Những góc nhìn Văn hoá

Sáng tác của Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ để lại một kho thi văn chữ Nôm phong phú gồm có đủ loại. Cuốn sách biên khảo của giáo sư Lê Thước(1) ghi nhận:

- 1 bài phú (Hàn nho phong vị phú);

- 52 bài thơ luật;

- 63 bài hát nói;

- 21 đôi câu đối Nôm;

- 2 bản tuồng (tuồng Tửu hội Lí Phụng Công).

 

I - NGHIÊN CỨU VỀ THỜI ĐẠi CON NGƯỜI Và CUỘC ĐỜI

1. Từ những khuynh hướng thời đại Lê mạt, Tây Sơn

Nghiên cứu thi văn Nguyễn Công Trứ, người ta không khỏi nhận thấy con người ông - cũng như sự nghiệp - thật là phong phú, phức tạp. Nhất là thấy những khuynh hướng tâm hồn ông thường hiện ra một cách mâu thuẫn. Để gỡ sự mâu thuẫn ấy và để hiểu rõ tư tưởng ông, ta cũng cần trước hết trở lại tế nhận cái hoàn cảnh xã hội cùng những dữ kiện cá nhân đã dung hợp để chi phối con người ông ngay từ lúc lớn lên. Về cái xã hội Lê mạt, ta đã có nhiều dịp nhận xét. Nay chỉ khuôn vào giai đoạn từ năm 1786 Nguyễn Huệ ra Bắc, năm đó Nguyễn Công Trứ lên 9, bắt đầu hiểu biết, cho đến năm 1802 Nguyễn Ánh thống nhất, năm đó Nguyễn Công Trứ 24 tuổI, thấy cuộc đời mình đã mở vào một con đường. Trong 15 năm tuổi thành nhân ấy Nguyễn Công Trứ đã chứng kiến bao nhiêu biến đổi. Tâm tư ông đã bị dao động giữa bao nhiêu khuynh hướng trái ngược trong một xã hội chia rẽ và loạn lạc.

Ở tầng lớp nho sĩ trí thức (mà ông là một phần tử) thì “ba bè bảy bối”, chính kiến dị biệt. Nhóm mạnh dạn ra hợp tác với Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Bá Lãm. Nhóm đông đảo hơn hầu hết khoa giáp tấn thân cao rao chủ nghĩa phò Lê (trong đó có chính thân phụ ông là Nguyễn Công Tấn). Một nhóm nữa trông xa hơn, quay về phương Nam để đón một chiều gió mới, như Đặng Trần Thường và có lẽ cả Nguyễn Du nữa. Tất nhiên nhóm nào cũng có lập luận của mình. Nhóm phò Tây Sơn thì nhận định: “Nhà Lê mất quyền, họ Trịnh và họ Nguyễn phân tranh, hơn 200 năm nay, cương thường rối loạn, vua chỉ ôm cái hư danh, đám tư gia tự mình gây dựng vây cánh riêng. Thiên kinh địa duy đổ hết mà không thấy ai động. Chưa có lúc nào tệ như lúc này” (Lời Ngô Thì Nhậm trong bài chiếu tức vị của Quang Trung). Tóm lại, vua Quang Trung xuất hiện chính là để lập một trật tự mới hợp với lòng dân và ý trời. Nhóm phò Lê thì tất nhiên bám lấy cái đạo chấp kinh “trung thần bất sự nhị quân” của họ, tuy rằng thực ra sống dưới chế độ Trịnh phủ, họ đã ngang nhiên thờ hai ông vua, và họ đứng ra chống đối Tây Sơn phần lớn chỉ vì họ cho Tây Sơn là một bọn ngoại quốc xâm lăng (và một phần cũng vì cái danh Tiến sĩ triều Lê của họ nữa). Đến nhóm phò Nguyễn hay vọng Nguyễn thì có người như Nguyễn Du thấy ở đó một nước cờ tả Hán diệt Tần, có người như Đặng Trần Thường phiêu lưu kiêu hãnh tìm bước tiến thân, có người với chủ nghĩa, với tin tưởng như diễn tả trong những lời nói mà một ông tổ của Nguyễn Thiếp là Nguyễn Bật Lãng đã từng phân vân trước cảnh đất nước chia đôi và tuy làm quan với Trịnh mà chết đi lại dặn con cháu: “Nhà Lê suy yếu, bọn tôi mạnh ganh nhau cầm đầu. Sự loạn sinh ra chẳng phải chỉ một ngày. Họ Nguyễn tuy hèn nhưng là bầy tôi cũ. Còn họ Trịnh tiếng làm tướng Lê thật là cừu địch Lê. Chúng mày hoặc đứa có tài có thể làm quan được thì nên theo họ Nguyễn. Đời trước chúa Nguyễn người đều trung nghĩa, con cháu sau này ắt có lúc nổi khá”(1).

