Những góc nhìn Văn hoá
Huyền thoại chính trị và giải cấu trúc nghệ thuật của nó (Kỳ 1)
Bài viết này dự định sẽ giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ thứ nhất là làm rõ, xem chuyện gì đã xẩy ra với huyền thoại chính trị, khi nội dung của nó biến thành đối tượng của văn bản nghệ thuật và chỉ còn tồn tại như một hình thức chuyển tải.

Nhưng cảm hứng của bài viết không bó hẹp trong việc giải quyết một nhiệm vụ như thế, bởi vì ở đây còn bàn tới việc lựa chọn các văn bản, một sự lựa chọn không thể nói là ngẫu nhiên.
Tôi sẽ phân tích cuốn Lịch sử đảng Cộng sản Liên Xô (phái Bolsevich). Giáo trình giản yếu (1938)[1] và tiểu thuyết Hàng giậu của Sasa Sokolov[2]. Cố nhiên, tôi hoàn toàn không khẳng định cuốn Hàng giậu (1984) đã có ý thức giải cấu trúc, hoặc diễn đạt gay gắt hơn, giễu nhại cuốn giáo trình lịch sử kia. Vấn đề nằm ở chỗ khác: Giáo trình giản yếu và Hàng giậu rơi vào hai điểm không gian trực tiếp đối lập của huyền thoại cộng sản, cuốn thứ nhất phản ánh đỉnh cao vinh quang của huyền thoại ấy, cuốn thứ hai lại phản ánh những tia hoàng hôn cuối cùng của nó. Bản thân điều này đã đặt hai văn bản nói trên vào một quan hệ phân cực, biến chúng thành huyền thoại và thơ. R. Barthes từng nói “Thơ đối lập với huyền thoại. Huyền thoại là một hệ thống kí hiệu có tham vọng biến thành một hệ thống sự thật, thơ là hệ thống kí hiệu muốn hạ xuống để chỉ còn là một hệ thống của những cái cốt lõi”[3] .
Đồng thời, cơ sở huyền thoại của Giáo trình giản yếu không hẳn chỉ là tham vọng biến thành hệ thống các sự thực, mà còn là tham vọng trở thành kiểu mẫu của một lối viết lịch sử. Khác với huyền thoại, lối viết lịch sử có đặc tính nước đôi, nó thường dao động giữa diễn ngôn khoa học và diễn ngôn nghệ thuật. P. Ricoeur viết: “Từ trong bản chất, lịch sử chính là sử - kí, hoặc nói trắng phớ ra, nó là cái giả tượng của văn học[4], hay theo ý tưởng khái quát của H. White, trần thuật lịch sử chẳng qua là “hư cấu bằng lời, thực tế cho phép đến đâu, nội dung của nó sẽ được bịa đặt đến đấy, còn hình thức của nó thì giống với những gì có trong văn học nhiều hơn so với những gì có trong các khoa học tự nhiên”[5]. Do bản chất của nó, lối viết lịch sử dứt khoát bị ném vào lằn ranh giữa diễn ngôn khoa học và trần thuật huyền thoại. Với ý nghĩa như thế, “chí ít là chừng nào trò chơi ngôn ngữ của khoa học còn kỳ vọng những phát ngôn của mình trở thành chân lí, nhưng lại không có khả năng hợp thức hoá chân lý ấy bằng những phương tiện riêng của mình, chừng ấy, việc nó sử dụng trần thuật là đương nhiên”[6]. Trần thuật hợp thức hoá diễn ngôn lịch sử bằng cách mở đường cho những ý đồ huyền thoại hoá. Tuy nhiên, có một điều không kém phần quan trọng, ấy là những ý đồ nói trên luôn luôn bị lệ thuộc trực tiếp vào việc văn bản được đặt ở điểm nào của không gian huyền thoại. Huyền thoại càng gần với điểm hoàng kim của nó, thì những ý đồ huyền thoại hoá lối viết lịch sử càng mạnh mẽ, huyền thoại càng gần với điểm phê phán sự tan rã của nó, thì những ý đồ nói trên càng bị thay thế bởi cái gì đó giống với thi ca nhiều hơn. Đây chính là lí do vì sao cuốn Giáo trình giản yếu trở thành một văn bản có ý nghĩa quan trọng nhất trên bình diện hợp thức hoá huyền thoại cộng sản, khác với những cuốn giáo trình được viết muộn hơn, “đầy đủ” hơn, những giáo trình mà trần thuật được thay thế một cách có ý thức bằng cấu trúc diễn ngôn phức tạp theo kiểu khoa học.
