Những góc nhìn Văn hoá

Lịch sử Nhật Bản (Kỳ 5 - Phần 1)

Tiết 5: Thời đại Kofun và chính quyền Yamato.
 
5-1 Kofun là tượng trưng của quyền lực:

 
Kể từ thời Yayoi trung kỳ trở đi, nông canh phát triển, trong xã hội có sự ngăn cách giàu nghèo, phát sinh ra giai cấp. Nếu ta đọc Ngụy Chí, Nụy Nhân Truyện thì biết rằng sau khi nữ vương Himiko của quốc gia Yamatai chết đi, người ta đã xây một cái gò (tsuka) lớn, đây có thể hiểu là lăng mộ của bà. Dĩ nhiên phải thế thôi vì Himiko là một nữ vương, một người có quyền thế bậc nhất, đã cai trị trên đất nước Yamatai.
 
Trong bối cảnh thời hiện đại cũng vậy: một môi mộ lớn là tượng trưng cho của cải và thế lực hồi sinh thời của chủ nhân ngôi mộ đó. Kofun (Cổ phần) hay “mộ cổ hình gò” nêu lên trong suốt chương này ám chỉ những ngôi mộ hình gò (phần khâu mộ, funkyuubo) đã được kiến tạo trên khắp các vùng đất Nhật Bản từ cuối thời kỳ Yayoi trở về sau. Quyền lực càng phát triển thì lăng mộ, biểu tượng của quyền lực đó cũng phát triển theo cùng một nhịp. Lăng mộ là dấu tích của sự nghiệp mà người ta muốn để lại vĩnh viễn.
 
Kofun đã bắt đầu xuất hiện từ hậu bán thế kỷ thứ 3 hay cùng lắm là đầu thế kỷ thứ 4, thực ra cùng theo một lối suy nghĩ như những người kiến tạo ra kim tự tháp ở Ai Cập. Những người sẽ vào nằm trong đó lúc hãy còn sống phải tích cực động viên nhân lực để hoàn thành nó. Kofun có nhiều hình thức khác nhau, hoặc trước vuông sau tròn (tiền phương hậu viên), hoặc trước vuông sau vuông (tiền phương hậu phương). “Trước vuông” có nghĩa là mặt trước của kofun có hình tứ giác, “sau tròn” có nghĩa là mặt sau tròn. Ngoài ra, cách đào kofun là đào từ trên đỉnh xuống để khơi một lỗ lớn gọi là “phòng đá kiểu nhà hố đứng” (tateanashiki sekishitsu). Nơi đây người ta đặt một cỗ áo quan bằng gỗ gọi là bokkan (mộc quan). Cùng với di thể, người ta chôn theo kính đồng và những vật chôn theo (phó táng phẩm) có tính bùa chú (jujutsu). Trên căn phòng đá đó, người ta đậy đá tảng làm trần. Đó là đặc trưng chung của những ngôi kofun được kiến tạo vào thời bấy giờ. 
 
Nói như vậy, không phải chúng không có màu sắc địa phương. Tuy nhiên cách thiết kế những ngôi mộ thời Yayoi thường có nhiều điểm chung như theo đúng một kế hoạch. Việc các kofun thời Yayoi có nhiều điểm chung tự thể nó cũng mang ý nghĩa đặc biệt. Điều đó là những tù trưởng ở các địa phương được mai táng trong những kofun vốn có những chỗ gần gũi với nhau. Chúng ta có thể tưởng được có một sự kết hợp giữa họ với nhau trên một địa bàn rất rộng lớn khi phải đứng ra thống suất mọi người trong việc xây cất kofun. Sau đây là một ví dụ cụ thể:
 