Đó là ở chính kiến, sang đến thái độ, đến hành vi cũng bày ra lắm trái ngược. Có người mạnh dạn cả quyết nhảy vào trường hành động, theo với chủ trương của họ, như Ngô Thì Nhậm ra đón Tây Sơn, như Đặng Trần Thường cưỡi thuyền vào Nam, như nhiều di thần nhà Lê đã liều mạng với lưỡi gươm Tây Sơn. Khác thế là thái độ tiêu cực đào ẩn, nhất là trong nhóm gọi là phò Lê. Có người sau vài lần thử sức với Tây Sơn thì chùn bước, như Phạm Nguyễn Du trốn lên ẩn nấp ở Thanh Chương, như Phạm Thái sống lang thang trong quán rượu bên đường, như chính thân phụ Nguyễn Công Trứ trở về cố hương dựng túp lều tranh để bảo vệ những ngày tàn, như Nguyễn Du lên núi Hồng Lĩnh săn bắn ngao du cho quên thế sự. Có người tuy đứng dưới chiêu bài phò Lê mà lừng khừng suốt đời như Nguyễn Thiếp đi ẩn ngay từ đời Trịnh Sâm, Tây Sơn đến bất đắc dĩ chống gậy ra làm một ông cố vấn giáo dục, để đến lúc Nguyễn Ánh lên lại lừng khừng chống gậy về núi. Lại có người, trái lại, như Nguyễn Hữu Chỉnh xuất thân cửa Trịnh rồi đánh lại Trịnh, giúp Tây Sơn rồi chống lại Tây Sơn, phò vua Lê mà là hiếp đáp vua Lê, cả đời quay cuồng hoạt động, cả đời hình như chỉ thờ cái “lợi dụng chủ nghĩa” chỉ biết vẫy vùng ngang dọc để thoả mãn những tham vọng cá nhân.

Bước sang phong tục xã hội đời sống luân lí ta cũng thấy trên mảnh đất Bắc Hà trong khoảng 15 năm điên đảo ấy bao nhiêu cảnh tượng trái ngược. Sự trái ngược bày ra ở ngay đường ăn lối ở, nếp sống hằng ngày của lớp thức giả. Xã hội loạn lạc, kỉ cương đổ vỡ. Những bản năng hưởng thụ ích kỉ được mặc sức buông thả. Một nhân vật như Nguyễn Hữu Chỉnh, thông minh tài giỏi, đầy khả năng hào kiệt, thời cơ đưa lên nắm quyền chính Bắc Hà, vậy mà cũng không lo gì chuyện nằm gai nếm mật, xây dựng sự nghiệp lâu dài, chỉ nghĩ đến lợi dụng và hưởng thụ. Cho nên lên vị Bằng công rồi thì phòng ốc tráng lệ cấp tốc dựng ra, lễ lạt bách gia đưa đến chật cửa, con hát hầu thiếp tuyển vào đầy nhà. Kẻ sĩ như Nguyễn Hữu Chỉnh còn thế huống chi đám quân nhân Tây Sơn sau đó đắc thế, cũng rượu chè hát xướng, cũng ham mê hưởng lạc, có lẽ lại hơn ai cả và hơn bao giờ hết, chính là cái cảnh tượng mà Nguyễn Du đã từng chứng kiến ở Thăng Long:

Tướng Tây mấy gã say sưa,

Suốt đêm hát xướng còn chưa thoả lòng.

Say chầu hát ôm bồng nghiêng ngả,

Vất bạc tiền nào xá gì đâu!(1)

Thời đại chiến tranh mà lại! Thời đại của những đắc thế chớp nhoáng, những vung phí vô lường, những phô phang vô xỉ. Tuy nhiên, bên cạnh những cảnh tượng sa đoạ ấy, cũng giữa xã hội loạn lạc ấy, cuộc sống ở chỗ khác lại bày ra lắm nét cao thượng hào hùng: Những cố gia thất thế, những cựu thần ôm mối cô trung, vẫy vùng giữa một hoàn cảnh vật chất bi đát để giữ vững lòng son. Như Nguyễn Công Tấn “lạc đạo vong bần” trong túp thảo lư của ông ở Uy Viễn, như Nguyễn Du ốm không thuốc thang, mặt xanh xao không sắc máu, ẩn náu cùng quẫn ở Tiên Điền. Cao hơn một bực, một kẻ sĩ khác, Nguyễn Thiếp chán quan chức lui về cung canh tự thực, sống khổ hạnh như một thầy tu, trong mấy chục năm liền nêu cao trên đỉnh Thiên Nhận lá cờ của đạo lí muôn đời. Suốt buổi Lê mạt, La Sơn phu tử quả tồn tại như một vì sao tinh thần lấp lánh giữa đêm tối của tranh giành máu lửa.

Đủ thấy thời đại là phức tạp, đủ thấy 15 năm loạn li trong đó Nguyễn Công Trứ lớn lên, đi từ tuổi hiểu biết đến tuổi thành nhân, cái xã hội quanh ông bày ra lắm khuynh hướng tư tưởng dị biệt, lắm thái độ nhân sinh đôi khi trái ngược. Tất cả những đường lối bất đồng, chính ngụy phân vân, xuất xử hỗn tạp, thiện ác kề liền, đều phải đã vang dội mãnh liệt vào tâm tư ông để tạo nên những khuynh hướng của con người sau này.

