Nhìn ra thế giới

Giáo trình Lịch sử Nhật Bản (Kỳ 1- Phần 1)

PHẦN MỘT: TỪ THƯỢNG CỔ ĐẾN NAM BẮC TRIỀU

Lời Nói Đầu 

Quyển Giáo Trình Lịch Sử Nhật Bản này nhắm đối tượng khiêm tốn là tầng lớp sinh viên và người không chuyên về sử nhưng cần kiến thức sử trong công việc của mình. Sách gồm 4 phần sẽ được đăng trong 4 kỳ:

 
Phần I : Từ thượng cổ đến Nam Bắc Triều
Phần II: Mạc phủ Muromachi và Mạc phủ Edo
Phần III: Mở cửa và Duy Tân. 
Phần IV: Thời Taishô cho đến hiện tại.
 
Nói chung, sách có 5 đặc điểm như sau:
 
1-       Dựa trên giáo khoa thư được dùng trong các trường cơ sở Nhật Bản
2-       Có đối chiếu tư liệu Đông Tây để nâng thêm tính khách quan.
3-       Sử dụng nhiều hình ảnh, đồ biểu, phân chú và cước chú để giải thích rõ ràng.
4-       Viết theo quan điểm xã hội sinh hoạt sử, nặng về văn hóa hơn chính trị.
5-       Ở những mốc quan trọng, định vị trí lịch sử Nhật Bản trong dòng lịch sử thế giới.
 
Đây là một quyển sách mở, sẽ được sửa chữa và cập nhật thường xuyên nhưng không thông báo trước. Người viết thành tâm trông đợi phản hồi của quý độc giả để cùng nhau tiến bộ.
 
Chương 0: Khái quát về địa lý hình thể Nhật Bản:
 
 
Để tiện bề theo dõi tiến trình lịch sử Nhật Bản, chúng ta cần biết qua một số thông tin cơ bản về địa lý hình thể của nước ấy.
 
1-       Hoàn cảnh thiên nhiên.
 
Nhật Bản là một quốc gia hải dương nằm ở cực đông đại lục Âu Á (Eurasia), gồm 4 đảo lớn và khoảng 4.000 đảo nhỏ. Bốn hòn đảo lớn chạy dài từ bắc xuống nam ấy có tên là Hokkaidô (Bắc Hải Đạo), Honshuu (Bản Châu), Shikoku (Tứ Quốc) và Kyuushuu (Cửu Châu). 
 
Nhật Bản nhiều núi non. Có đến 73% diện tích là đất núi. Vì thế, sông ngòi ở Nhật tương đối ngắn và nước xiết, nhiều ghềnh thác. Nước Nhật lại nhiều mưa nên sức xâm thực của nó đã tạo nên những vạt đất hình chữ V nằm sâu trong hốc núi. Ở những hẻm núi chỉa ra thung lũng và đồng bằng, có nhiều dải đất hình cánh quạt. Vùng phụ cận các cửa sông, đất tích tụ thành lớp dày tạo ra những cánh đồng.Từ miền trung (Chuubuu) cho đến vùng đông bắc (Tôhoku), bên triền sông thường có nhiều gò đồi.
 
Phía đông, Nhật Bản hướng ra Thái Bình Dương bao la (thế nhưng chùm đảo Ogasawara của họ thì nhìn thẳng biển Phi Luật Tân). Phiá bắc đông là biển Okhotsk. Phía tây và nam, Nhật Bản đối diện với biển Nhật Bản và biển Nam Trung Hoa. Hai đảo Honshuu và Shikoku ngăn cách bởi biển nội địa Seto (Seto naikai). Nhật Bản có nhiều luồng hải lưu (kairyuu) bao bọc. Một luồng nước lạnh có tên Oyashio (Thân triều) – còn gọi là Chijima kairyuu - từ biển Bering miền bắc qua quần đảo Chijima chảy xuống ngoài khơi các vùng Sanriku (từ Aomori đến Miyagi) và Jôban (tức Hitachi và Iwaki). Một luồng nước ấm phía nam tên là Kuroshio (Hắc triều)[1] – còn gọi là Nihon kairyuu – có màu xanh thẩm hầu như đen, từ quần đảo Phi luật tân chảy lên đến mũi Inubôsaki (ngoài khơi Chiba) trước khi quặt ra Thái Bình Dương. Một phân nhánh của nó sẽ vòng sang eo biển Tsushima phía Hàn Quốc nên có tên là Tsushima kairyuu. 
 
Về khí hậu, vì có một vùng núi non chạy dài như sống lưng trên toàn quốc nên khí hậu phía biển Nhật Bản và Thái Bình Dương khá khác nhau. Phía biển Nhật Bản có gió mùa tây bắc nên mùa đông lạnh lẽo và nhiều tuyết. Phía Thái Bình Dương thường thường nắng ráo. Vùng cao nguyên của Hokkaidô và Honshuu thuộc khu vực khí hậu á hàn đới, các đảo phía nam thuộc nhiệt đới. Phần lớn các vùng khác đều có khí hậu ôn đới nhưng nói chung, nhiệt độ khá chênh lệch giữa miền bắc và miền nam.
 
Nhìệt độ thay đổi dần từ nam lên phía bắc từ đông sang xuân, xuân sang hạ. Sau một thời kỳ mưa dầm (nagame) còn gọi là tsuyu (hay bai.u, mai vũ, vì mưa vào tháng quả mơ chín) khoảng tháng 5, tháng 6, trời tạnh ra và nhiệt độ lên cao, Nhật Bản bước vào mùa hè ẩm thấp, có khi đến 70% độ ẩm. Cuối tháng 8, hơi nóng còn sót lại nhưng sau đó Nhật Bản bước vào mùa thu với nhiều cơn bão từ biển phía Nam (Đài Loan, Okinawa) thổi lên.
 
