trương tướng công
Kính xét nước ta từ xưa có thể tự xưng là nước văn hiến do nhờ ở sự dạy bảo và đào luyện của họ Chu họ Khổng mà hoá thành. Đã học văn chương Trung Quốc thì không thể không lấy tư liệu ở thư tịch Trung Quốc, cũng vậy học tập văn chương Tây Âu tất phải mua nhiều sách phương Tây. Kể từ sau khi Đông Tây giao thiệp, thông thương với nhau, có nhiều sinh viên Trung Quốc du học các nước Âu Mỹ cho nên các sách sử, truyện, cách trí và giáo khoa phương Tây không sách nào không dịch ra Hoa văn để trợ giúp cho giới học sinh. Ngày nay các trường học ở Trung Quốc lập ra rất nhiều, các khoá học đều nhất thiết dùng tân thư còn như Tứ thư, Ngũ kinh thì chỉ đọc phần chính văn, cốt hiểu rõ ý lớn. Vì vận hội khắp hoàn cầu bốn bể nay đã khác xưa thì con đường học vấn quyết không thể nệ vào cổ nhân mà bám vào các lề thói cũ, đó là chuyện đương nhiên.
Năm nay ở Đông Dương đã thiết lập toà Đại hội đồng, kiến nghị chấn hưng tân học, phàm phép dạy, phép thi không phép nào là không châm chước mà sửa đổi cho tốt để dần dần hoàn thiện. Cả Hán học lẫn Tây học cùng tiến hành, đó đúng là thời cơ tốt cho văn minh tiến bộ ở nước nhà. Nay Nhà nước Bảo hộ coi việc chấn hưng học vụ là tối trọng đại, tối khẩn thiết, đã làm nhiều cách khích lệ, dốc sức khuếch trương. Hẫy lấy một khoản tân thư mà nói. Trước đây nghiêm cấm thương nhân nhà Thanh du nhập vào địa hạt Đông Dương báo chí Trung Hoa và lịch sử cùng bản đồ chiến tranh Nhật – Nga. Đến năm nay đã bãi bỏ lệnh cấm ấy, khiến mọi người được tuỳ ý mua xem, mà phàm hàng hoá nhập khẩu là tân thư thì được miễn thuế cốt không để giá sách vọt cao. Hiện nay ở cả Bắc và Trung kì các tỉnh thành đã lập hội Học, mở Thư viện như Hải Phòng, Thái bình, Hưng Hoá, Bình Thuận; quan Công sứ sở tại đều trích tiền công quỹ mà tài trợ, lại khuyến khích rộng mua sách Trung Hoa và Âu Tây làm sách công để giảng dạy. Những điều này ti chức đều thấy tận mắt khiến lòng thực hoan hỉ <...>
(V.T.K. tạm dịch)
[i] Vũ Thế Khôi: Suy nghĩ về triết lý giáo dục của Đông Kinh Nghĩa Thục (Phát biểu tại Hội thảo “Tư tưởng giáo dục của Đông Kinh nghĩa thục”, do Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức ngày 26 - 7 – 2007, Hà Nội ). – http://hoikhuyenhocvietnam.org
[ii] Nguyễn Hiến Lê: Đông Kinh Nghĩa Thục. – Xuất bản ở Sài Gòn lần thứ nhất năm 1957, lần thứ hai năm 1967; NXB Văn hoá Thông tin in lại năm 2002, tr. 46 - 53; Nguyễn Văn Xuân: Phong trào Duy Tân. - dẫn theo “Lê Thị Kính (Phan thị Minh): Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới. Q. I, T.1, NXB Đà Nẵng, 2001, tr. 87
[iii] Xin xem các bài của Sơn Tùng trên báo An Ninh Thủ đô, số Xuân Tân Mùi 1991 và trên Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam. http:// www.cpv. org.vn/ Cập nhật lúc 10g42p ngày 15 / 6 / 2003.