2. Đến những khuynh hướng của con người Nguyễn Công Trứ

a) Song đến đây chúng ta lại phải quay lại nhận định về chính con người ấy với những dữ kiện cá nhân của nó. Qua tiểu sử, và thi văn ta nhận thấy Nguyễn Công Trứ thuộc về một gia đình nền nếp Tống Nho, đạo đức, tiết liệt, Nguyễn Công Tấn đứng vào phe phò Lê, thất bại trong việc Cần vương, lui về nhận cuộc sống khổ ải để giữ trọn danh tiết, và chắc chắn nuôi con trong cái tinh thần khắc kỉ cao thượng ấy. Chứng cớ là lòng kiên trinh của bà con gái Năng Văn nữ sĩ. Chứng cớ là tính khí khái của chính Nguyễn Công Trứ. Song chúng ta lại phải kể đến cái thể chất của Nguyễn Công Trứ, một thể chất mạnh, đầy nhựa sống, đầy men hăng say. Ông không phải như Nguyễn Du 30 tuổi đầu đã bạc, bệnh về thể xác, bệnh về tâm hồn, đeo vết thương của thời đại như một ám ảnh chung thân. Công Trứ trái lại có sức khoẻ bền bỉ, tinh thần tỉnh táo, tính hiếu động, thực tế, lạc quan. Ông là con người của dục vọng mãnh liệt cũng như của ý chí phi thường.

b) Nguyễn Công Trứ bước vào giai đoạn rối loạn lúc còn ấu thơ, lớn lên tâm tính phát triển theo với bản chất và giáo dục, nhưng cũng dưới sự chi phối mạnh mẽ của xã hội và thời cuộc. Năm 1800, thân phụ mất. Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất đất nước. Với biến cố ấy, ta có thể thấy thành hình nơi Công Trứ một số khuynh hướng tư tưởng sẽ ở lại mãi với con người trong suốt cuộc đời sau này.

- Về chính kiến, ông thẳng thắn mạnh dạn ra ủng hộ tân triều. Cũng như đa số sĩ phu Bắc Hà sau năm 1802, ông nhận thấy lập trường phò Lê của chính thân phụ ông không thể đứng vững được nữa trước thực tế của lịch sử của đất nước. Ván cờ tương tranh quá kéo dài đã kết liễu và cần phải kết liễu. Họ Nguyễn đã được mệnh trời. Vả chăng đối với ông cái kỉ niệm cố Lê hầu như không có gì. Ông còn ít tuổi hơn Nguyễn Du, chỉ biết thuở tấm bé những phong trần của đời Lê mạt. Sau đó là chuỗi ngày buồn bã vô vọng dưới Tây Sơn, thất thế nghèo khổ, bị coi rẻ coi khinh. Ý thức về sự nghiệp đòi ông phải vươn lên đóng một vai trò. Do đó mà biến chuyển năm 1802 đến với ông vào giữa tuổi 24 như một điều mong ước, một lối mở cho một ngõ bí. Ông có thể tự coi như là đã gặp thời. Cho nên năm sau vua Gia Long tuần du đất Bắc dừng lại Nghệ An, ông đã hăng hái tìm đến dâng bài Thái bình thập sách.

Về hành vi thì với tuổi thanh niên nhất là với bản chất cường kiện, hiếu động, đa dục, ông không thể nào chấp nhận nếp sống tiêu cực của những ẩn sĩ Lê mạt, hoặc của chính thân phụ ông. Ông muốn vẫy vùng cho thoả sức, do đó có cái chí nam nhi tang bồng hồ thỉ mà ông sẽ đeo đuổi thực hiện suốt đời.

- Về luân lí cá nhân thì giáo dục gia đình buộc từ thuở nhỏ phải đem ý chí thắng dục vọng, phải chịu sự nghèo khó một cách can đảm, giữ lấy cái danh trong sạch. Cho đến sau này, làm quan thanh liêm, có lúc nghèo rớt, vua hiểu lòng dạ và tình cảnh phải gởi bạc riêng để tặng kín(1). Lại kinh doanh khai khẩn đến vài chục vạn mẫu ruộng mà không xin cho mình lấy một tấc đất. Suốt đời thảng thích ung dung, coi lợi lộc như đám phù vân, ông quả đã nêu gương đạo đức nho gia hiếm có.

c) Tuy nhiên, những khuynh hướng ấy không phải thuần nhất và một chiều nơi ông như vậy. Thời đại phức tạp trong đó ông lớn lên để lại những dấu vết mâu thuẫn sâu xa trong tâm hồn ông.

- Về quan niệm chính trị, tuy ra thờ Nguyễn, tuy suốt đời không hề có hành vi phản nghịch nào, song đã có những dịp ông tỏ ý bất mãn với mệnh lệnh độc đoán của vua. Ông không quan niệm chữ trung một cách máy móc theo kiểu Tống Nho “quân sử thần tử thần bất tử bất trung”. Thờ vua ông nhìn xa hơn đến dân đến nước. Cho nên thay vì nịnh bợ cá nhân quân vương để được thương yêu thăng thưởng, ông lo làm điều ích lợi cho quốc dân. Có khi vì thế mà bị quở phạt ông cũng không ngại. Tưởng như chính là cái lập trường phụng sự của con người đã sống qua một thời phân tranh, đã chán cuộc tranh bá đồ vương của mấy họ phong kiến, và bây giờ thanh bình trở lại, họ nào cầm quyền cũng được, chỉ có một thực tế đáng chú ý là người dân khổ sở cần phải cưu mang, khổ vì giặc giã nên phải dẹp giặc, khổ vì đói nên phải khẩn điền, ngoại giả vua chúa, chức tước, thưởng phạt chẳng đáng để ý đến lắm.

