Những góc nhìn Văn hoá

Tư tưởng chính về bài Ứng khẩu quốc tộ của pháp sư Đỗ Pháp Thuận

            Cách đây hơn ngàn năm vào cuối thế kỉ X, một lần Lê Đại Hành hỏi Đỗ Pháp sư : “Quốc tộ đoản trường( )” ? Ngài ứng khẩu đáp :

Quốc tộ như­ đằng lạc (),   
Nam Thiên lí thái bình ().
Vô vi cư­ điện các (殿),
Xứ xứ tức đao binh ()”.

Rồi 10 thế kỉ trôi qua, bỗng đầu thế kỉ XXI, bài ứng khẩu trên được nhiều người chú ý, bàn bạc và đưa vào sách Ngữ văn 10. Nhưng, tư tưởng chính của bài này là gì ? Phải chăng đấy là “vận mệnh nước nhà như dây leo quấn quýt”[1], là “dây mây leo quấn quýt vừa nói lên sự bền chặt”[2]. Đúng không ? Đó là nội dung chính mà chúng tôi muốn trình bày.
Bài viết của chúng tôi gồm 2 phần : Con đường tiếp cận cần lưu ý và Nội dung tư tưởng chính ứng khẩu về quốc tộ.
I. Con đường tiếp cận cần lưu ý  
- Thứ nhất, nhan đề. Bài trên lẩy từ Thiền uyển tập anh Ngữ lục[3] do Pháp sư­ ĐỗPháp Thuận ứng khẩu và không nhan đề. Sau, người ta đặt tên là Quốc tộ.
- Thứ hai, Thiền sư Đỗ Pháp Thuận thuộc dòng Tì Ni Đa Lư­u Chi (? - 594). Buổi đầu, Ngài giúp nhà Tiền Lê sáng nghiệp, nhưng không nhận phong thưởng, không nhận chức tước. Vì thế, vua Đại Hành càng kính trọng, từ đó gọi Ngài là Pháp sư. Danh xưng Pháp sư là gì ? Theo Thiền lâm, các bậc cao tăng vừa tinh thông Kinh Phật, vừa có năng lực giảng giải Phật pháp được gọi là Pháp sư.
- Thứ ba, bài trên được diễn đạt dưới hình thức thơ ngũ ngôn, gồm 4 câu : 2 vần trắc (dòng 1 và 3), 2 vần bằng (dòng 2 và 4). Tuy nhiên, bài này thiên về công việc hành chính. Xin nói thêm : trong Ngữ lục, các Thiền sư thường dùng văn vần để trả lời, hoặc hỏi khi đàm thoại với môn đệ, hoặc đàm thoại với vua chúa, hoàng hậu, công khanh,… thời Lí. Đấy là đặc điểm riêng của Ngữ lục.
- Thứ tư, sách Ngữ lục không nói rõ năm ứng khẩu Quốc tộ. Nhưng, dựa vào các sự kiện lịch sử, ta có thể đoán được thời điểm ra đời của văn bản đó. Theo tôi, có lẽ sự kiện quan trọng khiến Quốc tộ sinh ra từ câu chuyện Nguyễn Giác[4] nhà Tống sang nước ta năm Đinh Hợi 987. Đấy là, nhân ngâm đùa bài Nga nga[5] khiến Giác tặng Pháp sư bài thơ Hạnh ngộ[6] () – may gặp, để bày tỏ tấm lòng khâm phục và ngợi ca Lê Đại Hành. Đúng như Đại sư Khuông Việt[7] (933 – 1011) nhận xét : Hạnh ngộ là bài “thơ này tôn bệ hạ - chỉ Đại Hành – không khác gì (tôn) chủ của họ – chỉ vua nhà Tống” (Toàn thư, tr. 172). Bởi thế, vua Đại Hành tự hào hỏi Pháp sư : Quốc tộ đoản trường ? Dựa trên sự kiện trên, ta có thể đoán, Quốc tộ ra đời năm 987, khi quốc tộ nước ta đang ở thế thượng phong và cửu trường. Hơn nữa, chẳng phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Giác công khai nói : Thiên ngoại hữu Thiên…() - ngoài Trời (phía Bắc) còn có Trời (phía Nam) ; nghĩa là, ngoài Thiên tử nhà Tống còn có Thiên tử Nam Việt ! Chỉ tiếc, Pháp sư chưa được thấy vua Đại Hành ngửng đầu không lạy[8] khi nhận Chiếu đặc tiến của nhà Tống đem đến nước ta tháng 9 năm Canh Dần 990.
II. Nội dung tư tưởng chính ứng khẩu về quốc tộ      
Để tìm hiểu nội dung bài này, chúng tôi sẽ phân tích từng câu.
1. Câu 1 : Quốc tộ như đằng lạc.
Quốc tộ là khái niệm chỉ vận mệnh đất nước do vua nắm quyền và chi phối toàn bộ cuốc sống con người. Cho nên, người ta thường gọi quốc tộ là vận nước, là ngôi vua. Lại nữa, các vua anh minh thường vời những bậc tiên tri làm cố vấn và thường hỏi quốc tộ như thế nào ? Nghĩa là, vua rất muốn biết, đất nước này, ngôi vị này : tốt hay xấu, có biến cố hay không, thế tạm thời hay cố định, vận nước suy hay thịnh, yên hay nguy… ? Một lần, vua Đại Hành hỏi Pháp sư : quốc tộ trường đoản ? Pháp sư ứng khẩu : Quốc tộ như­ đằng lạc !
Vậy, như­ đằng lạc có nghĩa gì ?