Một trong những kofun xuất hiện sớm nhất là kofun mang tên Hashihaka ở thành phố Sakurai tỉnh Nara. Nó nổi tiếng vì là một kofun thuộc hạng đồ sộ, 276 m chiều dài với dạng trước vuông sau tròn. Trong số những kofun xuất hiện vào thời kỳ này, quả thật là một kofun có qui mô đáng tự hào. Tương truyền người được mai táng ở đây là một vị công chúa có cái tên rất dài, Yamato Totohimomoso Hime no Mikoto. Cùng một thời kỳ và cùng một hình thức, nghĩa là cũng trước vuông sau tròn như thế, có những ngôi mộ khác được xây lên nhưng ở vùng biển nội địa Seto, một nơi xa hơn. Ví dụ như ngôi mộ hạng to nhất ở thành phố Okayama trong tỉnh Okayama có tên Uramachausuyama kofun là một ngôi mộ được kiến tạo theo phương thức này.
 
Việc xây cất đồng loạt như trên là chứng cứ của sự liên kết giữa các thế lực chính trị vùng Kinki và vùng biển nội địa Seto. Do đó mộ Uramachausuyama mới theo một cung cách xây dựng như mộ Hashihaka. Những người được chôn trong đó cũng phải có mối quan hệ nào đó với nhau. Từ đó, theo qui mô các phần mộ mà xét thì vào thời điểm ấy, những ngôi mộ ở vùng Yamato (Đại Hòa, tức địa phương Nara) và khu vực Kinki có qui mô vượt trội hẳn phần mộ ở những vùng khác. Nó cho ta thấy lúc đó đã có sự hình thành của một thế lực chính trị mạnh mẽ trên vùng đất này. Liên hợp chính trị lấy vùng Yamato làm trung tâm kể từ sau đây sẽ được gọi là chính quyền Yamato.
 
Hiện tượng xây đắp mộ cổ hình gò (kofun) đến khoảng giữa thế kỷ thứ 4 đã lan ra đến vùng trung bộ địa phương Tôhoku (Đông Bắc), điều giúp ta suy luận rằng tới giai đoạn này thì phần lớn của khu vực Đông Nhật Bản cũng đã được đặt dưới sự chi phối của chính quyền Yamato.
 
Thời đại đánh dấu bằng sự thiết kế những kofun như thế - từ giữa thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 7- được gọi là Thời đại Kofun. Nếu dựa trên hình dạng các kofun để phân biệt, ta có thể chia nó ra làm 3 giai đoạn:
 
Tiền kỳ (hậu bán thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 4);
Trung kỳ (cuối thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 5);
Hậu kỳ (hai thế kỷ thứ 6 và thứ 7).
 
Các kofun như thế có thể gom lại thành từng nhóm theo tiêu chuẩn các đặc trưng có tính chính trị, văn hóa và xã hội của chúng. Tuy kofun nằm rải rác ở khắp nơi nhưng qua hình dạng bên ngoài và các đồ phó táng bên trong, người ta có thể suy diễn được nhiều điều. Chẳng hạn, ở một kofun nào đó, khi người ta bắt gặp nhiều đồ phó táng như giáp trụ, binh khí (vũ cụ) hay dụng cụ đi ngựa (mã cụ) thì có thể suy luận ra kẻ được chôn trong đó lúc sinh tiền phải là một người nắm quyền lực quân đội.
 
5-2 Đặc trưng của Kofun:
 
Thời đại Kofun như đã nói được chia thành 3 giai đoạn nhỏ: tiền kỳ , trung kỳ và hậu kỳ.Xin giới thiệu về những nét đặc biệt của phần mộ mỗi thời:
 
Trước tiên, cần nhắc lại rằng các kofun được xây theo nhiều kiểu, hoặc mộ trước vuông sau tròn, mộ trước vuông mà sau cũng vuông, mộ hoàn toàn tròn (enpun = viên phần) và mộ hoàn toàn vuông (hôfun = phương phần). Có số lượng nhiều nhất phải kể đến là mộ hoàn toàn tròn hoặc hoàn toàn vuông nhưng qui mô to tát nhất thì lúc nào cũng là loại mộ có hình dạng trước vuông sau tròn (zenbôkôenkei, tiền phương hậu viên hình). Lô mộ cổ xếp hạng từ 1 đến 44 theo kích thước đều là mộ trước vuông sau tròn. Do đó, hình dạng mộ được xem là quan trọng nhất cũng là loại trước vuông sau tròn này.
 