                            Vị trí
 
Nhật Bản có hình thù như một cánh cung, nằm giữa vĩ tuyến 30 đến 45 bắc bán cầu, kinh tuyến 123-146 đông. Cực bắc là thành phố Wakanai thuộc Hokkaidô, chưa kể 4 đảo thuộc chùm đảo Chijima vẫn do người Nga chiếm đóng từ khi Nhật bại trận còn nằm ở bên trên nữa. Cực nam là đảo Okinotorishima thuộc quần đảo Ogasawara. Cực tây là đảo Yonagunijima tỉnh Okinawa và cực đông là đảo Minamitorishima, một hòn đảo trơ vơ giữa Thái Bình Dương. Tuy ngăn cách bởi biển nhưng có thể xem như Nhật tiếp giáp Nga ở phiá bắc, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc phía tây, quần đảo Bắc Mariana thuộc Mỹ phía đông và đảo Đài Loan ở phía nam.
 
                          Diện tích
 
Lãnh thổ rộng 377. 929,99 km2, bờ biển dài 33.889 km. Diện tích đứng hàng 62 trên thế giới, hẹp thua tiểu bang Montana (Mỹ) hay nước Na Uy, hơi rộng hơn Mã Lai và Việt Nam một chút.
 
                           Dân số
 
Theo thống kê năm 2000, toàn thể dân số có 126.925.843 người, trong đó 62.110.764 nam và 64.815.079 nữ. Khoảng 50% dân số sống trên 14% diện tích, đặc biệt trong 3 thành phố lớn nhìn ra Thái Bình Dương: Tôkyô, Ôsaka và Nagoya.
 
                           Địa thế
 
Vì lắm núi, dân chúng thường tụ tập ở các giải đồng bằng hẹp. Từ năm 1970 đã có kế hoạch phân tán cho hợp lý nhưng chưa có thể thực hiện.
 
Sông dài nhất là Shinanogawa (367km), lưu vực sông lớn nhất là lưu vực sông Tonegawa (16.829km2), hồ rộng nhất là hồ Biwa (70,33km2), hồ sâu nhất là Tazawako (-423,0m).Núi cao nhất là Fujisan (3.776m). Vực sâu nhất -10.535m nằm ở phiá đông quần đảo Kouriles, mang tên Tuscarora, chiếc tàu Mỹ dùng cho hải dương học đã khám phá ra nó năm 1874.
 
Rừng chiếm 66,4% diện tích, đất canh nông 13,2%, đất xây cất 4,7%, đường sá 3,3%, mặt nước 3,5% và các mặt bằng khác 8,9% (thống kê 1999).
 
Thảo mộc ở Nhật phong phú. Trong khi ở Âu châu có chừng 85 giống cây thì Nhật Bản có đến 168. Các loại thực vật nói chung lên đến 2.700 loại, cũng nhờ địa hình trải dài và lượng mưa nhiều.
 
                     Nguồn lợi thiên nhiên
 
Phần lớn là khoáng sản nhưng đá vôi, khí đốt thiên nhiên và dầu khí đều phải nhập. Xưa kia, có nhiều mỏ vàng, bạc và đồng. Marco Polo đã từng ca tụng Nhật như “quốc gia hoàng kim Jipangu”. Đời Edo cho đến Meiji có xuất khẩu một số quí kim đáng kể. Dưới đáy biển hiện có khí đốt thiên nhiên và kim loại hiếm chưa khai thác.
 
                           Khí hậu
 
Bốn đặc tính:
 
1 Vì là một quần đảo nên mưa nhiều (1.000mm/ năm) nhiều khi đến 2.000mm/năm như ở vùng ven biển và có khi lên đến 4.000mm/ năm như ở các đảo ngoài khơi.
2 Hình thể kéo dài từ bắc xuống nam nên có các vùng khí hậu khác nhau. Bình quân nhiệt độ miền bắc (Sapporo) là 9 độ C, trung (Tôkyô) là 16 độ C, nam (Naha) là 22 độ.
3 Có núi cắt làm đôi nên khí hậu phía biển Nhật Bản trái ngược với khí hậu phía Thái Bình Dương.
4 Vì vị trí nằm ở trung vĩ tuyến phiá đông nên cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa.
 
                      Hoàn cảnh thiên nhiên
 
Nằm một lượt gần nhiều đường nứt của vỏ địa cầu nên có nhiều ngọn núi lửa đang thời kỳ hoạt động, chịu động đất mạnh và thường xuyên, đôi khi có hiểm họa sóng thần. Từ 684 đến 2011, Nhật Bản đã bị gần 10 trận động đất chấn độ từ 8 đến 9 và 5 đợt sóng thần lớn. Cũng nhờ địa hình như thế mà có nhiều suối nước nóng nhưng lại chịu nạn đất sụt đá lở thường xuyên.Trận động đất năm 1923 ở vùng Tôkyô tuy không có độ chấn động cao nhất (chỉ có 7,9) lại gây thiệt hại nhiều hơn cả (140 nghìn người chết) vì nhà đổ và hỏa tai.Trận động đất ngày 11 tháng 3 năm 2011 có chấn độ 9 chưa từng thấy, sóng thần cao trên 12 m làm chết và mất tích gần 30.000 người và tạo ra sự cố rò rỉ lò hạt nhân phát điện là nguy hiểm nhất.
 
Từ tháng 6 đến tháng 10, khí áp xuống thấp, đó là mùa bão tố. Những cơn bão thổi từ vùng biển Đài Loan lên phía bắc, gần đây có khuynh hường “đổ bộ” lên quần đảo thay vì ra ngoài khơi như trước. Do nhiều mưa bão, thường xảy ra lụt lội vào hè và thu. Phía biển Nhật Bản lắm khi có tuyết lớn, gây nhiều tai hại về người và của, gây khó khăn cho việc đi lại.
 
Trong những năm gần đây, do công nghiệp hóa, còn thêm vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái.
 
2-       Các đảo, vùng miền và đặc trưng địa lý.
 
                       Hokkaidô
 
Diện tích 77.981,87km2. Đảo lớn thứ 2 trong 4 đảo chính nhưng chỉ bằng 1/3 Honshuu. Các tỉnh lớn: Sapporo, Asahigawa, Hakodate, Kushiro, Tomakomai, Otaru, Ebetsu...
 
