Trước khi đi vào phân tích và thảo luận chi tiết về những tính chất đặc biệt của mã sân khấu, chúng ta thử tìm hiểu xem do đâu có sự khác nhau đó, khi đặt nó trong mối tương quan với những mã bên trong đặc trưng của các hệ thống văn hóa khác.

Vì vậy chúng ta cần phân biệt về nguyên tắc những hệ thống văn hóa mà những ký hiệu của nó biểu thị một chức năng sử dụng nhất định và những hệ thống văn hóa khác mà những ký hiệu của nó không biểu thị chức năng sử dụng. Thuộc về nhóm hệ thống đầu là ăn mặc, máy móc, dụng cụ, vũ khí, nhà cửa… Còn thuộc nhóm thứ hai là ngôn ngữ, ký hiệu giao thông, ký hiệu điệu bộ, phong tục tôn giáo, hội họa, sân khấu…
Tuy vậy lại cũng có những hệ thống văn hóa mà ký hiệu của nó không biểu thị một chức năng sử dụng, sẽ xác lập với chức năng tạo nghĩa của nó một nhóm hoàn toàn không đồng đẳng. Về phương diện này, có thể dẫn ra làm thí dụ cho mối tương quan đối lập giữa ký hiệu ngôn ngữ của thơ ca với những ký hiệu ngôn ngữ trong loại hình không phải thơ ca, giữa ký hiệu hình hiệu của hội họa với ký hiệu hình hiệu của lối chữ hình vẽ Pictogramme, hay ký hiệu giao thông… giữa ký hiệu điệu bộ cử chỉ trên sân khấu với những điệu bộ cử chỉ trong đời sống hàng ngày. Trong khi ý nghĩa của những ký hiệu này được xem như có thể thay đổi trong những ứng dụng không mang tính mỹ học, nghĩa là ý nghĩa biểu hiện một mức độ ký hiệu học hoàn toàn chung, ý nghĩa được xây dựng thể chế trong sự phụ thuộc vào ba chiều ký hiệu: cú pháp, ngữ nghĩa và thực dụng, thì sự thay đổi ý nghĩa này sẽ trở nên đáng kể nếu nó được dùng trong những ứng dụng mang tính chất thẩm mỹ,bởi vì ở đây, cái chiều ngữ nghĩa độc lập được xem như nhân tố đã ổn định hóa. Ý nghĩa thẩm mỹ dược phân biệt một cách cơ bản với ý nghĩa không mang tính thẩm mỹ thông qua sự tăng cường khả năng thay đổi luôn được đưa ra một cách có nguyên tắc21.
Bên cạnh sự phân biệt ban đầu chúng ta còn phải phân biệt thêm nữa, giữa những hệ thống văn hóa mà ý nghĩa được tạo ra trên cơ sở những mã thẩm mỹ, và những hệ thống văn hóa mà ý nghĩa được tạo ra trên cơ sở những mã không thẩm mỹ.
Những phương pháp nhằm phân biệt những hệ thống văn hóa khác nhau theo hướng tạo sự đối lập giữa chúng theo một cách đặc biệt trong đó nó thực hiện chức năng chung của sự tạo nghĩa, sẽ dẫn chúng ta tới chỗ phải xem xét vấn đề: Liệu sân khấu vốn được xem như một thành tố có mã bên trong đặc thù như tất cả các hệ thống văn hóa sẽ đối lập cơ bản với những hệ thống văn hóa khác mà trong đó ý nghĩa được sản sinh trên cơ sở những mã thẩm mỹ?
Để trả lời câu hỏi này không thể thông qua cách loại trừ những yếu tố riêng rẽ có thể là rất khác nhau mà phải chỉ dựa trên sự quan tâm đầy đủ tới một phức thể những nhân tố có mối liên quan nhất định với nhau và chỉ trong các mối liên quan tổng thể của nó, thậm chí có thể gọi là một mớ những nhân tố. Những nhân tố này trước hết được phân chia thành hai phạm vi vấn đề: 1 – Phương thức tồn tại của tác phẩm nghệ thuật, và 2 – Những điều kiện của sự sản sinh và tiếp nhận.