- Về đường hành động thì ông hăng say với chí nam nhi thật đấy, song cái khuynh hướng ẩn dật ngao du cho quên thế sự cũng đã thành nếp nơi con người ông ngay lúc niên thiếu, khi sống những ngày rối loạn Lê mạt, vô hy vọng dưới Tây Sơn. Ông muốn làm một Nguyễn Hữu Chỉnh vẫy vùng cho phỉ chí nhưng ông cũng đã từng thấy và bị cảm hoá bởi tấm gương cao khiết và cuộc đời siêu tục của La Sơn phu tử, của chính thân phụ ông. Do đó mà tiếng gọi của chữ nhàn, của đào ẩn vẫn luôn luôn phảng phất bên tai ông.

- Về đường luân lí cá nhân, tuy giáo dục và lí trí kêu gọi cuộc sống hy sinh khắc khổ nhưng bản năng và dục vọng cũng đòi hỏi thoả mãn. Do đó mà tư tưởng an phận tri túc luôn luôn xung đột với tư tưởng cầu tiến và hưởng thụ. Đây có lẽ là cái mâu thuẫn lớn nhất trong tâm hồn ông, mâu thuẫn ấy có ngay từ thuở nhỏ. Sống trong cảnh hàn vi ông vừa chửi cái nghèo vừa ca tụng nó. Cảnh tượng trái ngược của xã hội vang dội vào tâm tư làm cho mâu thuẫn ấy càng thêm rõ rệt. Cái gương La Sơn phu tử sống khổ hạnh trên núi làm ông cảm kích, nhưng nếp sống của đám tướng tá Tây Sơn hay của bao kẻ có vị có tiền thời ấy chơi bời hát xướng, phung phí thả cửa, cũng làm cho ông xiêu lòng. Đành rằng về sau khi đời ông đã đi vào một hướng phụng sự, khi ông đã nhận lấy một trách vụ với vua với nước, cuộc sống khắc kỉ thanh cần là cuộc sống ông phải tuân theo, nhưng tiếng gọi của dật lạc, của vui chơi bừa bãi vọng lại từ một xã hội loạn lạc, kỉ cương đổ vỡ, vẫn còn phảng phất nơi tâm hồn ông, và đôi khi gặp sự trỗi dậy của dục vọng ở một cơ thể bền chặt, đổ ra thành thái độ hưởng thụ trơ trẽn lạ lùng.

3. Sự thể hiện qua cuộc đời ông

Những năm tiền Nguyễn như vậy quả đã có giá trị quyết định trong sự tác thành những khuynh hướng tư tưởng của Nguyễn Công Trứ, nhất là giúp ta hiểu những phức tạp và mâu thuẫn thường gặp trong tâm hồn ông. Tuy nhiên, cuộc đời ông bước sang triều Nguyễn còn trải qua nhiều giai đoạn, trong đó những gặp gỡ đắc thất khác, tuy không xoá bỏ được những khuynh hướng trên, song đưa chúng vào sự thể hiện biến đổi. Chúng ta có thể, khởi đầu lại từ buổi niên thiếu, vạch ra những nét vắn tắt, những thể hiện ấy qua các giai đoạn cuộc đời của ông như sau:

a) Thời Tây Sơn (Tuổi thành nhân, thời đợi chờ vô vọng, 15 năm, từ 9 tuổi đến 24)

- Ảnh hưởng cốt yếu của:

+ Các phe đảng dị biệt ở Bắc Hà.

+ Những khuynh hướng phong tục xã hội trái ngược.

+ Nền giáo dục gia đình khắc khổ (cha mất năm 1800).

+ Khí chất mạnh khoẻ, sinh lực dồi dào.

- Do đó có khuynh hướng:

+ Vẫy vùng cho phỉ chí trai thời loạn.

+ Hưởng lạc theo bản năng thời loạn và tuổi trẻ.

+ Tu thân đợi thời theo gương cha và nếp nhà.

b) Thời Gia Long (Đã nhận thấy tương lai, nhưng vẫn còn đợi thời, 17 năm, từ tuổi 25 đến 42).

- Ảnh hưởng của:

+ Chính sách chiêu đãi cựu tộc cố gia của Nguyễn Ánh.

+ Sự phục hưng của khoa cử và đạo Nho.

+ Thời vị đạt còn kéo dài, nếm vị hàn nho mãi đến 1819.

- Do đó có khuynh hướng:

+ Vẫy vùng ngoi lên bằng con đường khoa cử.

+ Chí nam nhi đi vào đối tượng phụng sự nhà Nguyễn.

+ Cố cùng để đợi thời xuất chính.

+ Hưởng lạc cho tỏ chí thanh cao, cho đỡ buồn bã.

c) Thời Minh Mệnh, Thiệu Trị (Đắc thời đắc dụng, 28 năm, từ tuổi 42 đến 70)

- Ảnh hưởng thêm của:

+ Thời cuộc đa nan, giặc giã nhiều quá.

