Nhìn ra thế giới

150 năm cuộc Nội chiến Mỹ

Ngày 12.4.1865, đại úy George S. James, chỉ huy một tiểu đoàn pháo binh của phe Hợp bang, ra lệnh bắn đại bác vào khu vực đóng quân của phe Liên bang miền Bắc, chính thức mở màn cuộc Nội chiến đẫm máu, kéo dài cho đến khi tướng Robert E. Lee, Tư lệnh phe Hợp bang, ký nhận đầu hàng không điều kiện ở Appomattox ngày 9.4.1865 trước sự chứng kiến của Tổng Tư lệnh phe Liên bang, tướng Ulysses S. Grant.

150 năm của hoài niệm lịch sử là một thời gian thật dài, nhưng vẫn chưa đủ để làm nhạt phai đi những ký ức đau buồn của một bi kịch khủng khiếp. Nhìn lại cuộc Nội chiến đó của lịch sử Mỹ, có thể hiểu thêm một phần những khuất lấp - bóng mờ - điểm sáng của lịch sử nước Mỹ nói riêng, của toàn nhân loại nói chung; bởi, như ai đó đã từng nói, chính nhờ vào những điều đã được quên đi mà lịch sử trở nên hấp dẫn hơn từ những khía cạnh không thể nào quên.

Trước hết, phải thấy rằng sự tài ba, cao thượng của tướng Robert E. Lee là một trong những điều kỳ lạ nhất của chiến tranh: Ngay cả tướng Grant cũng phải thừa nhận rằng tướng Lee là “người thất bại đáng được kính trọng”. Nên nhớ rằng 11 bang miền Nam chỉ có 9 triệu dân và một nền công nghiệp có sức mạnh chỉ bằng 1/3 so với 23 bang miền Bắc, có đến 22 triệu dân. Quả thực, châu chấu đã đánh bại voi suốt hơn 3 năm liền. Miền Nam chỉ đầu hàng khi bị kiệt sức vì sự những thê thảm từ nguồn cung cấp vật chất, nhân lực từ hậu phương, đúng như nguyên lý bất di bất dịch của mọi cuộc chiến tranh - hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định đến thắng lợi. Tướng Lee là một thiên tài quân sự khi ông luôn giành được thắng lợi từ những cuộc đối đầu chênh lệch về lực lượng, phương tiện, vũ khí; hay nói một cách chính xác hơn, Lee chỉ thua ở kết cục sau cùng.

Điều tiếp theo cần phải được nhắc nhở là trận đánh nổi tiếng ở Gettysburrg vào tháng 7.1863. Sau 3 ngày giao tranh, phe Liên bang chết 3.000 người, phe Hợp bang mất 4.000 người. Tổng số binh sĩ bị thương và mất tích của mỗi bên không ít hơn 20.000 người. Như vậy, cứ mỗi ngày, 1,7 vạn người đã chết, bị thương hay mất tích. Trong lịch sử Hoa Kỳ suốt 222 năm qua (tính từ khi có chính phủ đầu tiên, năm 1789), chưa bao giờ có một tổn thất về nhân mạng lớn như thế. Như là một đồng cảm, một tiên tri, một sự chói sáng đầy xúc động của tư tưởng nhân văn, Tổng thống Abraham Lincoln đã ra lệnh chiêu tập cả 7.000 thi hài của cả hai bên để an táng tại Nghĩa trang Quốc gia. Ngày 19.9.1863, khánh thành nghĩa trang quốc gia, Lincoln đã đọc bài diễn văn nổi tiếng với những câu bất hủ: Tại đây, chúng ta đoan quyết rằng cái chết không bao giờ là vô ích - rằng, dân tộc này, ơn Chúa, sẽ hồi sinh bởi tự do - rằng, một chính phủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân (of the people, by the people, for the people) sẽ không thể bị tiêu diệt trên trái đất này...

Trong lịch sử hàng ngàn năm của nhân loại từ cổ chí kim, có lẽ, chưa khi nào có chuyện những người có lẽ phải lại quyết định an táng chung cho cả những người đã hy sinh vì cách mạng, chính nghĩa cùng với những người đã chết vì chống lại chân lý! Phải chăng, sự bất đồng về tư tưởng (miền Nam hay miền Bắc đều khăng khăng cho rằng lý tưởng của mình là đúng) vẫn không hề cản trở sự tôn trọng đối với những ngược chiều, cho dù những bất đồng đó đã làm đẫm máu không ít các bãi chiến trường? Sâu xa hơn và cao đẹp hơn, phải khẳng định rằng chính nghĩa cử vô tiền khoáng hậu mà Lincoln đã làm, đã tôn vinh như là năng lực sống tự nhiên của một thiên tài (lý do chủ yếu để ông được tôn vinh là TT vĩ đại nhất nước Mỹ) là cứu cánh thật sự cho sự hòa hợp, hóa giải các mâu thuẫn - điều không thể thiếu đối với bất kỳ quốc gia nào muốn trở nên trường tồn, vĩ đại.