Lại nữa, trên gò các mộ cổ (kofun) người ta hay đặt một số đồ vật. Đó là những haniwa[1], một loại đồ đất nung dùng để trang trí phần mộ (và có thể còn nhiều công dụng khác). Vào giai đoạn gọi là tiền kỳ, các haniwa chỉ là những vòng (wa) có hình ống (entô) nên gọi là entô-haniwa. Về sau thì chúng xuất hiện dưới dạng hình tượng (keishô) như cái nhà hay cái thuẫn (tate), nhân vật hay động vật, cho nên mới mang tên là keishô-haniwa. Tại sao lại đặt haniwa làm gì thì đến nay vẫn chưa ai biết rõ. Để giữ đất khỏi sụt chăng? Để thế mạng cho những người sống, vật sống bị bắt giết làm vật phó táng chăng? Giả thuyết có rất nhiều. Hoặc giả, nhân vì chung quanh kofun có rất nhiều hào rãnh để ngăn với thế giới bên ngoài, phải chăng người ta dùng haniwa để đánh dấu , xem khu mộ cổ như một thánh vực, khác với một nơi chốn (ba) thông thường.
 
Bảng phân chia thời đại Kofun
 

 
Tiền kỳ (thế kỷ 3 hậu bán - 4)
Trung kỳ (thế kỷ 4-5)
Hậu kỳ (thế kỷ 6-7)
Hình dạng
Gồm tất cả các loại mộ nhưng đặc biệt là loại trước vuông sau tròn
Trước vuông sau tròn có qui mô rộng lớn hơn (thêm rãnh và gò phụ)
Trước vuông sau tròn có qui mô nhỏ đi. Con số mộ tròn tăng thêm.
Cấu tạo nội thất
Phòng bằng đá trong nhà hố đứng, vách đất sét.
Phòng bằng đá trong nhà hố đứng với quách đá dùng lâu bền. Từ thế kỷ thứ 5 có hố ngang.
Phòng bằng đá trong nhà hố ngang. Mộ có tính cách gia tộc (mộ hình cái nhà, quách gốm)
Đồ phó táng
Kính đồng, ngọc bích, ngọc trượng. Có tính cách bùa chú và tế lễ. Ngoài ra còn có đồ sắt và nông cụ.
Mã cụ, giáp trụ, mão miện, đồ trang sức vàng bạc, nhiều đồ sắt (đồ thực dụng do di dân mang từ Triều Tiên và đại lục sang).
Vũ khí, mã cụ, đồ góm. Nhiều dụng cụ sinh hoạt thường ngày.
Haniwa
Hình ống (viên đổng) là chính
Hình tượng người và động vật, nhà, thuyền.
Hình tượng
Địa điểm cụ thể
Hashihaka (Nara).
Uramachausuyama (Okayama)
Ishizukayama (Fukuoka)
Daisenryô (lăng Thiên hoàng Nintoku, Ôsaka), Gondagobyôyama (lăng Thiên hoàng Ôjin)
Misemaruyama (Nara), Takamatsuzuka (Nẩ Asuka), Takahara (Fukuoka), Iwase Senzuka (Wakayama)

 
Kofun tiền kỳ có nhiều loại từ hình tròn, hình vuông, trước vuông sau tròn. Phạm vi phân bố chính là vùng Kinki, sau đó đến khu vực biển nội địa Seto. Nó cho thấy tính tiên tiến của những địa phương này.
 