+ Tư cách của một ông vua biết thủ đoạn dùng người, đánh, vuốt, thăng, giáng, lung lạc tinh thần người ta bằng đủ phương cách. Đối với Nguyễn Công Trứ, khi tín cẩn trọng dụng, cho tiền, cho quà, săn sóc, rỉ tai(1) khi nghiêm khắc trừng phạt, truất giáng đáo để(2).

- Do đó có khuynh hướng:

+ Chí nam nhi được dịp thực hiện một cách rất sốt sắng.

+ Xây dựng sự nghiệp lớn lao, hành chính, quân sự, dinh điền.

+ Hành lạc để đền bù những vất vả cực nhọc.

+ Nhiều khi chán nản danh lợi hoặc bất mãn với triều đình.

d) Thời Tự Đức (Thời hưu quan, nghỉ già, 10 năm, từ tuổi 71 đến 81)

- Ảnh hưởng thêm của:

+ Tuổi già, đời tàn.

+ Sự nghi kỵ của vua Tự Đức và xiểm xúc của triều đình.

- Do đó có khuynh hướng:

+ Vĩnh biệt mộng anh hùng (Tuy nhiên năm 81 tuổi vẫn còn muốn xung phong đi đánh Tây).

+ Hưởng lạc thoả thuê để bù lại tuổi già và quên thế sự.

+ Tư tưởng ngoài Nho, Lão lại thiên về Phật.

Nhìn lại, con người và cuộc đời Nguyễn Công Trứ, ta thấy quả là phức tạp mà phong phú. Có thể nói ông đã đem kiến thức và tâm tư của con người Lê mạt sang dựng cuộc đời dưới thời Nguyễn sơ. Nhưng khác với Nguyễn Du, ông không đeo nặng những ám ảnh đen tối về đời Lê mạt. Phần vì ông còn ít tuổi so với Nguyễn Du (năm 1802, ông 24 tuổi, Nguyễn Du đã 38) nên ít sự “kinh nghiệm đoạn trường”. Phần vì bản tính con người ưa hoạt động hơn là trầm tư. Những năm tiền Nguyễn của ông, tuy có giá trị quyết định về khuynh hướng con người sau này, song chỉ là những năm chuẩn bị nhập cuộc, nóng lòng nhập cuộc. Cuộc đời để thể hiện của ông đã dự phóng cả vào thời Nguyễn. Cả phần lớn văn chương sáng tác cũng về thời này.

II. THáI ĐỘ TRONG VẬN CùNG

Trong thi văn Nguyễn Công Trứ biểu lộ tư tưởng ông, trước hết có một số bài, có lẽ theo thứ tự thời gian cũng là làm ra trước cả, nói về cái hoàn cảnh cùng túng nghèo khổ của ông. Có những bài tả rõ cái cùng khổ ấy như bài phú Hàn nho phong vị, mấy bài thơ Than cùng, v.v… Có những bài về nhân tình thế thái đa số cũng là những nhận xét của ông đứng trong hoàn cảnh cùng khổ. Những bài ấy chắc chắn đều làm ra trong thời kì chưa thành đạt, tức là trước năm 1820. Đồng thời xem giọng điệu tin tưởng lạc quan chứng tỏ tác giả đã thấy rõ chí hướng mình sau cơn li loạn, hoặc căn cứ vào một vài chi tiết trong bài, ta lại có thể đoán là hầu hết đã làm ra sau năm 1802. Như trong bài phú Hàn nho phong vị, ông viết: “E phép nước chưa nên gan sừng sỏ”, phép nước đây phải là vào khi vua Gia Long đã lên cầm quyền, dựng lại mối giềng, luật lệnh. Trong mấy bài Than cùng, lại có câu: “Đã từng tắm gội ơn mưa móc”, ơn mưa móc nói đây chỉ có thể là cái danh Tú tài nhỏ mọn vào năm ông 35 tuổi (1813), vậy bài ấy rõ rệt làm ra vào khoảng 1813-1820.

Tóm lại, những bài thi văn tác giả than thở vận cùng, cảnh khổ thi rớt, công danh muộn, đời tệ bạc, đa số làm ra khoảng 1802 - 1829 và nói lên tình trạng và ý nghĩ của tác giả trong thời ấy. Qua những bài đó chúng ta thấy gì?

1. Bức tranh sinh hoạt cùng khổ của tác giả

Trước là cuộc sống eo hẹp, tiều tuỵ, thiếu thốn về đường vật chất, như mô tả rất rõ trong bài Hàn nho phong vị phú: ở thì “bốn vách tường mo ba gian nhà cỏ”, mặc thì “áo vải thô nặng trịch”, ăn thì “cà non mướp luộc”, uống thì “lá vối lá bàng”. Cũng nên nhận xét rằng bức tranh sinh hoạt đây chứng tỏ một hoàn cảnh phong lưu thất thế với những “ấm đất sứt vòi” “be sành chắp cổ”, “sách gác đầu giàn, tranh treo trên vách”. Nói đúng ra thì cái nghèo của Nguyễn Công Trứ đây còn ở xa trên tình trạng “rờ không ra rà không thấy” của kẻ cùng đinh vô sản, không tấc đất cắm dùi. Ông còn có nhà cửa tuy rằng chật hẹp, có ruộng nương tuy rằng thu hoạch ít ỏi, có gia súc tuy chẳng đủ thức nuôi cho béo. Cái mà ông thấy thiếu thốn đây có lẽ chính là toà ngang dãy dọc, là mĩ vị cao lương, là lụa là gấm vóc. Và điều làm ông buồn bã nhất trong cảnh hàn nho này không hẳn là cái đói rét có lẽ ông chưa biết đến mà chính là cảnh cửa nhà sa sút, cảm tưởng bị người đời coi rẻ, coi khinh, cùng là cái khổ về đường tinh thần khi phải đến “Thân thỉ to to nhỏ nhỏ..., mỏi cẳng ngồi trì” kẻ có tiền “vuốt râu làm bộ”, khi bắt gặp những cái “ngoảnh mặt cúi đầu, trìa mui nhọn mỏ” của cả thầy tớ, chị em,...