Trong Giáo trình giản yếu, cảm hứng tu từ cơ bản toát lên từ ảo giác của một thứ mục đích luận đắc thắng. Nền tảng làm nên sự đắc thắng ấy là sự đoán định về một đại đạo nào đó được xem là đồng nhất với chân lí, nhưng bản thân chân lí có vẻ như còn bị dấu kín trong không gian, thời gian đầy thù địch và bị che khuất đằng sau nhịp điệu của mạch sự kiện đang diễn ra. Cho nên chỉ có một cách duy nhất có thể giúp ta hiểu thấu tính chất huyền thoại trong Giáo trình giản yếu, ấy là phân tích cặn kẽ tổ chức không gian, thời gian và tiết tấu, cũng như phương thức tổ chức truyện kể.
Không gian trong Giáo trình giản yếu là một thứ vô tiền khoáng hậu. Ai cũng biết, đúng là có thể tìm thấy trong các văn bản huyền thoại loại xung đột giữa đường đi của nhân vật với không gian xa lạ bao bọc quanh nó, tức là xung đột làm nẩy ra hàng loạt những sáng kiến. Nhưng chưa thấy trong bất kỳ một văn bản huyền thoại nào có con đường và không gian lại tồn tại trong thế xung đột đối kháng gay gắt giống như trong Giáo trình giản yếu. Trong văn bản huyền thoại, con đường của nhân vật thường là ranh giới của không gian “thiện” và tính “ác”. Trong Giáo trình giản yếu, toàn bộ không gian thù địch với con đường, chính xác hơn, con đường phải chiếm lấy phần không gian thì mới có thể tồn tại và nó tuyên bố mục đích luận của mình như thế. Thậm chí, ngay cả trong trường hợp các phần không gian khác nhau có xung đột với nhau thì chúng cũng chỉ làm tăng thêm sự thù địch chung đối với đường lớn mà thôi. Nếu sử dụng thuật ngữ toán học, có thể nói, trong hệ thống này, đem số âm nhân với số âm, kết quả đạt được không phải là số dương, mà chỉ là bình phương của số âm.
“VKP(b)[7] vững mạnh hơn và được trui rèn trong cuộc đấu tranh với các đảng phái tiểu tự sản trong nội bộ giai cấp công nhân: đảng xã hội cách mạng, cánh melsevich, bọn vô chính phủ, cánh dân tộc tư sản đủ các loại khác nhau, còn trong nội bộ đảng thì đấu tranh với khuynh hướng melsecich, cơ hội, bọn Troski, Bukhrin, bọn dân tộc - lệch lạc và các nhóm phái phản Leninit khác.
VKP(b) vững mạnh và được trui rèn trong cuộc đấu tranh cách mạng với mọi loại kẻ thù của giai cấp công nhân và kẻ thù của nhân dân lao động - bọn địa chủ, bọn tư sản, phú nông, bọn phá hoại, gián điệp, với tất cả bọn đầy tớ tay chân của chủ nghĩa tư bản”[8].
Bộ phận ngữ nghĩa hợp thành quan trọng nhất của không gian trong Giáo trình giản yếu là khái niệm trật khỏi đại đạo (“lệch lạc”). Không gian không chỉ đơn thuần thù địch với con đường, mà còn có hấp lực của một thứ từ trường ma quái, vì nó mà mọi sự lệch lạc dù nhỏ đến đâu cũng có thể khiến cỗ máy tạo ra hấp lực của từ trường ma quái kia vận hành, cỗ máy ấy gạt phăng điểm này hay điểm khác của đại đạo và kéo đại đạo vào mạng lưới của địch thủ.
Lối trần thuật lịch sử của Giáo trình giản yếu thể hiện đầy đủ nhất cung cách diễn ngôn của Stalin, bởi vì một trong số đặc điểm đập ngay vào mắt ta trong sách lược tranh luận của Stalin là đem bất kì một khái niệm chính thống đích thực nào đối lập cùng một lúc, không phải với một, mà là với hai tà thuyết. Noi theo đại đạo, đi trên đường lớn tức là thường xuyên dao động giữa hai thái cực - “quá trớn” và “bóp méo”, đến lượt mình, những thái cực này lại bị các “lệch lạc” tương ứng rình rập (diễn đạt theo công thức từ lâu trở thành sáo mòn - bị những ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản sát ngay bên nách rình rập và sau đó thì tìm cách này hay cách khác để lật đổ)”[9].