1: Mối tương quan các ký hiệu, cái mà một hệ thống văn hóa sân khấu tạo ra – tức vở diễn – có một tính chất đặc biệt là nó không thể tách rời với người sản xuất ra nó, tức diễn viên. Cái phẩm chất nhân tạo (Artefakt)22 của sân khấu này chỉ tồn tại trong quá trình sản xuất ra nó. Điều này khác với một bức tranh, hay văn bản một bài thơ có thể tồn tại một cách độc lập đối với quá trình tạo ra nó. Tính truyền dẫn của sân khấu như Lessing từng gọi, có đặc tính riêng của nó không chỉ ở chỗ nó được thực hiện trong thời gian như âm nhạc hay truyện kể truyền miệng mà còn ở chỗ sự thể hiện này gắn chặt với những người sáng tạo ra nó trong một sự tồn tại tự thân không lặp lại và không truyền bản được.
Từ phương thức tồn tại đặc thù này của vở diễn dẫn đến một dấu hiệu đặc trưng quan trọng của sân khấu: Tính hiện thời tuyệt đối của nó. Trong khi tôi có thể chiêm ngưỡng một bức tranh được vẽ trước đó nhiều thế kỷ, hay đọc những cuốn tiểu thuyết được viết trước đó đã lâu, thì tôi chỉ có thể thưởng thức một buổi diễn vào lúc này, của ngày hôm nay và tức thời đương diễn ra trước mắt. Với những vở diễn sân khấu của quá khứ tôi chỉ có thể, như Steinbeck đã nói khá chính xác, có mối liên hệ về mặt lý thuyết, chứ không thể về mặt thẩm mỹ được23. Vì mối quan hệ giữa các ký hiệu của vở diễn được gắn rất chặt với diễn viên, do chính họ tạo ra và chỉ tồn tại trong một khoảng khắc sáng tạo của họ. Còn nếu ta chú ý thêm rằng, những ký hiệu riêng rẽ của mối liên hệ này – như trang phục, đạo cụ, trang trí… nếu còn lưu lại được quá trình của vở diễn và hàng trăm năm sau chúng ta vẫn còn có thể “tiếp cận” được thì cũng chỉ ở mức độ không thay đổi của sự tìm hiểu, nghiên cứu, bởi những gì mà ta có thể giữ lại được chỉ là những ký hiệu rời rạc xuất hiện trong một bối cảnh chứ không bao giờ là cả một phức thể những mối quan hệ của các ký hiệu như nó đã từng tồn tại. Cả cái phức thể những mối quan hệ của các ký hiệu này cũng không thể truyền lại được qua thời gian.
2: Sự tồn tại đặc biệt của một vở diễn với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật sẽ dẫn đến mối liên quan chặt chẽ giữa những điều kiện hình thành và điều kiện tiếp nhận đặc biệt của nó. Vì mối quan hệ của các ký hiệu của vở diễn chỉ tồn tại trong quá trình diễn, nên nó cũng chỉ có thể được tiếp nhận lại trong chính quá trình này: sản xuất và tiếp nhận của một vở diễn sân khấu diễn ra đồng thời. Trong cái khoảnh khắc mà người diễn viên tạo ra ký hiệu thì chính họ cũng tạo đã tạo ra một ý nghĩa và muốn truyền bá cái ý nghĩa đó, đồng thời khán giả cũng tiếp nhận những ký hiệu này và cũng tái tạo lại ý nghĩa cho bản thân họ, tức là họ cũng xác định cho những ký hiệu này những ý nghĩa nhất định. Cả hai khía cạnh của quá trình tạo nghĩa trong một vở diễn luôn diễn ra tức thì và hoàn toàn đồng thời, song song với nhau24.
Tính đồng thời này sẽ chứng minh cả cho sự tồn tại đặc biệt của vở diễn sân khấu lẫn những đặc điểm cơ bản khác nữa của sân khấu như là một hệ thống văn hóa. Vì trong một vở diễn sân khấu, một phức hợp các quan hệ ký hiệu không thể chỉ được sản sinh ra một cách đơn phương, bởi quá trình sinh sản của nó cũng có thể chính là quá trình tiếp nhận. Một vở diễn không diễn ra trước mắt khán giả thì cũng sẽ không được tiếp nhận và như vậy cũng sẽ không còn là một vở diễn sân khấu nữa25. Bên cạnh sự tồn tại đặc biệt này, sân khấu còn có một tính chất cơ bản nữa là tính công khai của nó. Dù cho nó chỉ trình diễn cho một khán giả duy nhất thì nó vẫn phải diễn ra công khai. Sân khấu luôn được thể hiện như một sự hội họp công khai26.