Trước hết, nói về cây đằng lạc. Cây này do thiên nhiên sinh ra và từ lâu vẫn được gọi là đằng lạc () hoặc như đằng lạc (). Về hình thức, chúng bám vào cây cao và to, vươn tới 20 mét, thậm chí còn bao trùm toàn bộ một cây cổ thụ lớn. Đặc biệt, lá và ngọn đằng lạc vươn lên như thế xông thẳng lên trời. Vì thế, người xưa lấy cây đằng lạc làm biểu tượng văn chương, biểu tượng thư pháp. Thư tịch cổ miêu tả : cây đằng lạc tung hoành, vươn cao và xa, tựa như con người đang ở thế thịnh vượng. Bởi thế, quốc tộ sẽ kéo dài mãi mãi. Nhưng thú vị hơn, đằng lạc lại là cây y dược quan trọng mà người xưa đã phát hiện ra tính chất đặc quý của chúng. Y dược viết, các loại thuốc công hiệu đặc biệt, như tử hà xa (), hải cẩu thận () có “ích khí bổ tinh” ; loại có hình dây dài giống loại đằng lạc, như nhẫn đông đằng(), kê huyết đằng (), ti qua lạc[9] () có thể thông mạch kinh lạc. Nếu dùng tử hà xa, hải cẩu thận cùng với các đằng lạc như nhẫn đông đằng, kê huyết đằng, ti qua lạc… sẽ làm mạch máu chuyển lưu, khiến thân thể tráng kiện, da đẹp, tóc đen và đặc biệt thọ trường, vạn bệnh hồi xuân, Cho nên, câu trả lời Quốc tộ như đằng lạc của Pháp sư vừa chỉ ra sự thực vận mệnh nước ta, ngôi vị vua ta, đồng thời cũng là câu chúc tụng Hoàng đế Lê Đại Hành : Thượng thọ vĩnh hằng.
Đúng vậy ! Hãy xem, Ngô vương Quyền khi lên ngôi đã 42 tuổi, làm vua 6 năm và mất tuổi 47 ; vua Đinh Tiên Hoàng lên ngôi đã 45 tuổi, nắm quyền 12 năm và mất 56 tuổi. Nhưng, nếu so 2 vị vua trên với Hoàng đế Lê Đại Hành thì sẽ hiểu được ngay câu Quốc tộ như đằng lạc. Đó là vì, năm 980, khi Đại Hành mới 36 tuổi tráng kiện đã lên ngôi và lúc Pháp sư ứng khẩu Quốc tộ như đằng lạc thì vua Đại Hành vẫn ở tuổi 43 ! Có lẽ Lê Văn Hưu đánh giá rất đúng : “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, bắt Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà cõi bờ yên tĩnh, cái công đánh lấy tuy nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được (…). Về mặt dẹp gian bên trong, đánh giặc bên ngoài để làm mạnh nước Việt ta và ra uy với người Tống thì Lí Thái Tổ công không bằng…” (Toàn thư, tr. 167). Đó là chưa kể đến công lao của Đại Hành khai thác đất nước, đào sông, vét kênh, mở rộng ngoại giao với Trung Hoa và đưa nước ta bùng lên một nền văn học mới. 
2 . Câu 2 : Nam Thiên lí thái bình.
Nam ThiênTrời Nam, chỉ Thiên tử nước Nam. Đúng như Giác viết : Thiên ngoại hữu Thiên. Nếu câu đầu, chủ ngữ là quốc tộ thì câu 2 có chủ ngữ là Nam Thiên và động từ (,), thuộc bộ y (,), bao quát toàn bộ đất nước ; nghĩa là, nước ta hoàn toàn thái bình. Ta cứ xem, bắt đầu lên ngôi năm 980, Lê Đại Hành đã dẹp yên nội nạn (giết Đỗ Thích ở Hoa Lư, chém Đinh Điền tại Ái Châu, bắt Nguyễn Bặc đem chém, bắt sống Phạm Hạp tại Bắc Giang, Ngô Nhật Khánh bị chết chìm tại cửa biển,…). Rồi cùng một lúc, Đại Hành đánh Tống 2 năm (980 – 981), dẹp tan Chiêm Thành năm 983. Quả như Ngô Sĩ Liên nhận xét : vua Đại Hành “đẩy lùi ngoại khấu để an dân, trong nước thì yên vui, Bắc Nam vô sự”[10]
3. Câu 3 : Vô vi cư điện các.
Trước hết về điện các. Đây là cơ quan Chính phủ, nơi vua và triều đình điều hành đất nước. Còn động từ chỉ hành xử của Hoàng đế ; nghĩa là, vua Lê Đại Hành điều hành đất nước : cư điện các. Riêng chữ vô vi () thuộc khái niệm triết học. Vả chăng, đã là thuật ngữ khoa học thì chúng chỉ có một nghĩa, không thể có nghĩa đennghĩa bóng như soạn giả Ngữ văn 10 Tập một đã viết trong phần Tiểu dẫn[11]. Về cơ bản, Việt Nam thời trung đại có 3 học thuyết Nho, Phật, Lão và chúng đều có thuật ngữ vô vi. Song, mỗi học thuyết đều dùng nghĩa vô vi khác nhau. Nhưng, Pháp sư nói với vua Lê Đại Hành rất đàng hoàng : Vô vi cư điện các. Điện các là cơ quan hành pháp. Cho nên, đây không phải là khái niệm vô vi của nhà Phật, cũng không thuộc vô vi của Đạo gia. Nho gia chủ trư­ơng chọn ngư­ời hiền, giao chức tước ngư­ời tài đức. Bởi vậy, vô vi của Nho gia lấy đức giáo hóa con ng­ười. Nghĩa là, lấy đức giáo hóa con người, chọn và giao ngư­ời đức tài sẽ đưa đất nước ta tới đích :
Quốc tô như đằng lạc :
Nam Thiên lí thái bình.
4. Câu 4 : Xứ xứ tức đao binh. Đấy cũng là điều mà Pháp sư mong mỏi khắp nơi chấm dứt đao binh, nghĩa là, toàn quốc thái bình. Toàn quốc thái bình thì “quốc tộ” sẽ “như đằng lạc” mãi mãi trường tồn.
Lời nói của Đỗ Pháp sư dung dị như những lời nói thường ngày, ý tứ rõ ràng, hình ảnh dễ hiểu, dễ nhớ. Đấy cũng là đặc điểm của văn học chức năng hành chính dưới hình thức thơ ngũ ngôn.
 