2. Thái độ tin tưởng vào tương lai

Hãm vào hoàn cảnh nghèo khổ tăm tối ấy, người hàn nho của chúng ta phản ứng ra sao? Bao giờ ông cũng giữ tư cách trong sạch lương thiện, không vì tiền bạc làm thất đức hay phi pháp, ông đem tư tưởng về vận hội, về số mệnh ra để tự an ủi:

Số khá bĩ rồi thời lại thái,

Cơ thường đông hết hẳn sang xuân.

Nhất là ông tin tưởng vào tài năng của mình, do đó ông nuôi hy vọng không bờ bến vào tương lai:

Trong cuộc trần ai ai dễ biết,

Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.

Do đó mà tuy ở trong vận cùng, ông vẫn tỏ thái độ ung dung thảng thích, vừa tự kiêu vừa ngạo đời.

3. Những nhận xét chua chát về thế tình

Đối với người đời, mà có lẽ trong hoàn cảnh cùng khổ của ông, ông càng có dịp nhận rõ tâm lí tráo trở bạc ác, ông thường có thái độ trào lộng chua chát. Đôi khi ông bực mình với thế thái nhân tình đến nỗi phải phát ra lời nguyền rủa hoặc đưa ra những nhận xét cay nghiệt như:

Đ. mẹ... nhân tình đã biết rồi,

Lạt như nước ốc bạc như vôi!

Tiền tài hai chữ son khuyên ngược,

Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi.

Chân có chẹt rồi thời há miệng,

Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi...

Tóm lại, đọc những bài thơ Nguyễn Công Trứ nói về vận bĩ cảnh nghèo của ông, ta thấy nghị lực của một con người cứng cáp, quyết thắng lướt cảnh ngộ, nhưng ta cũng thấy nỗi bất bình của con người nhiều dục vọng muốn tìm cách vươn lên để thoả mãn những khát khao phú quý, công danh. Nguyễn Công Trứ không phải là một hiền triết như thầy Nhan Hồi, một giỏ cơm một bầu nước, ở nơi ngõ hẻm mà vui với đạo lí suông. Ông nếm trong cái phong vị hàn nho nhiều chất đắng cay mà ông thấy ngán. Sau đọc đến những bài thơ nói về nhân tình thế thái, dù có liên quan đến cái nghèo của tác giả, dù chỉ là những nhận xét khách quan, ta cũng thường thấy ý mỉa mai gay gắt của con người dễ cảm khái, thiếu bình thản, ông chửi đời, riết móc đời hơn là khuyên răn dạy dỗ đời. Đó là chỗ phân biệt những bài thơ về thế tình của ông với những bài thơ của Nguyễn Trãi hoặc Nguyễn Bỉnh Khiêm xưa.

III - CHí NAM NHI VỚI CHươNG TRìNH KẺ Sĩ

Một đề tài chính yếu khác trong thi văn Nguyễn Công Trứ là cái mà người ta thường gọi là chí nam nhi của ông. Thuộc về đề tài này có vài bài thơ luật, một hai câu đối, và nhiều bài ca trù. Có bài như Đi thi tự vịnh, tác giả làm ra khi còn hàn vi. Những bài có câu như “Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung” hoặc “Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung” hẳn tác giả làm ra khi đã ra làm quan và nhân một cuộc đánh dẹp nào đó. Những bài lời lẽ hùng dũng nhất có lẽ làm ra sau vụ chiến thắng lừng lẫy ở Tuyên Quang (1833). Tóm lại, tất cả những bài về chí nam nhi này cũng đều làm ra dưới đời Nguyễn cả, và trong giai đoạn chí hướng đã nhận rõ con đường phục vụ, khí thế tác giả đi lên mạnh mẽ.