Rất dễ nhận ra, trong trường hợp này, các tà thuyết là những điểm thuộc cánh tả, cánh hữu, ở bên trên, bên dưới, ngay bên cạnh các điểm của đại đạo. Thêm vào đó, bản thân văn bản còn có đặc điểm của lời nói chặn họng đầy quyền uy, nó đặt người đọc tiềm năng vào điểm này hay điểm khác của không gian thù địch, hoặc ngược lại, sáp nhập họ với đại đạo. Chính việc “nghiên cứu lịch sử VKP(b), nghiên cứu lịch sử đấu tranh của đảng ta với các loại kẻ thù của chủ nghĩa Mac - Lenin, với mọi kẻ thù của nhân dân lao động sẽ giúp quán triệt chủ nghĩa bolsevich và nâng cao tinh thần cảnh giác chính trị” (tr.4).
Cả thời gian nghệ thuật trong Giáo trình giản yếu cũng được tổ chức theo kiểu lạ lùng không kém như vậy. Trong văn bản, thời gian mang đặc điểm tuyến tính giả tạo. Nó là tuyến tình bởi vì việc trình bày chất liệu hoàn toàn phụ thuộc vào nguyên tắc biên niên ở mặt ngoài. Nhưng trật tự thời gian lại mang ý nghĩa ảo giác một cách sâu sắc. Thực tế, thời gian của Giáo trình giản yếu là thứ thời gian đã dừng lại, vì tiến trình các sự kiện được biết rõ ngay từ trước. Tất cả những gì đang xẩy ra đều là sự thật, chỉ việc xác nhận sơ đồ tiên nghiệm hiện có. Thêm vào đó, loại tri thức phi lí được ưu tiên hơn hẳn so với các sự thật lịch sử. Xin hãy đọc văn bản:
“Đại hội đã cảm nhận được trong lời nói của họ có biểu hiện của sự thiếu thành thật và lá mặt lá trái… đảng đã nhìn thấy trong những lời phát biểu đầy giả dối đúng là các quý ông này đã liên kết với các phần tử bảo trợ từ bên ngoài đại hội…đại hội không thể không thấy rằng cả sự tự hành xác phát lợm mửa, lẫn những lời ca ngợi đường mật ngọt xớt đều lộ ra mặt trái trong lương tâm bẩn thỉu và bất an của những quý ông ấy. Nhưng đảng vẫn còn chưa biết, chưa thể đoán ra rằng trong khi phát biểu những lời ngọt xớt trong đại hội, các quý ông ấy đồng thời đã chuẩn bị cho cuộc mưu sát đầy tội ác đối với S.M. Kirov[10]” (310).
Vậy là, đảng có thể không đoán được các sự việc cụ thể này nọ, nhưng đảng có khả năng cảm nhận những điều cốt tử - đảng biết chắc các sự kiện được minh hoạ bằng nhiều chứng cứ sẽ phát triển theo hướng nào. Từ giác độ về sự phát triển của thời gian, Giáo trình giản yếu giống cái rạp chiếu bóng hơn là nhà hát. Đúng là trên màn hình chiếu bóng, hành động diễn ra trong thời gian đầy năng động, bởi vì nó hiện lên như kết quả của sự lắp ráp hoàn toàn phụ thuộc vào các quy luật của sự điều chỉnh thời gian. Nếu trong nhà hát, mọi chuyện diễn ra theo cơ chế của thời gian hiện thực, thì trong điện ảnh người ta có thể biết trước, mỗi hành động chỉ được chiếm bao nhiêu thời gian và nó diễn ra như thế nào. Khả năng dự đoán đối với hành động trong điện ảnh, một đặc điểm giúp người sáng tác loại trừ mọi sự bất ngờ, tỏ ra rất phù hợp với bản chất của nó. EdwardsMaureen, tác giả cuốn sách Con người và điện ảnh, từng có ý kiến cho rằng, điện ảnh bằng một phương cách đặc biệt đã làm sống lại kiểu nhìn thế giới của thời cổ đại. Ngôn ngữ điện ảnh nhắc người ta nhớ tới ngôn ngữ của các thời đại và các dân tộc cổ xưa. Trong trường hợp này, nghệ thuật như là minh hoạ cho một quy luật nhân chủng học nào đó: sự bất lực, thiếu khả năng hoạt động độc lập bao giờ cũng có tác dụng khêu gợi phương diện cảm tính. Khi xem phim, những khán giả bị đặt vào tình huống thụt lùi quay ngược lại với thời trẻ con ấu trĩ sẽ quan sát thế giới trong trò chơi của những sức mạnh đã rời bỏ họ từ lâu. Trong giấc mơ, chúng ta cảm nhận trạng thái thụ động ấy, khi cảm xúc trào dâng tới cực điểm./.
(Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp)
Lã Nguyên dịch
Nguồn: Критика и семиотика. - Вып. 6. - Новосибирск, 2003. - С. 67-78.
[1] Tiếng Nga: История Всесоюзной Коммунистической партии (большевиков). Краткий курс), do Uỷ ban Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô tiến hành biên soạn vào năm 1938, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô tán thành và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia tổ chứ xuất bản năm 1946. Sách dày 352 trang, gồm 12 chương, mở đầu là chương: Cuộc đấu tranh thành lập đảng xã hội - dân chủ công nhân ở Nga (1883-1901), kết thúc bằng 2 chương: Chương XI: Đảng Bolsevich trong cuộc đấu tranh hợp tác hoá kinh tế nông nghiệp (1930-1934) và Chương XII: Đảng Bolsevich rong cuộc đấu tranh hoàn thành công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và thực hiện hiến pháp mới (1`935-1937). Xin lưu ý: Toàn bộ Lịch sử đảng cộng sản Liên Xô từ 1883 đến 1937, bất luận giai đoạn nào, cũng đều là lịch sử “đấu tranh”.- ND.
[2] Tên đầy đủ: Aleksandr Vsevolodovich Sokolov, nhà báo, nhà thơ, nhà văn Nga, sinh năm 1943, năm 1976 vượt biên, bị bắt, bị tù, sau đó trốn khỏi Liên Xô, nhiều năm sống ở Mỹ, hiện cư trú ở Israel, thường xuyên về làm việc ở Nga. Tác phẩm chính: Trường học dành cho những kẻ đần độn (Школа для дураков, 1976), Giữa chó và sói (Между собакой и волком,1980), Hàng dậu (Палисандрия, 1985. Iu.V.Satin đã nhầm khi ghi năm xuất bản của tác phẩm này là 1984), trong đó, Hàng giậu là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. -ND.
[3] Barthes R.- Tác phẩm chọn lọc. Kí hiệu học. Thi pháp học. M., 1989, tr. 101
[4] Ricoeur P. Thời gian và truyện kể. T.1. M.,SPb, 2000, tr.187
[5] Tlđd., tr.292.
[6] Lyotard J. Hoàn cảnh hậu hiện đại. SPb., 1997. Tr. 72.
[7] Tiếng Nga: ВКП(б) (Всероссийская коммунистическая партия (большевиков): Đảng Cộng sản Liên bang Nga (của những người Bolsevich).- ND.
[8] Lịch sử đảng Cộng sản Liên Xô (Bolsevich): Giáo trình giản yếu. M.: OGIZ, 1945. Tr.3. Từ đây, các đoạn trích đều được dẫn từ tài liệu này, ghi chú để trong dấu ngoặc đơn ngay sau đoạn trích.
[9] Vaiskovf M. - Nhà văn Stalin. Tr.77
[10] S.M. Kirov: Secgei Mironovich Kirov (họ thật: Kostrikov), sinh ngày 27 tháng 3 năm 1886 tại Urgum, nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành đảng Cộng sản tỉnh Leningrad, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành đảng Cộng sản Liên xô, bị ám sát ngày 1 tháng 12 năm 1934 tại điện Smolnyi, Leningrad.-.ND.
tin tức liên quan
Videos
Lịch sử Việt Nam thời tự chủ [kỳ 26]
Khai mạc Trưng bày chuyên đề ảnh “93 năm Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc" và giới thiệu các sản phẩm đặc trưng vùng, miền
Bi kịch con người cá nhân trong tập truyện ngắn Thế Giới Tối Đen của Võ Thị Xuân Hà
Hồ Xuân Hương không muốn làm đàn ông
Gian nan giữ nghề truyền thống
Thống kê truy cập
114594217

2245

2318

22041

220834

131357

114594217