Chính từ hai đặc điểm này, những đặc điểm thể hiện những điều kiện hoàn toàn đặc thù đối với quá trình tạo nghĩa, mà sân khấu như là một hệ thống văn hóa nhưng hoàn toàn khác biệt với những hệ thống văn hóa mà ý nghĩa được tạo ra trên cơ sở những mã thẩm mỹ. Sự kết hợp hai đặc điểm này không thể thấy được trong bất cứ thể loại nghệ thuật nào khác.
Như vậy, từ những vở diễn hoàn chỉnh chúng ta có thể nói, hệ thống văn hóa của sân khấu luôn dựa trên hai thành tố không thể thiếu được chừng nào còn muốn là sân khấu. Đó là diễn viên và khán giả 27.
Hai thành tố này thực ra lại tiềm ẩn thêm một thành tố thứ ba. Vì, người diễn viên chỉ thực sự là diễn viên và không chỉ đơn giản là đào A, B hay kép C khi họ còn hóa thân thành những người khác, là cô X bà Y hay ông Z nào đó, tức là những vai diễn của họ.
Tức là, sân khấu chỉ tồn tại với một điều kiện tối thiểu: Một diễn viên A sắm một vai X cho khán giả S xem28.
Để thể hiện một nhân vật X, diễn viên A phải có một bộ dạng bên ngoài nhất định (1), hành động theo một cách nhất định (2) và trong một không gian nhất định (3). Nếu ta miêu tả hoạt động của người diễn viên một cách chung chung thì sẽ không thể thấy rõ được chỗ khác nhau giữa hoạt động của họ với những hoạt động văn hóa khác. Bởi vì, cả ba đặc điểm trên sẽ thích hợp với từng người trong một khung cảnh không gian nhất định. Nói một cách khái quát thì điểm khác nhau trong hành động của diễn viên A khi với tư cách là cá nhân A và khi với tư cách là người sắm vai X chỉ là ở chỗ, khi sắm vai X, cá nhân A đã có một bộ dạng khác, hành động theo một cách khác trong một khung cảnh không gian hoàn toàn khác.
Giữa hai quá trình đó là cả sự khác biệt cơ bản, khác biệt về chất.
Khi cá nhân A là A thì sẽ thể hiện bộ dạng bề ngoài theo một cách nhất định, chẳng hạn anh ta khoác một chiếc áo choàng lông thì có nghĩa là anh ta đang rét run và muốn được giữ ấm thân nhiệt. Chiếc áo choàng lông mang một chức năng sử dụng nhất định trong đó nó được dùng như một thành tố. Ngoài ra, nếu A mặc chiếc áo choàng lông đó mà lại gặp những người khác thì rất có thể chiếc áo choàng lông đó sẽ chứng tỏ với mọi người rằng anh ta thuộc một tầng lớp xã hội nào đó, tương đối khá giả và có thị hiếu đặc biệt nào đó. Những gì là vẻ bề ngoài con người, trong trường hợp đang xét là chiếc áo choàng lông sẽ có giá trị như một ký hiệu quan hệ trực tiếp tới bản thân con người. Nó là một ký hiệu liên quan đến A với tư cách là cá nhân con người A.
Khi cá nhân A là A và thực hiện một hành động, chẳng hạn, làm một cái bình, thì hoặc là anh ta cần đến nó, hoặc muốn đem bán hay tặng ai đó. Anh ta sẽ làm ra nó theo một nhu cầu nhất định. Nếu có người xem anh ta làm thì anh ta sẽ tỏ cho người xem anh ta là A và anh đã nhanh nhẹn khéo léo thành thạo trong công việc làm ra chiếc bình như thế nào.
Khi A khóc thì nguyên nhân ở tình cảm, cảm xúc: Anh ta khóc vì buồn. Còn khi anh ta khóc bên cạnh những người khác thì đấy cũng lại là một ký hiệu cho mọi người biết rằng A đang buồn.