Hà Nội, Nguyên đán Tân Mão 2011
 


 



[1] Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tập một, Nxb Giáo dục 2004, tr. 36.
[2] Ngữ văn 10, Sách giáo viên Tập một, Nxb Giáo dục 2006, tr.178. Sau, bài trên được in lại vào sách mới Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục 2009, tr. 18.
[3] Từ đây, viết tắt Thiển uyển tập anh Ngữ lụcNgữ lục.
[4] Nguyễn Giác : trong Đại Việt sử kí Toàn thư , Tập I, Nxb KHXH , Hà Nội 1967 ghi là Lí Giác (tr. 171). Từ đây viết tắt ĐVSKTT là Toàn thư.
[5] Bài này không nhan đề, chúng tôi tạm gọi là Nga nga.
[6] Bài này cũng không nhan đề, tạm đặt là Hạnh ngộ.
[7] Đại sư : ban đầu, trong Thiền lâm tôn xưng những bậc có công hoằng xiển Phật pháp. Sau, những Thiền sư đức cao, trọng vọng được tôn là Đại sư.
[8] Tống sử (quyển 488) ghi : Lê Hoàn “thụ Chiếu, bất bái ()” – nhận Chiếu, không lạy.
[9] Nhẫn đông đằng còn có tên đại tiết lệ (大 薛 荔) , thủy dương đằng (水 楊 藤), thiên kim đằng (千 金 藤) ; kê huyết đằng thuộc loại đậu đằng ; ti qua lạc thuộc bầu bí, có thiên mộng cân (天 夢 筋), ti qua võng (絲 瓜 網), ti qua sác (絲 瓜 殼), qua lạc (瓜 絡), nhứ qua nhương (絮瓜 瓤),…
[10] Toàn thư: quyển I, Kỉ nhà Lê, tờ 13a.
[11] Ngữ văn 10 Tập một, Nxb Giáo dục, 2006, tr. 138.


 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513972

Hôm nay

2142

Hôm qua

2303

Tuần này

21909

Tháng này

220845

Tháng qua

121356

Tất cả

114513972