Đồ phó táng của những kẻ được chôn ở đây trước tiên là “kính 3 góc có viền hình thú linh thiêng” (sankakubuchi shinjuukyô) và sau đó là các kính bằng đồng, các báu vật như vòng cổ tay bằng ngọc bích[2], vũ khí và nông cụ chế bằng sắt. Phải nói là phần lớn những vật ấy có sắc thái bùa chú và tôn giáo rất rõ ràng cho nên có thể suy luận chúng đã được sử dụnng trong tế lễ. Ngoài ra, bên trong các phần mộ, người ta thấy người thời ấy đã thiết kế những gian phòng đá kiểu nhà hố đứng, dùng quan quách bằng gỗ (mokkan) hoặc bằng đá (sekikan). Có khi họ dùng đất sét (nendo) để tô lên quan quách, lúc đó gọi là nendokaku hay áo quan bằng đất sét (niêm thổ quách).
 
Phần mộ tiêu biểu của giai đoạn tiền kỳ này là kofun mang tên Hashihaka (tỉnh Nara), và Uramachausuyama (tỉnh Okayama), ngôi mộ lớn nhất của miền trung đảo Honshuu, cũng như Ishizukayama trên đảo Kyuushuu vv...
             
                            
 Lăng Thiên hoàng Nintoku (trước tròn sau vuông) ở thành phố Sakai
 
Mộ phần của thời trung kỳ hầu như có đặc điểm chung là xây theo kiểu trước tròn sau vuông và rất đồ sộ.Về mặt phân bố thì vào cuối thế kỷ thứ 4 trở về sau, loại kiến trúc đã đã lan ra khắp toàn quốc. Tuy nhiên, nói về kofun có qui mô lớn nhất trên quần đảo phải kể đến Daisenryô kofun nay được gọi là Lăng Thiên hoàng Nintoku, nằm ở Sakai, vùng phụ cận thành phố Ôsaka. Đây là một kofun hình trước vuông sau tròn, chiều dài 486 m, bao bọc bởi 3 vòng rào. Phía bên ngoài còn có xây những baichô (bồi trủng) tức là những ngôi mộ con (trủng) kèm theo (bồi) các kofun cỡ lớn. Nếu kể cả khu vực các baichô này nữa thì khuôn viên tất cả phải lên đến 100 mẫu tây.
 
Các nhà chuyên môn ngành xây dựng cho rằng, tính theo trình độ của người đương thời thì muốn xây cất ngôi kofun như trên, họ phải cần đến 2.000 nhân công mỗi ngày, kinh phí có thể lên đến hàng chục tỷ tiền đô-la Mỹ thời nay và không những thế, thời gian xây dựng kéo dài đến trên dưới 16 năm trời. . 
 
Ngôi kofun quan trọng thứ hai là Konda Gobyôyama kofun nay được biết dưới tên Lăng Thiên hoàng Ôjin. Thiên hoàng Ôjin cũng là một vị đại vương tượng trưng cho chính quyền Yamato vào thế kỷ thứ 5 cũng như Thiên hoàng Nintoku, cho nên ngôi mộ của ông cũng rất vĩ đại. Trong những vật phó táng tìm thấy ở các ngôi mộ thời trung kỳ này phần lớn là vũ khí , mã cụ và các loại dụng cụ trang bị khi chiến đấu Điều này như đã nói, ám chỉ những người được chôn nơi đây phải là những võ tướng, quân nhân.
 
Tuy nhiên, thực tế cho thấy những ngôi mộ to lớn trước vuông sau tròn của thời kofun trung kỳ không chỉ nằm ở vùng chung quanh kinh đô (Kinki) mà thôi Người ta còn tìm thấy chúng ở các địa phương như Kamitsukenu thuộc tỉnh Gunma, Tanba phía bắc Kyôto, Kibi trong tỉnh Okayama và Hyuuga tỉnh Miyazaki. Đặc biệt Tsukuriyama kofun của Okayama, có chiều dài đến 360 m, đứng vào hàng thứ 4 tất cả các kofun trên toàn quốc.
 