                       Honshuu
 
Hòn đảo lớn nhất với diện tích 227.942,83 km2. Hòn đảo lớn thứ 7 trên thế giới. Chia thành các vùng Tôhoku (Đông bắc), Kantô (Quan đông), Chuubu (Trung bộ), Kinki (Cận kỳ) Chuugoku (Trung Quốc). Các thành phố lớn: Sendai, Tôkyo, Nagoya, Kyôto, Ôsaka, Kobe, Hiroshima...
 
                        Shikoku
 
Về diện tích, nhỏ nhất trong 4 đảo chính với 18.297,74km2, chỉ bằng 1/2 Kyuushuu.Vì xưa kia bao gồm bốn địa phương (tiểu quốc) nên gọi là Shikoku (Tứ quốc). Các thành phố lớn: Matsuyama, Takamatsu, Kôchi, Tokushima...
                       
Kyuushuu
 
Đứng hàng thứ 3 về diện tích trong 4 đảo chính: 36.731,56km2, cỡ 1/2 Hokkaidô. Các thành phố lớn: Fukuoka, Kita-kyuushuu, Kumamoto, Kagoshima, Miyazaki, Beppu, Nagasaki...
 
                        Các đảo phụ thuộc
 
1 Gồm chòm đảo Tây Nam thuộc hai tỉnh Okinawa và Kagoshima, các chòm đảo Okuma, Tokara rettô, Amamishima, Sakishima...Vùng đảo Senkaku hãy còn đang tranh chấp với Trung Quốc (Điếu ngư đài). Đảo Takeshima trong quần đảo Oki ở phía tây đang tranh chấp với Hàn Quốc (Dokudo, Độc đảo).
2 Chòm đảo Đông Nam tức 2 nhóm Izu và Ogasawara.
3 Chòm đảo 4 đảo phương bắc (Habomai, Shikotan, Kunashiri, Etorofu) gọi là Hoppô ryôdo (Bắc phương lãnh thổ), đang tranh chấp với Nga. 
Thành phố lớn: Okinawa, Naha ở trên chòm đảo Tây Nam.
 
3-       Biến đổi của địa danh qua các đời.
 
Ngoại trừ Hokkaidô (Bắc Hải Đạo) là đất mới được đặt tên từ năm 1.869 (Meiji 2), tất cả các vùng khác trên nước Nhật đều có địa danh cổ, thay đổi qua các đời. Kiến thức này rất cần thiết để đọc sử. Nhân đây cũng nói thêm rằng Hokkaidô là đất cũ của nguời Ezo (Hà Di). Dân Nhật mới lên đây khai khẩn từ đời Muromachi (1392-1573) mà thôi. Đến đời Edo, Shôgun Tokugawa đặt nó nằm dưới quyền quản hạt của lãnh chúa phiên Matsumae (Tùng Tiền), lãnh địa duy nhất ở phía nam đảo ấy.
 
Trong bản trình bày dưới đây, khi nói Thời Edo, xin hiểu là cột đó ghi tên các tiểu quốc cho đến thời Edo. Thời Meiji có nghĩa là lúc thực hiện việc cải tổ hành chánh, bãi bỏ phiên trấn của chế độ phong kiến để lập huyện tỉnh (haihanchiken =phế phiên trí huyện, 1871) tập trung vào vương quyền.
 
Đông Sơn Đạo (Tôsandô) – gồm Tôhoku và khu vực trung ương vùng Kantô.
 

Trước đó
Thời Edo
Thời Meiji
Hiện tại
Mutsu
Mutsu
Aomori
Aomori
Mutsu
Rikuchuu
Morioka (Akita)
Iwate (Akita)
Mutsu
Rikuzen
Mizusawa
Sendai
Miyagi
Mutsu
Iwaki
Iwasaki
Fukushima
Mutsu
Iwashiro
Fukushima
Wakamatsu
Fukushima
Dewa
Ugo
Akita
Akita
Dewa
Uzen
Sakata
Okitama
Yamagata
Shimotsuke
Shimotsuke
Utsunomiya
Tochigi
Tochigi
Kôzuke
Kôzuke
Tochigi
Gunma
Gunma
Shinano
Shinano
Nagano
Chikuma
Nagano
Hida
Hida
Chikuma
Gifu
Mino
Mino
Gifu
Gifu
Ômi
Ômi
Nagahama
Ôtsu
Shiga

 
Bắc Lục Đạo (Hokurikudô) – Honshuu phiá nhìn ra biển Nhật Bản
 

 
Thời Edo
Thời Meiji
Hiện tại
 
Echigo
Wakamatsu
(Niigata)
Kashiwasaki
 
Niigata
 
Sado
Aikawa
Niigata
 
Etchyuu
Niikawa
Toyama
 
Noto
Nanao
Ishikawa
 
Kaga
Kanazawa
Ishikawa
 
Echizen
Asuwa
Fukui
 
Wakasa
Tsuruga
Fukui

 
            Đông Hải Đạo (Tôkaidô) – Honshuu phía nhìn ra Thái Bình Dương
 

 
Thời Edo
Thời Meiji
Hiện tại
 
Awa
Kazusa
Kisarazu
Chiba
 
 
Inba
Chiba
Ibaraki
 
Hitachi
Niihari
Ibaraki
Ibaraki
 
Musashi
Saitama
Irima
Tôkyô
Saitama
 
Tôkyô
 
Sagami
Kanagawa
Kanagawa
 
Izu
Ashigara
Shizuoka
 
Suruga
Shizuoka
Shizuoka (Tôkyô)
 
Tôtômi
Hamamatsu
Shizuoka (Tôkyô)
 
Kai
Yamanashi
Yamanashi
 
Mikawa
Nukata
Aichi
 
Owari
Nagoya
Aichi
 
Iga
Anotsu
Mie
 
Ise
Anotsu
Watarai
Mie
 
Shima
Watarai
Mie

 
               Kinki (Cận Kỳ) – San.indô (Sơn Âm Đạo) – San.yôdô (Sơn Dương Đạo)
                     Khu vực chung quanh Kyôto và Miền tây Nhập Bản
 