Tuy nhiên, có điều không ai chối cãi được là chí ấy với tất cả những nét hào hùng của nó, đã manh nha trong tâm hồn Nguyễn Công Trứ ngay thuở nhỏ, ngay từ khi sống dưới Tây Sơn. Bản chất cường kiện, tinh thần kiêu dũng của con người niên thiếu ấy ném vào một xã hội loạn li, mặc dầu sự đè nén của giáo dục khắc khổ, mặc dầu ảnh hưởng cuộc sống tiêu cực của người cha, không khỏi nhiều lúc bùng lên trong những giấc mộng cung kiếm ngang tàng, cái ước vọng vẫy vùng cho phỉ chí, cái mộng làm nên đấng anh hùng phải là sản phẩm của thời đại phân tranh Lê mạt. Mộng ấy còn ở lại trong tư tưởng và ngôn ngữ ông mãi về sau, như một ám ảnh, một kết tinh. Nhiều người nghĩ rằng ví thử Nguyễn Ánh chưa thắng ngay được Tây Sơn, cuộc phân tranh loạn lạc còn kéo dài, thì Nguyễn Công Trứ lớn lên hẳn cũng chẳng chịu nằm dài trong “năm gian nhà cỏ” nghiền ngẫm cái phong vị hàn nho, tất ông cũng đã phải “động lòng bốn phương” mà lên đường gây lấy một sự nghiệp hào kiệt rồi, nhưng cuộc thống nhất của Nguyễn Ánh đã chuyển cuộc đời ông sang một hướng, đã đưa tài trí người trai ấy vào những đường lối phục vụ rõ ràng. Những đường lối ấy là gì? Chính là vấn đề nội dung cái “chí nam nhi” của ông như có thể phân tích thấy qua các bài thi văn liên hệ. Ta thấy đại để cũng là những mục tiêu thông thường của một người trai trong xã hội Nho giáo xưa. Nợ bút nghiên, gánh trung hiếu, hội long vân, miếng chung đỉnh. Nói nôm na: phải thi đỗ, phải làm quan, phải hết sức vì vua vì nước, phải được hưởng giàu sang vinh hiển. Khác chăng là cái giọng đặc biệt hăng say, cái điệu luôn luôn hào hùng tác giả diễn đạt những nguyện vọng công danh ấy. Cũng khác nữa là mấy điểm tối quan trọng này.

1. Chí vẫy vùng ngang dọc

Thường trong xã hội Nho giáo xưa, người con trai muốn tiến thân tất phải theo đường khoa cử, do đó vấn đề “bảng vàng võng lọng” trở nên cái đích tối cao, cũng như sự “sôi kinh nấu sử” thành cách đào tạo duy nhất. Do đó mà ra đời thiếu kinh luân bặt thiệp, sự nghiệp thiếu tầm thước cao rộng. Người trai “thanh xuân tác phú, hạo thủ cùng kinh”, dù có hiển đạt cũng chỉ trong vòng văn nhược hủ nho. Đối với Nguyễn Công Trứ, việc thi đỗ là một phương tiện để vua biết tới mà dùng, sau đó ông mới có dịp đem thi thố những khả năng kinh luân là cái sở trường chính yếu của mình. Ông nói rõ hẳn tài trai có văn phải có võ:

Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,

Làm cho rõ tu mi nam tử.

Ông khinh bọn tấn thân văn nhược, chu tử đầy triều, coi họ như những con mèo nằm bếp. Đối với ông, đời trai phải vẫy vùng ngang dọc, tích cực tranh đấu ở nơi đầu sóng ngọn gió, đảm đương những trách nhiệm khó khăn, làm được những việc phi thường, tóm lại tiến tới dựng nên một sự nghiệp anh hùng là cái tột đỉnh của công danh, cái đích đẹp nhất của chí nam nhi.

2. Quan niệm công danh trong vũ trụ

Tại sao người trai ở đời cứ phải lăn lưng vào lập công danh? Thường tình người ta đưa ra những lí do như để “dương thanh danh hiển phụ mẫu”, để làm tròn phận sự hiếu tử, trung thần. Hay có khi thực tế hơn để được ăn trên ngồi trốc, hưởng giàu sang, có quyền thế, như trong lời khuyên học trò quá thực tế trong Gia huấn ca. Trong tư tưởng của Nguyễn Công Trứ, ông cũng không khước từ những mục tiêu ấy, không phủ nhận những động cơ trên. Chức khanh tướng, miếng đỉnh chung đối với ông cũng có ý vị, cũng đáng thèm muốn. Song ông thường mở rộng cái quan niệm ra một phạm vi cao xa hơn. Ông cho rằng người nam nhi, nhất là người anh hùng hào kiệt sinh ra là do cái tú khí của non sông chung đúc. Sinh ra với sở bẩm thông minh, tài giỏi như vậy, khác nào như nhận lĩnh một kho tàng quý báu của trời đất, vậy phải tiêu dùng thi thố lập ra công nghiệp để trả nợ hoá công(1). Cái ý niệm về trả nợ ấy là điểm rất đặc sắc trong quan niệm Nguyễn Công Trứ về công danh. Ông thường nhắc trong mỗi bài hát nói những chữ nợ nam nhi, nợ tang bồng, nợ công danh, cả đến nợ “trung hiếu, nợ sách đèn”, nói chung nợ đời. Trời sinh ra vạn vật phú bẩm cho mỗi vật một cái tính. Sống tức là vận dụng cho hết cái tính đó. Núi thì tự tại. Sông thì bất xả. Chim thì lông. Hoa thì cánh. Con hoạ my phải hót. Con tằm phải nhả tơ. Con người ôm một bầu tài trí cảm thấy “phải làm một cái gì”, phải vẫy vùng thi thố, phải tạo danh lập nghiệp. Cho nên nói:

Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp,

Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân.

Mà chữ danh liền với chữ thân,

Thân đã có ắt danh âu phải có.