Những sự kiện nói trên cho ta thấy được điều gì? Thực ra, chính quyền Yamato –đặt theo tên khu vực mà nó hoạt động – lấy vùng Nara làm địa bàn hoạt động. Thế nhưng, những ngôi mộ to nhất thời đó, không nằm ở đây. Hai ngôi mộ số 1 và 2 đều được xây dựng ở vùng Kawachi chứ không phải ở Yamato. Chúng ta nhân đó có thể tưởng tượng ra sự hiện hữu của một chính quyền được thành lập ở Kawachi (Hà Nội, phiá đông Ôsaka bây giờ). Thế nhưng, ở những nơi xa xôi khác như các địa phương Kenu và Kibi cũng có cổ phần thì chuyện đó làm sao giải thích đây? Rốt cuộc chỉ có thể nói một cách tổng quát là trước tiên tập đoàn lãnh đạo chính trị ra đời vào thời kỳ kofun xuất hiện vì có trung tâm điểm là khu vực Yamato, nên được gọi là chính quyền Yamato. Đến giai đoạn trung kỳ, trung tâm của chính quyền di chuyển về vùng Kawachi, do đó kofun vùng đó so sánh với các nơi khác vẫn giữ nguyên qui mô to lớn. Nếu các ngôi mộ vùng Kenu và Kibi cũng có qui mô hoành tráng là vì các hào tộc địa phương ở đó đã được xem như đồng đẳng với Yamato và được thừa nhận như một bộ phận của chính quyền.    
 
Vào giai đoạn cuối của Thời Đại Kofun tức là kể từ thứ 7 trở đi, trong cách thức tạo dựng chúng lại có một sự đổi thay lớn. Ở trung tâm khu vực Kinki, người ta vẫn còn xây những ngôi mộ trước vuông sau tròn vĩ đại nhưng ở vùng Kibi (tỉnh Okayama và Hiroshima) – nơi mà vào thế kỷ thứ 5 đã có những ngôi mộ cỡ lớn – không còn thấy bao nhiêu ngôi mộ như thế nữa.
 
Điều đó có lẽ chứnhg tỏ rằng đã có sự tập hợp của các hào tộc trên một địa vực rộng rãi. Thế lực trung ương do một đại vương nắm vẫn nằm chung quanh khu vực Kinki và các hào tộc chung quanh đều thần phục. Đã thấy có sự biến dạng lớn trong tính chất của chính quyền Yamato.
 
Vào thời điểm có sự biến dạng lớn của chính quyền Yamato, người ta thấy xuất hiện loại mộ xây thành quần thể (gunshuufun = quần tập phần) trong các vùng núi non thung lũng. Di tích mộ quần thể này được thấy ở di tích Iwase senzuka. Ở giữa rặng núi có lẽ là mộ của một tù trưởng. Mộ ấy trước tròn sau vuông. Trên các đỉnh xung quanh nó, tính ra có khoảng 600 ngôi mộ tròn. Con số 600 này cho ta thấy người ta đã xây kofun cho cả những người thuộc giai cấp cho đến nay không có kofun.Trong các vật dụng dùng để phó táng, thay vì những vật tượng trưng cho quyền hành của tù trưởng, người ta chỉ thấy những vật dụng được sử dụng trong đời sống hàng ngày.
 
Lại nữa, trong các kofun ra đời vào giai đoạn cuối, ví dụ ở Kyuushuu hay các tỉnh Ibaragi, Fukushima...người ta thấy có những bức tranh màu có đường nét vẽ trên tường. Đó là những kofun thuộc loại được trang trí (sôshoku kofun) . Trong phòng đá đào theo lối hố ngang của người đại lục, còn có đủ chỗ để mai táng một người thứ hai hay thứ 3 (mộ gia đình, kazokubo) nữa. Các tranh trang trí trên tường phòng đá đã được vẽ khá tỉ mỉ.
 
                   
Bích họa trong mộ cổ Takamatsuzuka (Nara)
 
Vi dụ rõ ràng hơn hết về loại tranh này là kofun mang tên Takamatsuzuka[3] (thuộc tỉnh Nara) và Takahara (Fukushima). Nó cho ta thấy tuy xây dựng theo kế hoạch nhưng kofun cũng có màu sắc cá nhân mạnh mẽ. Việc tạo dựng các kofun từ sau đó sẽ lùi vào quên lãng kể từ khi Phật giáo truyền đến (thế kỷ thứ 6) và khoảng thế kỷ thứ 7 trở đi thì không còn thấy đâu nữa.
 