Khu vực
Thời Edo
Thời Meiji
Hiện tại
Kinki (chung quanh Kyôto)
Yamato
Nara
Nara
 
Yamashiro
Kyôto
Kyôto
 
Kawachi
Izumi
Sakai
Ôsaka
 
Setsu
Ôsaka
Ôsaka
 
Setsu
Hyôgo
Hyôgo
San.indô (miền tây phía biển Nhật Bản)
Tajima
Tanba
Tango
Toyooka
(Kyôto)
Hyôgo
 
Kyôto
 
Inaba
Hôki
Tottori
Tottori
 
Oki
Izumo
Shimane
Shimane
 
Iwami
Hamada
Shimane
San.yôdô (miền Tây phiá biển nội địa Seto)
Harima
Shikama
(Hyôgo)
 
Mimasaka
Bizen
Bichuu
Hôjô
Okayama
Fukazu
Okayama
 
Bingo
Fukazu
Hiroshima
 
Bingo
Aki
Hiroshima
Hiroshima
 
Suô
Nagato
Yamaguchi
Yamaguchi

 
Tây Hải Đạo (Saikaidô) và Nam Hải Đạo (Nankaidô)
       Đảo Kyuushuu và đảo Shikoku
 

Khu vực
Thời Edo
Thời Meiji
Hiện tại
Saikaidô
(Kyuushuu)
 
Chikuzen
Chikugo
Buzen
Fukuoka
Mizuma
Kokura
Fukuoka
 
Bugo
Ôta
Ôta
 
Hizen
Imari
Saga
 
Iki
Tsushima
Nagasaki
(Imari)
Nagasaki
 
Higo
Yatsushiro
Kumamoto
Kumamoto
 
Hyuuga
Mimitsu
Miyazaki
 
Ôzumi
Satsuma
Miyakonojô
Kagoshima
Kagoshima
Nankaidô
(Shikoku)
Kii
Wakayama
Watarai
Wakayama
(Mie)
 
Awaji
Awa
Myotô
(Hyôgo)
Tokushima
 
Tosa
Kôchi
Kôchi
 
Iyo
Uwajima
Matsuyama
Ehime
 
Sanuki
Kagawa
Kagawa

 
Những thời kỳ lịch sử đối tượng của Phần I quyển sách này:
 

Niên đại (dấu – có nghĩa là trước công nguyên)
Thời kỳ
-30.000 đến -10.000
Cựu thạch khí
-10.000 đến -8. 000
Jômon nguyên thủy
-8.000 đến -6.000
Cổ Jômon
-6.000 đến - 3.000
Tiền Jômon
-3.000 đến -2.000
Trung Jômon
-2.000 đến-1.000
Cận Jômon
-1.000 đến -500 (-300)
Cuối Jômon
-500 (-300) đến 300 / -310-710
Yayoi / Kofun
593 đến 670
Asuka
670 đến 710
Hakuhô
710 đến 974
Nara
794 đến 1.185 / 894-1.185
Heian / Fujiwara
1.185 đến 1.333
Kamakura
1.333 đến 1.392 / 1.333-1.568
Nanbokuchô / Muromachi

 
Nhật Bản có hình thể như ngày nay mới từ năm 1945 nếu không nói là từ 1972 khi Hoa Kỳ giao trả quần đảo Okinawa cho họ. Vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7, sân khấu lịch sử cổ đại Nhật Bản chỉ diễn ra trên “bát trọng châu” (yaesu) tức 8 vùng đất quan trọng (tám còn có nghĩa là nhiều) của Nhật Bản mà không hề dính dáng đến Tôkyô ngày nay, vùng Đông Bắc (Tôhoku) lẫn Hokkaidô. Đó chỉ là miền tây Honshuu, Kyuushuu, Shikoku và các hòn đảo nhỏ như Iki và Tsushima. Kinh đô lúc đó hoàn toàn chi phối bộ phận ngoại vi của nó. Trong khi đó, có một thời như giữa Thế chiến thứ hai, Nhật Bản được quan niệm rộng rãi hơn. Đó là quan niệm Dainihon (Đại Nhật Bản) thời quân phiệt, bao trùm cả miền nam đảo Sakhaline, bán đảo Triều Tiên lẫn đảo Đài Loan.
Người Nhật vẫn cho mình là một dân tộc thuần nhất nhưng điều đó tương đối nhiều hơn họ tưởng. Nếu như đến năm 1945, lối nghĩ đó được xem là một chân lý thì ngày nay người ta đã bớt xác tín về nó. Thời cổ đại, ngoài người vùng Yamato, đã có các nhóm thiểu số Emishi (sau là Ezo) ở miền bắc, Kumaso, Hayato ở miền Nam, đó là chưa kể những đợt di dân lớn đến từ đại lục. Ngày nay, Nhật Bản hãy còn có 680.000 người gốc Triều Tiên không nhập tịch và khoảng 500.000 người Okinawa mà sự kết hợp với dân bản đảo chưa hẳn đã thông suốt hoàn toàn.
 
Chương I: Nguồn cội của văn hóa Nhật Bản.
 
Tiết 1: Quần đảo Nhật Bản: Nguồn gốc người Nhật Bản và thời văn hóa đồ đá cũ.
 
1.1 Nguồn gốc của quần đảo Nhật Bản và của người Nhật Bản:
 
Trước khi muốn tìm hiểu quần đảo Nhật Bản và người Nhật Bản xuất hiện như thế nào thiết tưởng cũng nên biết qua nhân loại đã có mặt trên quả đất tự bao giờ. Dĩ nhiên đó chỉ là những ước đoán đến từ kiến thức mà chúng ta đã thâu lượm được cho tới ngày nay.
 
Từ xưa đã có biết bao nhiêu nhà nghiên cứu, hết đưa ra hết giả thuyết này đến giả thuyết nọ nhưng những con số mà họ chủ trương khác nhau xa lắm. Cho đến ngày nay, thuyết cho rằng con người đã có mặt trên quả địa cầu từ 4 triệu năm về trước hình như được đông đảo học giả chấp nhận hơn cả. Vậy chúng ta hãy bắt đầu câu chuyện sau khi tạm đồng ý với lý giải này.
 
