Tôi có may mắn được sống và học tập trên đất nước Ba Lan xinh đẹp, tràn ngập những giai điệu âm nhạc trầm bổng khó quên và những vần thơ tuyệt tác từ những năm 70 của thế kỷ XX. Nhưng phải đến những năm giữa thập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới, khi sang Ba Lan công tác với tư cách giảng viên đại học, ở độ tuổi đủ chín và hiểu biết đủ sâu về lịch sử, văn hóa của một đất nước có những nét đặc sắc không dễ gặp ở nơi khác nhưng lại vô cùng gần gũi với Việt Nam quê hương mình, tôi có điều kiện và khoảng cách thời gian nhìn ngắm, chiêm ngưỡng Ba Lan, quê hương thứ hai của tôi, kỹ càng hơn, tỉ mỉ hơn.
Sau thành phố Lodz và thủ đô Varsava, hai nơi tôi gắn bó trong những năm học đại học và làm nghiên cứu sinh, lần này tôi đến sống và làm việc ở thành phố Poznan. Nói đến các thành phố lớn ở Ba Lan, hình như người nước ngoài nói chung và người Việt nói riêng, thường kể: Varsava, Krakow, Gdansk, chứ ít ai nhắc đến Poznan. Trong bài thơ được coi là hay nhất về đề tài nước ngoài của Tố Hữu, bài Em ơi ... Ba Lan ... viết vào năm 1959, ta cũng chỉ có thể đọc được về Vacsava: Em đi cùng anh lên thành xưa / Vacsava ấm nắng ban trưa, về Krakow: Anh đã đến quê em Cracốp / Như quê anh lộng lẫy cung đền, về Gdansk: Anh đã đến quê em Ban tích / Sóng ngời xanh ngọc bích biển khơi, không thấy Poznan đâu cả. Đó là sự thật. Nhưng sự thật này ít nhiều gây oan ức cho Poznan. Chả gì nó cũng là thành phố lớn được xếp hạng cao ở Ba Lan, lại được mệnh danh là „thành phố sinh viên” vì các trường đại học ở đây thu hút hơn một trăm ngàn sinh viên trên tổng số dân khoảng sáu trăm ngàn người.
Poznan cũng là thành phố có lịch sử lâu đời. Vùng đất là cái nôi nuôi lớn thành phố này có tên là Ba Lan Thượng. Cách Poznan hiện nay chỉ mấy chục cây số có một địa danh từng là thủ đô đầu tiên của Ba Lan, Gniezno. Nếu ở Ba Lan, có sông lớn chảy qua là một ân huệ do thiên nhiên ban tặng thì Poznan hưởng trọn ân huệ đó. Poznan nằm trên sông Warta hiền hòa và thơ mộng.
Nhưng làm nên nét đẹp đặc trưng của tỉnh Wielkopolska và thành phố Poznan không chỉ có dòng sông Warta hiền hòa, thơ mộng, những lâu đài cổ kính, những cây sồi ngàn năm tuổi trong một khu rừng bạt ngàn toàn sồi là sồi. Từ hơn ba chục năm nay, Poznan là một trong những địa chỉ gặp gỡ của các nhà thơ Ba Lan và nước ngoài trong khuôn khổ liên hoan Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan. Tôi vinh dự chứng kiến và tham gia hoạt động văn học nghệ thuật đặc sắc này, khi là khách mời, lúc là đại biểu chính thức, tổng cộng đã năm lần. Có một điều bản thân tôi rất lấy làm ngạc nhiên là mặc dù nội dung và hình thức liên hoan không thay đổi nhiều, song năm nào tôi cũng náo nức chờ đợi. Một nhà thơ Việt Nam khác, anh Lâm Quang Mỹ, có số lần tham dự nhiều hơn tôi, song tâm trạng náo nức chờ đợi ở anh, năm nào cũng như năm nào, chẳng khác gì tôi. Anh Lâm Quang Mỹ, ngoài phần trình bày những bài thơ đã dịch sang tiếng Ba Lan của mình, còn mang đến Liên hoan hình thức hát thơ độc đáo của vùng Nghệ Tĩnh quê mình, nên lần nào anh cũng được hoan nghênh nhiệt liệt.