5-3 Sinh hoạt của con người Thời đại Kofun:
 
Hãy thử dựa vào những tư liệu và sử liệu có trong tay để tìm hiểu về cách sống của người Thời Kofun.
 
Có thể nói đây là thời đại có sự khác biệt rõ ràng trong nếp sinh hoạt của các hào tộc (tù trưởng địa phương) và những kẻ bị trị. Trong khi một mặt có những ngôi mộ vĩ đại như thế để chôn cất những nhân vật thuộc giới cai trị thì mặt khác, lại có những người phải chịu cảnh nô lệ.
 
Hào tộc là trung tâm của tập đoàn, họ sống trong khu gia cư xa hẳn xóm nhà dân, chung quanh co hào và rào bọc kín. Nhà của hào tộc không chỉ là nơi để sinh sống mà còn là nơi tế tự và cai trị, cũng là kho dự trữ các sản vật.Trong khi đó, trong xóm nhà dân, không hề thấy hào rãnh, chỉ là một nhóm đơn vị cư trú kiểu nhà hố hay nhà trên mặt bằng. Họ tụ tập thành đơn vị chung quanh những ngôi nhà sàn dùng như kho lẫm. Trong những ngôi nhà hố vào thế kỷ thứ 5, đã có thấy họ biết đặt bếp (kamado) [4]để nấu nướng. 
 
Riêng về đồ gốm từ giai đoạn đầu cho đến giai đoạn giữa thời kofun thì nó là loại gốm đỏ đun trong truyền thống của thời Yayoi. Nó co tên gọi là “hajiki”. Gốm hajiki được nung một cách thô sơ, có màu đỏ nâu, không hoa văn, dùng để ninh nấu thức ăn và làm dụng cụ chứa đựng khi ăn uống. Lại nữa, từ thế kỷ thứ 5 trở đi, người từ bán đảo Triều Tiên đã truyền đến Nhật kỹ thuật làm sueki, gốm màu xám và nung cứng, được dùng song song với hajiki. (theo F.Macé, gốm hajiki được nung trong những lò với nhiệt độ từ 4.500 đến 7.500 độ C nên còn để lộ những lổ hổng nhỏ trong khi gốm sueki cần đến sức nóng từ 10.000 độ đến 13.000 độ C nên mặt rất láng).
                    
    
 
 Gốm hajiki (thổ sư khí) gốc bản địa           
 
Thời Yayoi, trong những công trình xây dựng, ngoài kofun, còn có những ao chuôm (ike) mà trong một thời gian dài, người ta nghĩ rằng do ảnh hưởng đến từ bán đảo Triều Tiên vì có tên gọi là “ao Kudara” (Kudara no ike). Lạ lùng là những cái ao nhân tạo này được thấy ở Nhật nhiều hơn ở Triều Tiên. Ao chuôm chỉ phát triển ở Triều Tiên vào thế kỷ thứ 6, lúc mà ở Nhật, nó đã phổ biến rồi. Nó đóng góp không nhỏ vào việc canh tác ruộng nước, một lãnh vực mà Nhật Bản có vẻ tiến xa hơn Triều Tiên. Không nên quên rằng, việc đào ao nhân tạo cũng như đào hào rãnh hay đắp đê điều... đều có tác dụng lên việc tổ chức xã hội vì đó là dịp để huy động lao động.
 
Ngoài ra, các tượng hình nhân haniwa tìm được ở các khu mộ cổ cho ta thấy một cách linh động cuộc sống của người Thời Kofun. Về trang phục đàn ông mặc áo (koromo) và hakama, một kiểu quần giống như quần đi ngựa. Đàn bà thì mặc áo và váy (mo), hai phần trên dưới phân biệt với nhau.
    