Khi A đi tới một khoảng không gian nào đó thì tất vì một mục đích nhất định. Mỗi một không gian do con người tạo ra đều biểu thị một chức năng sử dụng, hoặc nhà ở, hoặc chuồng trại, nhà thờ, tòa thị chính, phòng làm việc hay chỗ nghỉ ngơi… A hoạt động trong một không gian như vậy vì anh ta muốn thực hiện một mục đích gắn liền với không gian đó. Khi anh ta tới một không gian không phải do con người tạo nên như khu rừng, đồng cỏ, bờ sông… thì cũng vậy. Bên cạnh việc thực hiện một mục đích sử dụng nào đó, việc dừng chân ở một không gian nào đó cũng còn là ký hiệu chứng tỏ người ta đã làm cái gì đó ở đây và sở hữu nó, tóm lại, một ký hiệu có thể thống báo gì đó về con người của A.
Như vậy, một khi cá nhân A là A tạo ra một bộ dạng theo một cách nhất định và hành động theo một cách nhất định trong một không gian nhất định thì hoặc là anh ta muốn thực hiện một mục đích cụ thể nào đó, hoặc là để tự tỏ rõ con người mình cho người khác biết.
Ngược lại, khi A khoác một bộ dạng bên ngoài để đóng vai X – vẫn thí dụ trong trường hợp A mặc chiếc áo choàng lông – thì rõ ràng không phải là bản thân anh ta đang cảm thấy lạnh mà chính là tạo một thông báo về X. X trong tình huống này có thể là đang cảm thấy lạnh, hoặc nếu X là Ferdinand trong Âm mưu và tình yêu và mặc một chiếc áo choàng lông theo mốt thời nay – thì X là một con người với những đặc tính tương tự như những người cùng thời, những người hiện nay thường mặc những chiếc áo choàng lông như vậy. Như vậy, với trang phục bề ngoài ấy, A không nhằm một mục đích nào khác là thể hiện một điều gì đó về nhân vật X mà mình sắm vai.
Khi A đã hóa thân thành X trong khi chế tạo cái bình chẳng hạn, thì lúc này anh ta không vì một mục đích tự thân nào cả, mà chỉ nhằm tạo ra những ký hiệu thông báo về nhân vật X: khả năng của X trong việc chế tạo cái bình, sự khéo léo, hoặc thậm chí các hoàn cảnh bắt buộc anh ta phải làm cái bình đó.
Còn khi sắm vai X mà A khóc thì không phải vì A buồn bã mà chỉ để thể hiện X đang buồn, hoặc X là một người kém tự chủ, tự kìm chế hoặc nữa, trước mắt mọi người, X tỏ ra là người đa cảm.
Tất cả những gì mà A làm khi sắm vai X sẽ không phải để thực hiện một mục đích cụ thể – vì tất cả những gì anh ta làm không phải vì bản thân anh ta mà là cho người khác, làm trước khán giả – mà cũng chẳng phải nhằm thể hiện bản thân con người anh ta, mà điều chủ yếu là để nói lên một điều gì đó liên quan tới nhân vật X mà anh ta đang thể hiện.
Bây giờ sang đến cái không gian mà A hành động khi sắm vai X, với tư cách là một không gian rất đặc biệt, khi nó biểu thị một chức năng sử dụng thì có thể mang ý nghĩa những không gian khác nhau. Một mặt nó có thể là một không gian được tạo dựng hay trang trí một cách chi tiết nhằm đáp ứng yêu cầu, chẳng hạn có thể là một kiến trúc nhà hát giầu tính biểu hiện, hoặc đơn giản nó chỉ là một sàn diễn bằng ván ghép được dựng đơn giản ở bất kỳ nơi nào.
Mặt khác, cái không gian đặc biệt này có thể được rời tới một nơi khác để biểu thị một chức năng sử dụng khác, chẳng hạn một nhà thờ, một trường học, một phòng ăn, hay một bãi chợ, một chỗ hội hè công cộng, một đồng cỏ hay một sân ga. Mỗi một không gian đặc biệt mà chức năng của nó là ở chỗ diễn tả những không gian khác đều có thể thực hiện trong từng không gian: Nếu A ở đây hành động để sắm vai X thì không gian này sẽ không biểu đạt cái chức năng sử dụng gốc gác của nó mà là một địa điểm trình diễn đặc biệt, được xem như một không gian khác bất kỳ trong đó nhân vật X trú ngụ.