Càng nghĩ tôi càng thấy tâm đắc với tên gọi của liên hoan Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan. Ở Ba Lan nói riêng và châu Âu nói chung, tháng 11 là thời điểm gần cuối thu. Khi đó lá vàng rụng dày mặt đất và những chiếc lá còn lại trên cây thì rực rỡ một màu vàng. Càng ở Ba Lan nhiều năm, tôi càng hiểu thấu cụm từ „mùa thu vàng Ba Lan”, hiểu thế nào là mùa thu ở xứ xở châu Âu này. Khi những tia nắng hiếm hoi chiếu rọi trong ít phút còn lại của buổi chiều tà, cả không gian rực rỡ một màu vàng óng. Đi dạo trong khu công viên bên bờ hồ Malta lúc đó quả là một diễm phúc mà thiên nhiên ban tặng. Khi ấy dù không muốn trở thành thi sĩ thì trong đầu cũng nảy ra những ý thơ. Hình như phần lớn các bài thơ tôi làm đều ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Nhưng mùa thu ở Ba Lan cũng là mùa thời tiết „đỏng đảnh như một thiếu nữ khó tính”. Nhà thơ Ba Lan nổi tiếng Konstanty Ildefons Galczynski có bài thơ viết dưới nhan đề Tự tình được nhiều thế hệ độc giả nhớ và thuộc lòng. Trong câu chuyện yêu đương nam nữ, cô gái nũng nịu hỏi người yêu: „Mùa thu anh yêu em thế nào?”, người con trai trả lời: „Yêu cả khi chiếc ô em đánh mất”. Hồi còn là sinh viên văn khoa, khi đọc đoạn thơ này, thú thật tôi không hiểu lắm. Mãi sau mới biết mùa thu mưa nắng thất thường, người con gái bị coi là đuểnh đoảng nếu đi ra khỏi nhà vào những ngày mùa thu mà quên đem theo ô, nói gì đến chuyện mang đi còn đánh mất. Cho nên tôi cứ đoán mò là ban tổ chức Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan vừa mượn mùa thu để tạo cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ vừa dùng khí hậu mùa thu mưa gió thất thường để thử thách tình yêu thơ của cả thi sĩ lẫn độc giả yêu thơ.
Liên hoan được tổ chức vào những ngày đầu tháng 11 hàng năm và thường kéo dài ba, bốn ngày. Khách mời đến từ nhiều thành phố lớn nhỏ trên đất Ba Lan và một số nước láng giềng. Ngoài khoản ở miễn phí trong ký túc xá sinh viên của Trường đại học tổng hợp mang tên Adam Mickiewicz, khách phải tự túc hoàn toàn. Nơi nào mời các nhà thơ đến nói chuyện, nơi đó có nhiệm vụ mang xe đón và trả tận nơi, thanh toán thù lao và mời khách ăn trưa. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là ban tổ chức „tểnh tềnh tênh”, chẳng có việc gì làm. Cho nên nói đến liên hoan Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan, trước hết phải dành đôi lời nói về những người tổ chức ra nó.
Ở Ba Lan hàng năm có đến mấy chục hoạt động thơ ca theo kiểu liên hoan như thế này. Các thành phố lớn như thủ đô Varsava, cố đô Krakow, thành phố Wroclaw nổi tiếng xinh đẹp tổ chức đã đành, nhiều địa phương cấp huyện hay nhà văn hóa cũng có những hoạt động tôn vinh nàng thơ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận một điều là Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan có sức sống mãnh liệt của riêng mình và có bề dày thời gian khó bề so sánh với những liên hoan thơ khác. Người tổ chức hoạt động này từ hơn ba chục năm nay là Chi hội Nhà văn Ba Lan tại thành phố Poznan. Sau mấy kỳ tham dự liên hoan, tôi vinh dự làm quen các nhân vật chính của Chi hội và thường xuyên ghé thăm nơi làm việc của họ. Trụ sở Chi hội nằm khiêm tốn trong một khu chung cư đã khá cũ. Tất tật gói gọn trong một căn phòng vài chục mét vuông. Nghe nói số lượng hội viên nhà văn Ba Lan sinh hoạt trong Chi hội là trên dưới sáu mươi người, chỉ chịu nhường vị trí số một cho Chi hội Varsava. Bộ máy hành chính của Chi hội gồm một chủ tịch, hai phó chủ tịch, một thư ký và một thủ quỹ. Trước mỗi lần diễn ra cuộc gặp gỡ có nhiều khách nước ngoài tham dự này, lãnh đạo Chi hội huy động lực lượng hội viên, lo từ cái lớn nhất là xin kinh phí đến cái nhỏ hơn là gửi giấy mời, đón tiếp đại biểu. Chi hội không có kinh phí hoạt động nên trước mỗi liên hoan, lãnh đạo gửi thư đích danh cho các Chủ tịch tỉnh Wielkopolska, Thị trưởng thành phố Poznan, Hiệu trường Trường Đại học Tổng hợp, Giám đốc Đài truyền hình địa phương... xin ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần. Cũng cần nói thêm rằng lãnh đạo Chi hội, từ chủ tịch đến thư ký, đều làm việc theo kiểu tự nguyện, không có lương hay bất cứ khoản trợ cấp nào. Họ sống bằng nghề nghiệp khác và bằng một tình yêu văn chương mãnh liệt.