Sự kỳ diệu và đáng phải khâm phục chưa dừng lại ở đó. Hiệp ước Appomattox không có điều khoản sỉ nhục nào với 20 vạn tù binh. Thậm chí, khi thấy binh lính của mình quá ồn ào với việc ăn mừng chiến thắng, tướng Grant đã nhắc nhở họ rằng “Những kẻ nổi loạn lại là đồng bào của chúng ta đấy”(1). Chính nhờ lời nhắc nhở có một không hai ấy mà 20 vạn tù binh đã được an lành trở về với gia đình trong sự tôn trọng của những người chiến thắng. Còn Robert E. Lee, dù đầu hàng vẫn ngẩng cao đầu và không một ai ở phía thắng trận khi nhắc tới ông không dùng những âm trầm đầy thán phục của ngôn từ nhằm bày tỏ cả sự ngưỡng mộ về nhân cách lớn lao trong thất bại của Lee.

Tất nhiên, chính trị và lịch sử luôn là trò chơi của quyền lực. ở đó không có chỗ cho lòng nhân từ thiếu nguyên tắc cũng như chẳng bao giờ nó là nơi trú ẩn của tính nhẹ dạ của hận thù. Phải đúng 100 năm sau, khi cuộc chiến tranh Việt Nam đã bắt đầu, Quốc hội Mỹ mới thông qua Tu chính án thứ 14 (1966), công nhận đầy đủ, hoàn toàn quyền công dân của những hậu duệ của các nô lệ ngày xưa. Không ai dám đảm bảo rằng TT Mỹ Lyndon B. Johnson đã không tính toán rằng với việc đề xuất quốc hội thông qua Tu chính án ấy, ông muốn có nhiều người da đen hơn nữa tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Và, những lãnh tụ của phe Hợp bang chỉ được “ân xá” về tội lỗi của họ gần 120 năm sau bằng sắc lệnh đặc biệt của TT Jimmy Carter (1977-1981). Cũng cần phải mở ngoặc thêm một lần nữa rằng suốt 150 năm qua, chỉ mới có 2 TT Hoa Kỳ là người của miền Nam (J. Carter và B. Clinton) được nhân dân Mỹ lựa chọn. Mặc cảm nặng nề về tội lỗi và sự tha thứ không phải là những người bạn đồng hành tốt bụng.

Thế nhưng, có lẽ vì vậy mà lịch sử mới phân tích rõ hơn sự độ lượng của A. Lincoln và những người đồng nhiệm với ông. Cất bỏ gánh nặng của ý muốn trả thù, hả hê luôn là con đường ngắn nhất để đạt đến sự hóa giải nhất thiết phải có cho sự tái thống nhất quốc gia.

Cuộc Nội chiến dài 4 năm thiếu 3 ngày, đã lôi vào vòng sinh tử 4.198.304 người lính của cả hai phía, làm chết 617.528 người và tổng thiệt hại về vật chất được ước tính là 4,75 tỷ USD(2) (vào thời điểm đó, giá 1oz vàng là 15 USD, so với giá vàng ngày 26.4.2011 là 1.506,5 USd - tức là tương đương với 475 tỷ USD). Đó là con số thiệt hại về người và của lớn nhất của nước Mỹ trong tất cả mọi cuộc chiến tranh mà nó đã phát động hay tham gia. Nhưng đó cũng là cái giá phải trả để giải phóng cho 3.953.857 nô lệ trở thành công dân tự do - một trong những yếu tố quyết định để nước Mỹ, rất nhanh sau đó, trở thành cường quốc lớn nhất mọi thời đại (tính đến thời điểm này).

Sự trớ trêu của lịch sử là ở chỗ, như mọi cuộc chiến tranh khác, Những nguyên nhân của thất bại lại trở thành cội nguồn của những huyền thoại/ Và, chính những nỗi đau là “phần thưởng” dành cho những người chiến thắng - tạm dịch từ ý thơ của Stephen Vincent Benét(3).

 ............................................

(1) Khái quát về lịch sử nước Mỹ, Howard Cincotta, (nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, trang 200).

(2) The Beards’ New Basic History of the United States; Charles A. & Mary R. Beard; Doubleday & Company, inc; Garden City, New York, 1960; p.268.

(3) The beaten cause turns in to the magic cause/ The victor has his victory for his pains. A History of the United States (since 1865); T. Harry Williams - Richard N. Current - Frank Freidel; New York, Alfred A. Knoff, 1963; p. 3.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114563197

Hôm nay

2138

Hôm qua

2299

Tuần này

2138

Tháng này

221721

Tháng qua

129483

Tất cả

114563197