Nếu A hành động như là A thì việc đó có thể xảy ra cả khi có mặt cũng như khi vắng mặt những người khác. Còn khi A sắm vai X mà hành động thì tất cả những gì anh ta làm, cách thức và địa điểm hành động của anh đều gắn với sự có mặt của khán giả mà đối với họ, bộ dạng bề ngoài của A là bộ dạng của X, hành vi ứng xử của A cũng là của X và không gian thực sự là không gian của X…
Trong sân khấu chúng ta cũng hay bắt gặp những tình huống có lẽ cũng tương tự như trong văn hóa nói chung, khi cả hai có thể đã được đặc trưng hóa thành nét chung rằng con người ở cả hai lĩnh vực cũng đều thể hiện vẻ bề ngoài theo một cách thức nhất định, và hành động theo một cách nhất định trong một không gian nhất định. Tuy thế, trong khi nói chung, trong văn hóa, ý nghĩa được sản sinh thông qua những hệ thống văn hóa đã được cập nhật hóa nhờ quá trình này, qua đó nó tạo ra ký hiệu nguyên thủy, thì sân khấu lại tạo ra những ý nghĩa mà qua đó nó tạo ra những ký hiệu thay cho những ký hiệu vốn được sản sinh từ những nền văn hóa khác.
Như vậy chính trong sân khấu hiển nhiên tồn tại một “bội số” của văn hóa, cái văn hóa mà chính sân khấu đóng một vai trong đó: ký hiệu được sản sinh từ sân khấu sẽ thể hiện là những ký hiệu được sản sinh từ những hệ thống văn hóa tương ứng. Những ký hiệu sân khấu, vì thế, luôn luôn là ký hiệu của ký hiệu, những ký hiệu được đặc trưng hóa để nó có thể có tính chất vật chất như những ký hiệu nguyên thủy ban đầu – một vương miện là một vương miện, một cái gật đầu là một cái gật đầu và một tiếng kêu cũng la cũng biểu thị một tiếng kêu la. Từ đó có thể thấy một mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa sân khấu và văn hóa. Những ký hiệu của sân khấu chỉ có thể hiểu được nếu người tiếp nhận đã quen với ký hiệu được sản sinh từ những hệ thống văn hóa trong những nền văn hóa bao quanh nó.
Sân khấu, vì vậy luôn phản ánh thực tế nền văn hóa của nó trong cái nghĩa nhân đôi của từ này: Sân khấu tái tạo ra thực tế đó và giới thiệu nó trong sự tái tạo này trước một ý thức luôn được nghiền ngẫm.
Sân khấu hình thành nền văn hóa chính ở chỗ, những ký hiệu của nó diễn tả những ký hiệu vốn được sản sinh từ những hệ thống văn hóa khác nhau. Nó đối chiếu văn hóa với những ý thức đã và đang được gián cách, chính ở chỗ những ký hiệu sân khấu luôn được tạo ra trong mối quan hệ với khán giả. Văn hóa phát triển trong sân khấu một cách cân đối giữa một bên là những gì được trình diễn và một bên là những gì được thưởng thức30.
Khán giả là một yếu tố công khai đại diện cho một tập thể các thành viên của một nền văn hóa, có thể cùng đại diện cho một tập thể này trong hành động của người khán giả tự tạo ra được một khoảng cách với nền văn hóa được trình diễn ở đây. Sân khấu đã trở thành một mẫu của một thực trạng văn hóa mà ở đó người khán giả tiếp nhận những ý nghĩa của nó. Sân khấu theo nghĩa này có thể trở thành một khái niệm về một hành động cả tự trình diễn lẫn tự phản ánh của một nền văn hóa.