[iv] Nguyễn Thừa Hỷ: Thăng Long Hà Nội. Thế kỷ VII - XVIII - XIX. – Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội 1993, tr. 64
[v] Vũ Thế Khôi: Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn với sự nghiệp chấn hưng văn hoá Thăng Long. - Tạp chí Xưa & Nay số 30 tháng 8 – 1996. Tham khảo thêm: Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn, một cội nguồn văn hoá - xã hôi sâu xa của trường Đông Kinh Nghĩa Thục (Báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế nhân 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục do Đại học Provence tổ chức ở Pháp ngày 3 – 5 / 5 / 2007). – http://dongtac.net (nhập ký tự: Vũ Thế Khôi); tóm lược đăng Xưa & Nay, số 283 tháng 5 – 2007.
[vi] Nguy ễn Hi ến L ê, sđd, tr. 37
[vii] Xin đọc Chu Thiên: “Bóng nước hồ Gươm. – nxb Văn học, Hà Nội - 1976
[viii] Trần Văn Giàu: Chống xâm lăng. Tập III. – Hà Nội 1957.
[ix] Vũ Thế Khôi: Đức Thánh Trần trong đền Ngọc Sơn. - Tạp chí Xưa & Nay, số 80 tháng 10 – 2000. Xin tham khảo thêm b/c khoa học đã nêu trên của chúng tôi tại Hội thảo ở Đại học Provence.
[x] Nguyễn Q. Thắng: Phong trào Duy tân. Các khuôn mặt tiêu biểu. – NXB Văn hoá thông tin, 2006, tr. 102 - cước chú 2
[xi] Chương Thâu: Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hoá đầu thế kỷ XX. – nxb Hà Nội 2008.
[xii] Chương Thâu - Đào Duy Mẫn &... (biên soạn): Đình nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ. – nxb Hội Nhà văn, 2008, tr. 198 - 205.
[xiii] Likhatrôv Đ.X.: Tekxtologia. - Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô, nxb Nauka, Moxkva - Leningrad, 1964, tr. 54.
[xiv] Sách đã phát hành, xin tham khảo: Ngô Đức Kế, cuộc đời và tác phẩm. Ngô Đức Thọ sưu tập, giới thiệu. - Sở Văn hoá, thông tin và Du lịch Hà Tĩnh, 2008, tr. 589 - 605 (nguyên bản chữ Hán) và tr. 21 - 30 bản dịch của PGS-TS Ngô Đức Thọ; chúng tôi cũng xin sửa đôi câu chữ (cũng dánh dấu *) khi cần thiết cho đối chiếu
[xv] Likhatrôv Đ.X.: sđd, tr. 55
[xvii] Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng: Thi tù tùng thoại. – nxb Văn hoá - Thông tin, 2001, tr. 12 - 13
[xviii] Xin tham khảo các bài của Sơn Tùng trên báo An ninh Thủ đô, số Xuân Tân Mùi 1991 và trên Báo điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam, http:// www.cpv.org.vn/ Cập nhật lúc 10g42p ngày 15 / 6 / 2003
[xix] Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng, sđd, tr. 53
[xx] Vũ Thế Khôi: Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn, một cội nguồn văn hoá xã hội sâu xa của trường Đông Kinh Nghĩa Thục (báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế nhân 100 năm ĐKNT do Đại học Provence tổ chức ở Pháp 3 – 5 / 5 / 2007); tóm lược đăng Xưa & Nay số 283 tháng 5 2007; toàn văn tiếng Việt có trên các mạng Talawas và dongtac.net (nhập ký tự Vũ Thế Khôi)
[xxi] Vũ Thế Khôi: Một trào lưu văn hoá của sĩ phu Hà thành qua giải mã thơ văn chữ Hán. - Kỷ yếu Hội thảo khoa học Những vấn đề ngôn ngữ học... – Khoa ngôn ngữ học trường ĐHKHXH&NV, Hội Ngôn ngữ học và Tạp chí Ngôn ngữ học, Hà Nội 29 - 12 - 2007, tr. 225 - 233.
[xxii] Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh): Phan Châu Trinh qua những tư liệu mới. Quyển I, tập 1. – nxb Đà Nẵng, 2001, tr. 87
[xxiii] Likhatrôv Đ.X., sđd, tr. 54