Mặt khác, đời sống tinh thần của người Thời Kofun không khác gì hồi Thời Yayoi nghĩa là họ đặt trọng tâm vào những tế lễ liên quan đến việc đồng áng hơn nhiều. Trong đó phải kể đến toshigoi no matsuri, một buổi lễ vào mùa xuân để cầu cho mùa màng được tốt và ni iname no matsuri vào mùa thu để cảm tạ sự thu hoạch hoa màu. Người thời Kofun lại nghĩ rằng những ngọn núi mỏm hình viên chùy, cây cao, ghềnh đá lớn, đảo hoang ngoài biển tít mù, vực sông sâu... đều là nơi có thần ngự nên xem chúng là đối tượng của việc cúng tế. Ngày nay hãy còn những ngôi đền thần mang dấu vết của mối liên hệ ấy.
 
Trong số những ngôi đền có từ xưa, đáng được nhắc đến có lẽ là đền Ômiwa ở Nara. Đền ấy chỉ có bái điện chứ không có chính điện vì ngọn núi Miwa tự nó đã đóng vai trò cái đền (thần thể) rồi. Biển Genkai ngoài khơi tỉnh Fukuoka nhiều sóng gió có hòn đảo Okinoshima đơn độc. Hòn đảo này cũng được xem như một vị thần và được cúng tế ở cung Okitsumiya đền thần Munakata Taisha của tỉnh ấy. Trong đó còn có nhiều di vật cho thấy từ đời Kofun đã có tập tục cúng tế nó và từ đó người ta vẫn giữ. Thêm vào đó, còn phải kể đến Thần cung Ise (Ise Jinguu) thờ tổ thần của các thiên hoàng là nữ thần Amaterasu no Ômikami (Thiên Chiếu Đại Thần), người còn được gọi là Thái dương thần nữ, thần xã Izumo (Izumo Taisha) thuộc tỉnh Shimane nơi thờ Ôkuni Nushinokami, đền Sumiyoshi ở Ôsaka thờ thần biển vv.... Đó là những đền thần có liên hệ với tín ngưỡng đời xưa mà chúng ta cần nhớ đến tên.  
 
Không những thế, việc thờ các vị tổ thần các dòng họ (ujigami) cũng là một nét đặc sắc của thời kỳ này. Người Thời Kofun cũng tổ chức các buổi lễ tẩy uế (misogi và harae) để được thanh sạch và giải trừ tai ách. Họ hãy còn giữ những tập tục mê tín như đốt cháy xương hươu nai để bói hung kiết (futomata no hô), dội nước nóng lên tay can phạm trong những buổi xử kiện để xem người ấy ngay hay oan trước thần minh (myôjin tantô, kukatachi).


[1] Hani là một loại đất màu đỉ gạch (đất sét), rất dính chặt, ngày xưa dùng để chế các loại đồ gốm.
[2] Trong các vật phó táng, còn có thể có những magatama (ngọc cong, curved jewels). Khác với magatama thời thạch khí vốn làm bằng đá hay xương, thời này, đó mà những viên ngọc đẽo rất công phu theo hình răng thú, có lẽ được đem dùng như bùa chú.
[3] Ngôi mộ này được phát quật năm 1972 ở Nara. Vòm mộ có hình tinh tòa (vòm sao), tường có hình linh thú như thanh long, bạch hổ…Trong phòng đá (thạch thất) có những bức bích họa nhiều màu sắc. Bức ở tường phía tây mặt bắc vẽ hình các nữ quan áo thụng, nét bút giống như tranh trong mộ công chúa Vĩnh Thái đời Đường. Có lẽ đến từ ảnh hưởng nghệ thuật Trung Quốc.
[4] Kamado: kiến trúc bằng đất, đá, gạch ngói trên đó đặt nồi niêu và châm lửa củi ở dưới.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114594235

Hôm nay

2263

Hôm qua

2318

Tuần này

22059

Tháng này

220852

Tháng qua

131357

Tất cả

114594235