Trước tiên, hai chữ “con người” hay “loài người” thường được định nghĩa như một sinh vật hội đủ 3 tiêu chuẩn như sau:
 
1)       Đứng thẳng bằng hai chân và biết đi;
2)       Biết dùng lửa và chế tạo đồ dùng;
3)       Biết sử dụng ngôn ngữ.
 
Mẫu người hội đủ tiêu chuẩn ấy lần đầu tiên đã được phát hiện ra từ lòng đất vào năm 1924 do những nhà khảo cổ tại Nam Phi. Họ bèn đặt tên khoa học cho loại người này là Australopithecus hay “Người vượn phương Nam”, một giống người đã có mặt trên mặt đất từ trên một triệu năm về trước.
                     
Người vượn phương Nam tương ứng với loại người trong lịch sử nhân loại vốn được mệnh danh là “viên nhân” (ape-man, pithecanthropus). Ngày nay người ta xem sự có mặt của viên nhân (người vượn) này như điểm khởi hành của những công trình nghiên cứu về lịch sử loài người. Thật ra, tuy chỉ phát hiện được chứng cứ về viên nhân hóa thạch ở Nam Phi mà thôi, thế nhưng người ta suy ra rằng sau thời điểm đó, trải qua bao nhiêu tháng năm, nhân loại đã tiến hóa khắp nơi trên trái đất. Chẳng hạn, ở phần đất Á châu, đó là con người nguyên thủy Bắc Kinh (Bắc Kinh nguyên nhân, Sinanthropus Pekinensis)[2]. Họ có mặt từ 500.000 năm trước. Bộ xương đầu hóa thạch của họ là chứng cứ tối cổ của sự tiến hóa ấy thấy được ở Á châu.   
 
Thời đại của người vượn, theo quan điểm địa chất học, là kỷ thứ 3 của thời kỳ tân địa chất (Cenozoic Era)[3]. Từ đó, bước qua kỷ thứ 4, nhân loại đã tiến hóa theo quá trình người nguyên thủy Bắc Kinh sang đến người cũ (cựu nhân, cùng thời với người Neanderthal ở Âu Châu ) rồi đến người mới (tân nhân, cùng loại với người Cromagnon). Người cũ và người mới đều thuộc thời kỳ đồ đá (cũ và mới). Họ được xem là những homo sapiens, mang tên khoa học gán cho giống người bắt đầu có tri thức. Nếu xem địa cầu đã có từ 4.600 triệu năm về trước và có sự sống từ 3300 triệu năm về trước thì lịch sử của nhân loại quả vô cùng ngắn ngủi.
 
Thời kỳ tân địa chất nhắc đến bên trên có hai kỷ thứ 3 và kỷ thứ 4 cần phải phân biệt. Kỷ thứ 4 bắt đầu cách đây 164 vạn năm với thời kỳ gọi là cánh tân thế (lạnh đi ấm lại cách nhau nhiều lần, Pleistocene)[4] kéo dài cho đến 1 vạn năm về trước.Một vạn năm cuối cùng là thời đại mới nhất (hoàn tân thế, hoàn toàn mới, Holocene). Đó chính là thời đại của nhân loại chúng ta, khi trái đất ấm trở lại đủ cho con người tồn tại và phát triển được.Thời gọi là cánh tân, như đã nói, kéo dài 163 vạn năm, trải qua 4 thời kỳ băng giá và 3 thời kỳ gián cách ấm áp. Gọi thời cánh tân là thời kỳ băng hà có lẽ gợi hình hơn nên dễ nhớ hơn.
 
Trong thời kỳ cuối cùng này, mặt nước biển thấp hơn bây giờ khoảng trên 100 m. Bảo rằng thấp hơn 100 m có nghĩa là những nơi bây giờ đang chìm dưới nước ngày xưa từng ở trên cạn vậy.
 
Vì lý do đó, vào thời băng hà, cả hai miền nam bắc Nhật Bản hãy còn gắn liền với lục địa châu Á, các động vật có thể đi qua đi lại một cách dễ dàng. Như thế, địa hình Nhật Bản lúc ấy chưa thể gọi là quần đảo được. Bằng chứng là các loài khổng tượng (mammoth) và nai hàn đới (herajika)[5] phương bắc đã đi từ Sibêria xuống Hokkaidô, các loại voi lùn Naumann[6] và nai chà gạc lớn Ôtsunojika[7] phương nam đã di chuyển từ bán đảo Triều Tiên qua đảo Honshuu Di tích hóa thạch của chúng đã được phát hiện ở nhiều vùng trên đất Nhật. Năm 1973, ở hồ Nojiri thuộc tỉnh Nagano gần Tôkyô thôi, người ta tìm ra được dụng cụ bằng đá đẽo và xương hóa thạch của voi Naumann. Theo đó, có thể suy ra rằng cách đây 2 vạn năm, người và voi Naumann đã từng sống ở địa phương đó. Có thể tưởng tượng ra cảnh người thời đó đã đi theo những con thú khổng lồ này để đến Nhật. Cái tên voi Naumann là mệnh danh theo học giả Edmund Naumann (1854-1927), người đã từ Đức đến nghiên cứu ở Nhật Bản vào thời Meiji.
 
Sau khi đã qua thời kỳ băng hà, trái đất bước vào thời kỳ hoàn toàn mới (hoàn tân thế, Holocene) bắt đầu từ hơn một vạn năm trước. Lúc ấy, khí hậu ấm ra và mực nước biển dâng cao dần. Khi nước biển đã dâng cao thì những nơi dính liền với đại lục bị nước lấn vào, làm cho Nhật Bản ngày nay bị tách rời ra. Theo cách đó mà quần đảo Nhật Bản bắt đầu thành hình. 
 
Nhờ những công trình nghiên cứu xương hóa thạch mà người ta biết thêm về sự tiến hóa của nhân loại từ người vượn (viên nhân) sang người nguyên thủy (nguyên nhân), rồi đến người cũ và sau cùng là người mới. Người vượn gần với loài vượn, người nguyên thủy đã giống người rồi nhưng vẫn ở trạng thái mới bắt đầu làm người. Người theo loại hình cũ gọi là người cũ (cựu nhân) và người loại hình mới gọi là người mới (tân nhân).
 