Liên hoan Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan mỗi năm thu hút trên 50 nhà thơ Ba Lan và khoảng 10 nhà thơ nước ngoài. Những năm gần đây, các nước thường xuyên có đại diện là Nga, Đức, Séc, Ucraina và Việt Nam. Cả tôi và nhà thơ Lâm Quang Mỹ, tuy tham gia liên hoan một cách tự phát do đang có mặt tại Ba Lan, chứ không phải được cử từ trong nước sang, song vì cả hai đều là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nên có thể tự coi mình là người đại diện cho một nền thơ, cho một đất nước xa xôi.
Các nhà thơ dự liên hoan, bất kể là người bản xứ hay nước ngoài, không tính đến thành phần, địa vị xã hội, đã gặp nhau, chỉ câu trước câu sau là bỏ hết nghi lễ xã giao, chuyển ngay sang cách xưng hô thân mật. Chủ tịch đương nhiệm Hội Nhà văn Ba Lan, ông Marek Wawrzkiewicz, đến với liên hoan thầm lặng như bao nhà thơ khác. Ông đi từ thủ đô xuống Poznan bằng tàu hỏa, từ tốn đứng dậy đáp lễ mọi người khi được giới thiệu tại hội trường trong buổi gặp mặt toàn thể hay khi được mời lên ngồi ghế chủ tịch đoàn. Kết thúc chương trình liên hoan, ông đi bộ ra ga về Varsava, không ồn ào, không tiền hô hậu ủng.
Một trong những mục bất đi bất dịch của chương trình liên hoan là „Maraton thơ”, nghĩa là tất cả những người tham dự liên hoan, mỗi người lên đọc một bài thơ của mình, không giới thiệu bản thân, không bình luận bài thơ, không mào đầu, không kết luận. Gọi là „maraton” vì thời gian dành cho phần này thường là từ hai đến ba tiếng đồng hồ. Trong thành phần khán thính giả ngồi dưới hội trường, ngoài các nhà thơ chờ đọc thơ mình và nghe thơ người khác, có rất nhiều người yêu thơ và các sinh viên khoa Ngữ văn Ba Lan của Trường đại học tổng hợp mang tên Adam Mickiewicz ở Poznan. Tất nhiên điều quyết định để tất cả mọi người có mặt tại hội trường là tình yêu thơ cháy bỏng giữa thời đại thơ ca đang mất dần địa vị trong đời sống tinh thần nhân loại, song sự kiên nhẫn ở họ thật đáng khâm phục. Bởi vì lắng nghe và thưởng thức một mạch sáu, bảy chục bài thơ của sáu, bảy chục tác giả từ khắp mọi miền Ba Lan và nước ngoài, với những phong cách và tư duy nghệ thuật khác nhau, không phải là điều ai cũng có thể làm được. Trong thời gian diễn ra „maraton thơ”, ở sảnh rộng phía ngoài hội trường, các tình nguyện viên tổ chức một số quầy nho nhỏ gọi là hội chợ sách, trưng bày và bán các tập thơ. Các nhà thơ có thể gửi sách tại đó để đáp ứng nhu cầu bạn đọc.
Mục đích tôn vinh thơ có thể thấy rất rõ trong các hoạt động gần như đã thành đề mục cố định trong chương trình liên hoan hàng năm. Trước hết là việc xét tặng và trao Giải thưởng mang tên Kazimiera Illakowiczowna, nữ nhà thơ Ba Lan nổi tiếng quê gốc Poznan, cho tập thơ xuất sắc nhất trong số những tập gửi dự thi hàng năm. Quyết định của Ban giám khảo được đọc công khai tại hội trường và người trúng giải lên nhận giải trong bầu không khí nghiêm trang. Giải thưởng không bao giờ là tiền mặt mà thường là một bức tượng đồng khá nặng mang tính biểu tượng văn học cao.
Ban tổ chức liên hoan rất quan tâm đến hoạt động dã ngoại cho các nhà thơ. Điều đặc biệt thú vị là tên gọi các cuộc dã ngoại này rất văn học. Chúng có thể được lấy từ một số sự kiện văn học hay những chi tiết liên quan đến nhân vật trong kiệt tác Chàng Tadeusz của đại thi hào dân tộc Ba Lan, Adam Mickiewicz. Trong chương trình liên hoan hàng năm cũng không thể thiếu các chuyến thăm nơi ở và làm việc của một số nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đã từng có những năm tháng sống và lao động sáng tạo ở Poznan. Năm 2008, trong khuôn khổ liên hoan Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan lần thứ 31, những người tham dự đã tận mắt nhìn thấy nơi ở và làm việc của Arkady Fiedler, nhà báo Ba Lan nổi tiếng đã đến Việt Nam và viết nhiều tác phẩm về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.