Ở cái đặc điểm khác biệt với những hệ thống văn hóa khác của sân khấu này có thể đề ra một quan điểm về văn hóa học cho việc giải thích sự mở rộng hơn nữa của nó. Vì rằng bao giờ cũng vậy khi một nền văn hóa được xây dựng, trên đường tạo ra những ký hiệu, nó luôn tạo nghĩa với sự trợ giúp của những hệ thống văn hóa khác nhau, từ đó nó đã chuẩn bị những ký hiệu mà nó cần để có thể cho sân khấu. Bởi vì sân khấu trong bước đường hình thành của nó không cần phải phát minh ra những ký hiệu sân khấu mới mẻ đặc biệt gì, kể cả sân khấu của những nền văn hóa cao thường có những tìm kiếm theo kiểu đó, mà chỉ cần quay ngược trở lại những ký hiệu đã có sẵn trong nền văn hóa của mình. Nó lần ngược trở về với những ký hiệu này, không phải trong những ý nghĩa nguyên thủy của nó vốn được tạo ra để cho những hệ thống văn hóa liên quan. Chức năng mới mà trong đó sân khấu đã sử dụng những ký hiệu này chính là ký hiệu của ký hiệu, cho phép nó tự phản ánh cả một nền văn hóa.
Ở nơi nào mà văn hóa đang tự thiết lập thì nó cũng tạo ra ngay lập tức những tiền đề hình thành sân khấu: những ký hiệu mà sân khấu sử dụng luôn được cung cấp từ văn hóa. Một khi những ký hiệu này được sử dụng trong một chức năng đặc biệt mới mẻ nào đó, thì sân khấu đã hình thành.
Bùi Khởi Giang dịch
Theo: Ký hiệu học nghệ thuật sân khấu – điện ảnh, Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh ViệtNam, H,. 1997
CHÚ THÍCH
20. Xem: U.Eco, Einfuhrung in die Semiotik, đã dẫn.
21. Việc chứng minh sự đúng đắn của giả thuyết này tôi đã viết trong cuốn Bedeutung – Probleme einer semiotischen Hermeneutik und Asthetik.
22. Về khái niệm Artefakts, xem J. Mukatovsky, kapitel aus der Asthetik, Frankfurt/Main 1970.
23. Dietrich Steinbeck, Einleitung in die Theorie und Systematik der Theaterwissenschaft, Berlin 1970, tr.149.
24. Nếu quá trình này diễn ra song song thì cũng không thể kết luận rằng nó xảy ra tương tự. Diễn viên và khán giả phải hoàn toàn không cấp cho những ký hiệu được diễn viên tạo ra những ý nghĩa như vậy. Ý nghĩa thường rất bị phân rẽ giữa một bên là cái ý nghĩa mà người diễn viên khi tạo ra một kí hiệu nghĩ đến, và một bên là ý nghĩa người khán giả kiến tạo trong quá trình tiếp nhận. Về vấn đề này xin xem: E.Fischer – Lichte, Bedeutung – Probleme einer semiotischen Hermeneutik und Asthetik, sđd.
25. Không có khán giả thì chỉ tồn tại những buổi trình diễn và những vai diễn. Ngược lại, nói đến sân khấu chủ yếu chúng tôi chỉ muốn nói tới những buổi trình diễn với khán giả như vậy.
26. Xem: U.Rapp, Handeln und Zuschauen, đã dẫn, trước hết chương 3: Veranstanltung, tr. 171-243.
27. Xem U. Rapp, sđd, tr.91-111.
28. Định nghĩa này xuất phát từ Eric Bentley, The Life of the Drama,London 1965.
29. Phản ánh trong mối quan hệ này không cùng nghĩa với sự tái tạo mà chính là sự sản sinh ra kí hiệu sẽ mang nghĩa một thực tế văn hóa.
30. Xem: U.Rapp, sđd.
31. Những phát hiện này cũng thường xuyên chỉ gắn với sự hình thành một mã sân khấu tuy không phải là phát hiện ra một loại kí hiệu mới hoàn toàn. Chẳng hạn trong văn hóa Trung Hoa, kí hiệu cử chỉ chiếm ưu thế. Kinh kịch Bắc Kinh tạo ra những kí hiệu cử chỉ đặc trưng với những ý nghĩa đặc biệt. Đường cắt và màu sắc của quần áo trong nền văn hóa Trung Hoa cũng có ý nghĩa – Kinh kịch Bắc Kinh đã dựng nên những vở diễn đặc biệt sử dụng những kí hiệu trang phục, v.v…
Nguồn: lyluanvanhoc.com2011