Xương người hóa thạch thời cánh tân (Pleistocene) đã được phân biệt với xương các thời khác bằng cách nào? Thường thường, các nhà khảo cổ gọi tên xương theo tên đất nơi khai quật được chúng. Chẳng hạn xương tìm thấy ở một số địa điểm như Hamakita (vào năm 1960-62) thuộc tỉnh Shizuoka và Minatogawa (1967-69 và từ 19070) thuộc tỉnh Okinawa được gọi là xương của Người Hamakita hay Người Minatogawa. Cả hai loại đều được sắp vào lớp xương của “người mới”. Năm 1931, Naora Nobuo tìm ra trong vùng Akashi thuộc tỉnh Hyogo những mảnh xương mà ông ngỡ là của Người nguyên thủy nên mới gọi nó gọi là xương Người nguyên thủy Akashi. Sau có người phỏng đoán nó có niên đại mới hơn người ta tưởng nên đã xảy ra một cuộc tranh luận. Rất tiếc xương hóa thạch của Người Akashi bị cháy tiêu khi Đông Kinh bị ném bom hồi cuối thế chiến thứ hai, từ đó không ai tìm ra chìa khóa nào khác để trả lời câu hỏi đó nữa. Tuy vậy, khả năng xương Người Akashi thuộc về thời cánh tân (Kôshin, Pleistocene) hoặc thời hoàn tân (Kanshin, Holocene) rất lớn.
 
Hãy thử tìm hiểu đặc trưng các bộ xương hóa thạch này. Nói cho gọn thì người cũ (cựu nhân) mặt rộng theo chiều ngang, khổ người thấp bé. Người cũ ở Nhật có chung đặc điểm với người miền nam Trung Quốc (huyện Liễu Giang tỉnh Quảng Đông). Những nét đặc biệt đó cũng được người Yayoi về sau thừa kế.
 
Như vậy, hình dáng nguyên thủy của người Nhật Bản là hình dáng của người Cổ Mông cổ (Mongoloid)[8] như trên. Về sau, những người đến Nhật từ thời Yayoi trở đi là những người chịu lạnh vô cùng giỏi. Họ được gọi là Tân Mông cổ (Mongoloid). Có lẽ người Nhật hiện đại, sau bao nhiêu cuộc pha trộn, đã lai giống từ hai loại người này chăng? Người ta cho rằng dân tộc Ainu ở Hokkaidô và người nhũng hòn đảo miền Tây Nam lúc ấy đã có những đặc trưng rõ nét hơn của người Cổ Mông cổ vùng phía nam đại lục.
 
Mặt khác, khi phân tích ngôn ngữ được sử dụng, chúng ta cũng có thể biết một giống dân thuộc vào chủng tộc nào.Theo những yếu tố về ngữ cú, cách xếp đặt các trợ từ cũng như khi quan sát âm vận của tiếng nói, người ta thấy tiếng Nhật có những nét tương đồng với các thứ tiếng Triều Tiên, Mông Cổ thuộc ngữ hệ Altai phía bắc đại lục Á châu. Du khách Nhật khi đến Hàn Quốc đều có cảm tưởng quen thuộc ấy khi nghe cách phát âm của người Hàn ngoài đường phố. Tuy nhiên về phương diện ngữ vựng thì tiếng Nhật cũng tiếp nhận nhiều yếu tố của phương nam như từ tiếng nói của khu vực Đông Nam Á hay quần đảo Polynesia nên không thể loại bỏ yếu tố vùng nam đảo trong việc hình thành dân tộc Nhật. Dù nguồn gốc ấy vẫn còn là một câu hỏi khó trả lời nhưng không thể nào coi thường những hướng nghiên cứu nêu ra bên trên được.
 
                          Người Nhật từ đâu đến?
 
Theo GB Sansom[9], các tư liệu khảo cổ dường như đã giúp chúng ta đi đến điểm đồng thuận là quần đảo Nhật Bản đã có người cư ngụ vào cuối giai đoạn tân thạch khí (đồ đá mới). Họ là những người mà các nhà dân tộc học và ngôn ngữ học xem như thuộc nhóm bắc phương Ural-Altaic gồm các sắc dân Finns, Samoyedes, Huns, Tsungus và Mông cổ. Thế rồi giao thương giữa bán đảo Triều Tiên và quần đảo Nhật Bản đã đem nhiều đợt di dân từ vùng Bắc-Đông Á đến cùng với văn hóa dồng và sắt của họ. Có tác giả nhấn mạnh đến giai đoạn từ năm -500 đến 500 và vai trò của nước Yên vùng vịnh Bột Hải khoảng thế kỷ thứ 2 TCN trên kinh tế khu vực. D. Elisseeff[10] chẳng hạn đã nhắc nhở đến việc đồng tiền của nước Yên - một trong thất hùng thời Chiến Quốc - đã được khai quật ngay cả tại Okinawa. Các đợt di dân từ đại lục đạt đến đỉnh cao dưới thời nhà Hán, nhất là qua trung gian các quận huyện như Lạc Lãng và Đới Phương mà người Trung Quốc đã lập trên bán đảo Triều Tiên. Kỹ thuật trồng lúa nước Hemudu (Hà Mỗi Độ) ở Trung Quốc - cổ nhất đại lục - ước định khoảng năm 5000 TCN về sau cũng đã được thấy ở Kyuushuu. Như vậy Nhật Bản cổ đại của thời Yayoi đã nằm trong quỹ đạo Trung Triều. Tuy nhiên, cái người ta chưa đánh giá được là sự góp phần của cư dân đến từ vùng Ural-Altaic mãi sâu trong đại lục trong sự hình thành cá tính của người Nhật. Lý do là dù người Nhật lúc ấy có một văn hóa vật chất gần gũi với người Trung Quốc nhưng tinh thần cũng như hành động của họ, vẫn có cái gì rất là khác. Về sau, người Nhật tuần tự đón nhận di sản văn hoá của Hán, Đường, Tống, Minh nhưng người ta nhận ra vẫn có một cốt lõi không xâm phạm được (non absorbent core, như cách nói của G.B. Sansom) của người Jômon trong tâm hồn Nhật Bản. Không những thế, nó lại còn có tính đề kháng lại mọi yếu tố đến từ bên ngoài.
 