Mục tiêu quan trọng của liên hoan Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan không chỉ là tôn vinh thơ mà còn giáo dục tình yêu thơ ca cho thế hệ trẻ Ba Lan. Vì vậy buổi chiều ngày đầu tiên và hầu như toàn bộ ngày thứ hai của Liên hoan bao giờ cũng là khoảng thời gian dành riêng cho các nhà thơ tiếp xúc với độc giả yêu thơ. Hình thức này được ban tổ chức gọi chung là „Giảng thơ ở các trường học”. Người nghe có thể là học sinh phổ thông hay đại học, cũng có thể là những người yêu thơ tập trung ở thư viện công cộng của một thị trấn. Trước khi diễn ra liên hoan, ban tổ chức lên danh sách các nhà thơ sẽ tham dự, gửi đi các nơi để các trường học, cơ quan đăng ký mời diễn giả. Mỗi buổi nói chuyện thơ như vậy thu hút năm, sáu chục người nghe. Điều thú vị là để đến được với độc giả của mình, nhà thơ có khi phải vượt qua chặng đường cả trăm cây số. Cho đến nay tôi đã có các buổi nói chuyện thơ cho những đối tượng rất khác nhau, từ học sinh phổ thông, sinh viên đại học đến người cao tuổi. Nhưng nét chung của họ là tình yêu thơ ca và sự trân trọng lao động nghệ thuật của những người cầm bút.
Liên hoan bao giờ cũng kết thúc bằng buổi tối biểu diễn thơ, nhạc tại nhà hàng của một nhà doanh nghiệp yêu thơ. Ông tài trợ toàn bộ mọi chi phí cho cuộc gặp với các nhà thơ tham dự liên hoan để ba bốn ngày liên hoan bao giờ cũng có một điểm nhấn không thể nào quên.
Ở Việt Nam chẳng ai gọi tôi là nhà thơ, mặc dù tôi cũng làm thơ và in thơ. Nhưng trong những năm tháng làm việc ở Ba Lan, được mời tham dự liên hoan Tháng 11 Thơ quốc tế Poznan, hoạt động mà một người vốn có chút ít „máu” văn thơ trong người như tôi không thể thờ ơ, hình như tâm hồn tôi được thổi vào một luồng gió mới. Trong thời gian tương đối ngắn, tôi đã viết được mấy chục bài thơ bằng tiếng Ba Lan, mới đầu khoe với bạn bè trong phạm vi hẹp, sau trình làng ở quy mô rộng hơn và được đón nhận nhiệt tình. Cuối cùng, tôi trở thành một trong năm, sáu chục nhà thơ hàng năm tham dự một hoạt động thơ ca có ý nghĩa lớn lao. Mỗi lần được mời đi nói chuyện thơ ở các trường trung học cũng như đại học Ba Lan, một mặt tôi rất phấn khởi về bước đi của mình, song chủ yếu tôi thấy mình có niềm hạnh phúc lớn lao là được sống và làm việc tại một đất nước mà tình yêu thơ ca nhạc họa không bao giờ phai nhạt trong lòng người dân từ thế hệ này đến thế hệ khác. Có lẽ, hơn ai hết, tôi phải cảm ơn đất nước và con người Ba Lan đã khích lệ tôi đừng bao giờ quên nàng thơ và chắp cánh cho tôi bay vào thế giới thơ vừa thực vừa huyền ảo.
Tổng thống Ba Lan vừa ký quyết định trao tặng Huân chương Đại bàng trắng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Ba Lan, cho một số người làm công tác văn học nghệ thuật, trong đó có nữ thi sĩ đã được trao Nobel Văn học năm 1996, Wislawa Szymborska. Việc làm này thể hiện quyết tâm tiếp nối truyền thống tôn vinh các giá trị nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca. Từ hàng thế kỷ nay, trong suy nghĩ và tình cảm của dân tộc Ba Lan, các nhà thơ được trao cho sứ mệnh vô cùng đặc biệt. Suốt những năm dài nhà nước Ba Lan bị các đế quốc xâu xé, bị xóa tên trên bản đồ thế giới, đại thi hào dân tộc Adam Mickiewicz đã trở thành lãnh tụ tinh thần, là niềm hy vọng lớn lao trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho đất nước. Những thập kỷ gần đây, mặc dù đất nước Ba Lan có nhiều biến đổi, các chính thể khác nhau được xây dựng rồi phá bỏ, nhưng nhiều đường phố, trường học, viện nghiên cứu... vẫn mang tên các nhà thơ nhà văn lớn, những người góp phần làm rạng rỡ đất nước và dân tộc Ba Lan trên văn đàn thế giới.
Poznan, tháng 12 năm 2010
N. C. T