1.2 Phát hiện di tích Iwajuku. Sinh hoạt vào thời đại đồ đá:
 
Người thời đại đồ đá sinh hoạt như thế nào? Dĩ nhiên họ lấy da thú che thân, mang theo dụng cụ làm bằng đá, đi khắp nơi ngoài đồng trên núi. Tuy thế, hình ảnh đó chưa thật sự đầy đủ, cần được giải thích thêm
 
Ngày ấy, nhân loại chưa biết dùng dụng cụ bằng kim loại là dụng cụ tiện lợi nhất. Đó mới là thời người ta còn sử dụng đồ đá – nghĩa là thời đồ đá hay thạch khí – thiên hạ chỉ biết lấy đá thô rồi đập đi đập lại sơ sịa cho có hình thù để làm dụng cụ. Nó mang tên thời đá đẽo, cựu thạch khí hay đồ đá cũ. Sang đến thời hoàn tân hay hiện thế (từ một vạn năm về trước)[11], người ta mới biết mài giũa để chế ra dụng cụ đá mài. Thời điểm ấy mới được gọi là thời tân thạch khí hay đồ đá mới. Theo quan điểm địa chất học, thời đồ đá cũ tương ứng với thời cánh tân (từ 164 vạn năm về trước) ,còn thời đồ đá mới tương ứng với thời hoàn tân. Cũng kể từ khi bước qua thời đại đồ đá mới, đứng trên quan điểm vật dụng làm bằng đất thì ở Nhật Bản, ta có thể chia ra làm hai thời kỳ mang tên là Jômon và Yayoi.
 
Từ xưa cũng có người nghĩ rằng vào thời đồ đá cũ, trên quần đảo Nhật Bản, chưa có một dạng thức văn hóa. Chủ trương này đã được chấp nhận cho đến trước chiến tranh. Do đó, đến lúc ấy, khi hỏi rằng thời đại nào là thời tối cổ của văn hóa Nhật Bản thì người ta sẽ bảo là Jômon.
 
Thế nhưng, vào năm 1946, từ di chỉ Iwajuku thuộc tỉnh Gunma bắc tây Tokyo, người địa phương tên là Aizawa Tadahiro đã tìm thấy từ lớp đất trên sườn dốc một quả đồi bị vạt ngang một số đồ vật làm bằng đá núi lửa màu đen (obsidian)[12]. Đó quả là một phát hiện hết sức quan trọng đã làm đảo lộn tất cả chiều hướng nghiên cứu lịch sử Nhật Bản. Rồi nhân khám phá đó, vào năm 1949, nhóm nghiên cứu của Đại học Meiji đã điều tra khoa học hơn và thành công trong việc xác định sự thực là có rất nhiều dụng cụ đá đẽo như thế nằm trong địa tằng tro đất đỏ hỏa sơn[13] ở vùng Kantô vốn tích tụ từ thời kỳ cánh tân. Từ ấy, khuynh hướng của việc nghiên cứu lịch sử Nhật Bản là lội ngược lên xa hơn nữa về thời thái cổ.
 
Người phát hiện các hiện vật bằng đá đẽo nói trên, Aizawa Tadahiro (1926-1989), không phải là một giáo sư đại học hay nhà khảo cổ gì cả.Ông ta chỉ là một thanh niên đam mê khảo cổ và mưu sinh bằng nghề buôn bán dạo nên có cơ hội đi từ vùng này qua vùng khác. Thế nhưng ông đã phát hiện được một điều vô cùng vĩ đại mà các nhà học giả khảo cổ chính tông dù có nằm mơ cũng chưa dám nghĩ tới.
                     
Sau phát hiện của Aizawa, người ta lần lượt tìm ra những chứng cứ đồng loạt từ các địa tằng của thời cánh tân ở khắp nơi. Nó xác định lập luận là văn hóa Nhật Bản đã tồn tại từ thời cánh tân, nghĩa là người Nhật cũng có một nền văn hóa đồ đá cũ (cựu thạch khí). Thế nhưng từ các lớp địa tằng của thời này, người ta không tìm ra được những dụng cụ bằng đất. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là việc thời đồ đá cũ là giai đoạn phải có trước thời đồ đất. Ở Nhật, giai đoạn trước khi biết chế tạo và sử dụng đồ đất được gọi là thời kỳ văn hóa trước (hay là không có) đồ đất (= tiên thổ khí) – nói cách khác – đó là giai đoạn trước văn hóa Jômon, bởi vì Jômon đồng nghĩa với đồ đất.
 
Sinh hoạt của người vào thời này (trước Jômon) là tập trung vào việc săn bắn và hái nhặt. Những dụng cụ giúp họ sinh hoạt đều được làm bằng đá (thạch khí). Trước tiên là miếng đá hình lưỡi dao với chiều dài độ 5cm. Họ dùng nó để cắt, chẻ hoặc gắn vào đầu một khúc cây làm mũi lao (yari). Cũng có loại không bén nhưng lại có đầu nhọn. Những dụng cụ này có đầu nhọn hình thù giống như chiếc lá cây, có thể giắt vào đầu khúc cây thành ngọn thương hay lao để đâm gần (tsukiyari) hoặc phóng xa (nageyari), dùng vào việc săn bắn. Vỏn vẹn với một dụng cụ như thế mà người thượng cổ dám đương đầu với các giống thú lớn đến từ đại lục như voi lùn Naumann, nai có chà gạc ôtsunojika, nai hàn đới herajika cũng như bò rừng thì họ thật đã làm chúng ta phải kinh ngạc.
 
Đến giai đoạn cuối của thời đồ đá cũ, người ta bắt đầu biết dùng những dụng cụ bằng đá vừa nhỏ (khoảng 3-4 cm) vừa nhọn, bằng cách gắn chúng nhiều cái một lượt vào trong những cái lỗ ở đầu các thanh xương hay cây.Như thế, người thời ấy đã biết cách chế tạo đồ đá dưới dạng phối hợp. Người Nhật gọi loại đồ đá nhỏ và nhọn này là saiseki (tế thạch khí). Dụng cụ này dĩ nhiên dùng vào việc săn bắt muông thú, rất phổ biến từ vùng đông bắc Trung Quốc cho đến mạn Siberia. Chúng hẳn đã đến Nhật bằng đường phương bắc. Khi người Nhật cổ biết dùng loại đồ đã nhỏ và nhọn này thì họ đã bắt đầu chấm dứt thời đồ đá cũ (cựu thạch khí) để tiến vào thời trung gian giữa cũ và mới (trung thạch khí). 
 
Hãy tìm hiểu xem người Nhật thời ấy đã cư trú như thế nào? Có thể tưởng tượng ra rằng họ sống qua ngày trong những túp lều nhỏ che tạm hoặc trong hang động. Họ chưa định trú được mà còn phải rày đây mai đó tùy theo tình hình kiếm lương thực (quả hạt hay con mồi). Có thể họ chỉ cần kiếm những chỗ cạnh dòng nước và sinh hoạt trong những nơi cư trú giản dị, không phải mất công dựng lên hoặc dẹp bỏ. Nhưng dần dần ta cũng đã tìm thấy dấu tích của khuynh hướng định trú, dù rằng để bàn thêm về điểm này, chúng ta còn cần thêm nhiều bằng chứng trước khi có thể kết luận.
 
Vào thời điểm đó, cứ có khoảng mươi người thì người ta tụ tập sống với nhau thành tập đoàn cơ sở. Khi một số tiểu tập đoàn như vậy tụ họp lại, sẽ có những bộ tộc (buzoku, tribe) nghĩa là một nhóm người có chung một đặc tính và có ý thức đồng tộc. Bộ tộc nào có trong tay những nguồn nguyên liệu để làm dụng cụ bằng đá kiếm được từ một chỗ nào đó xa nơi cư trú, sẽ ảnh hưởng và chi phối được người bên trong tập đoàn.
 
Trên đây là vài nét về nguồn gốc của quần đảo Nhật Bản và cư dân của nó. Hiện nay, ở Nhật Bản vẫn tiếp tục có những cuộc khai quật, điều tra khảo cổ và địa chất. Tùy thuộc vào thành quả của những nghiên cứu này mà sự hiểu biết về Nhật Bản thời thái cổ của chúng ta sẽ tăng thêm và lịch sử sẽ phải được viết lại nhiều lần nữa hay không.


[1] Đó là một luồng nước rộng ước 100km , chảy với tốc độ 1,5m mỗi giây đồng hồ.
[2] Người nguyên thủy (genjin) là loại người tiến hoá từ người vượn và ra đời trướcngười cổ và người mới. Ước định có mặt trên trái đất cách đây 160 vạn năm, não bộ có thể tích cỡ 2/3 não của người hiện đại, biết đứng thẳng (homo erectus) và biết đi, sử dụng được những dụng cụ bằng đá đơn giản.
Xương hoá thạch của người nguyên thủy Bắc Kinh khai quật được vào năm 1929 trong một cánh rừng ở Chu Khẩu Điếm gần Bắc Kinh (ước định có mặt cách đây 70-20 vạn năm trước) chỉ là một ví dụ về người nguyên thủy.
[3] Thời đại địa chất mới (Cenozoic Era) là 2 thời kỳ bắt đầu từ 65 triệu năm về trước cho đến ngày nay, khi các loài động vật có vú và thực vật hiển hoa xuất hiện. Các quần sơn như Alpes, Himalaya, Andes cũng thành hình vào thời này.
[4] Một thời kỳ dài so với thời đại hoàn tân hay hiện thế (Holocene) đến sau của chúng ta. Đặc biệt thời này là thời mà băng hà phát triển mạnh trên mặt đất, có nhiều giai đoạn ấm lạnh xen kẻ.
[5] Nai xứ lạnh, thường thấy ở Âu châu và Mỹ, Canada.Sống bên bờ nước các cánh đồng cỏ. Còn có tên là Elk như Âu châu gọi hay Mousse như Mỹ gọi..
[6] Naumann’s elephant, một lọai voi lùn đã tuyệt chủng, từng có mặt từ 30 vạn đến 1 vạn rưỡi năm về trước ở Nhật Bản và Đông Á. Khác với giống Mammoth, voi Naumann sống ở nơi khí hậu ấm áp hơn.
[7] Một giống nai đã bị tuyệt diệt. Đặc điểm là bộ sừng lớn, dài khoảng 3m và nặng có khi tới 45kg.
[8] Chủng tộc Mông cổ là một trong 3 nhân chủng quan trọng: da vàng, tóc đen, mắt đen, mi mắt bụp, có bớt xanh phần lớn trên mông. Gồm các giống người nhuu Trung Quốc, Nhật, Hàn, Việt Nam,... (Asia Mongoloid). Ngoài ra còn kể đến người Mã Lai, Indonesia, Polynesia và thổ dân Mỹ châu.
[9] GB Sansom, Japan, a short cultural study, tr.15.
[10] D. Elisseeff, Histoire du Japon, tr. 23.
[11] Còn gọi là thời Trùng tích (Alluvial Epoch) là thời đại có nhiều cánh đồng rộng phù sa tạo thành từ đất đá sụt lở do nước chảy.
[12] Obsidian là đá núi lửa có màu đen, hơi trong, giống thủy tinh, hình vỏ sò.
[13] Địa tằng có tên là “loam” cấu tạo bằng tro hỏa sơn do gió thổi đến, giàu chất ốc xýt sắt nên có màu đỏ, được gọi là xích thổ. Ở vùng Kantô (đông Nhật Bản), gọi là Kantô-rômu, dày cỡ 10 m.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114588413

Hôm nay

2188

Hôm qua

2380

Tuần này

2931

Tháng này

226116

Tháng qua

128795

Tất cả

114588413