Như vậy, vấn đề công danh đối với bậc kì nam tử không phải đặt ra trong phạm vi xã hội trong kích thước nhân loại nữa. Người ta có thể vẫn làm tròn phận sự hiếu tử trung thần, song cứu cánh không phải là để chiều ý một ông cha già háo danh hay một ông vua độc đoán, nhắm những mục tiêu hẹp hòi của xã hội. Bậc kì nam tử nhìn lên cao hơn, nhìn ra núi sông vũ trụ:

- Có sự nghiệp đứng trong trời đất,

Không công danh thời nát với cỏ cây.

- Vũ trụ chi gian giai phận sự,

Nam thi đáo thử thị hào hùng.

Người nam nhi lập công danh, là để trả một món nợ cho hoá công, để góp tiếng nói vào khúc hợp tấu của vũ trụ. Quan niệm ấy thật siêu việt. Nó được xây dựng trên một nền tảng siêu hình và nó có tính chất thần bí.

3. Chương trình kẻ sĩ siêu việt

Phối hợp tất cả những tư tưởng trên về công danh và tham bác những học thuyết Nho, Lão, ông đã đi đến vạch ra một chương trình đời sống cho kẻ sĩ tức là người nam nhi trí thức trong xã hội xưa. Đó là đề tài của một bài ca trù vĩ đại: Luận về kẻ sĩ(*) 31 câu hát nói, 241 chữ, tràn trề khí thế cương nghị, hùng dũng. Đại ý Nguyễn Công Trứ quan niệm cuộc đời kẻ sĩ chia làm ba giai đoạn: Thời hối tàng sống ở nơi làng xã, giữ cương thường, nuôi chính khí, vui cảnh ngộ, phù thế giáo, cầm chính đạo. Thời hiển đạt là sau khi “rồng mây gặp hội” đem tài lương đống và mũi can tương lập công nghiệp để lưu phương bách thế, trả nợ vũ trụ. Thời nhàn dật là sau khi công thành danh toại, rút lui về nơi tuyền thạch, tiêu dao sơn thuỷ, hưởng những thú thi tửu cầm kì. Qua chương trình trên, ta nhận thấy:

Trước hết, dấu tích của cái quan niệm về công danh sự nghiệp ở trên. Kẻ sĩ phải văn võ toàn tài:

Trong lăng miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương

Kẻ sĩ không cần phải xuất thân bằng cử nghiệp. Việc “rồng mây gặp hội ưa duyên” đây không hẳn là thi đỗ. Văn Vương đi câu gặp Lã Vọng. Thành Thang nghe tiếng tìm đến Y Doãn. Đó đều là những mối duyên hội ngộ giữa minh quân lương tể.

Kẻ sĩ thi thố tài trí làm nên khanh tướng, tiếng tăm để lại đời sau, nhưng cuối cùng chỉ là làm phận sự đối với vũ trụ và khi cái nợ hào hùng ấy đã trả xong thì rút lại, cái công danh đã lập nên một cách gian nan ấy, chẳng nên để mình bận tâm mà tham lam luyến tiếc.

Song cái quan trọng ở bài này chính là sự hoàn bị của một chương trình, sự long trọng của một tuyên ngôn. Nguyễn Công Trứ chẳng phải giãi bày những ý kiến hoặc ước vọng của riêng mình như trong nhiều bài về công danh. Ở đây ông nhân danh cả giai cấp nho sĩ mà ông là một phần tử để đưa ra một quan niệm về cuộc đời kiểu mẫu. Người ta thường cho rằng Nguyễn Công Trứ là một đại diện xứng đáng và cuối cùng của Nho giáo Việt Nam, rằng với tư tưởng và sự nghiệp của ông, ông đã làm cho khác nào ngọn đèn Nho giáo mờ lụn trong thời Lê mạt tới hồi Nguyễn sơ được dịp sáng bùng lên một phen. Điều đó thật đúng. Quay lại thời cuộc Bắc Hà Lê mạt, nho lâm bày bao nhiêu cảnh sa đoạ, mua danh bán tước, luồn lọt công môn. Những tiến sĩ như Nguyễn Hoàn thật là bỉ ổi. Bị cái bả lợi danh mê hoặc, bị chế độ quân phiệt chèn ép, tâm hồn lại chỉ đào luyện trong cái học từ chương phù phiếm, đa số trở nên xu phụ khiếp nhược, không tinh thần, không tư cách, lúc quốc biến chỉ biết rụt rè đầu lưỡi hoặc tìm chỗ an thân. Cả đến La Sơn phu tử tuy treo tấm gương đạo lí sáng rực, song không khỏi mang tiếng là tiêu cực, trốn đời. Đạo Nho ngoài phần đạo lí tu thân, còn chú trọng vào sự hành động xã hội. Nước ta về trước không phải không biết những kẻ sĩ nhân cách chói lọi, mà sự nghiệp với quốc gia cũng rất hiển hách, như Tô Hiến Thành, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Hồ Tông Thốc, Nguyễn Trãi. Nhà nho từ lâu không làm tròn được phận sự trị bình của mình phần vì thiếu đạo đức, khí lực, phần vì chỉ biết múa cây bút văn chương mặc cho đám quân phiệt thao túng chính trường, khiến cho những lí thuyết tốt đẹp của Khổng - Mạnh thành ra không tưởng và đất nước cứ bị xâu xé mãi. Nguyễn Công Trứ chắc phải đã nhận ra những nhược điểm ấy của giai cấp ông. Cho nên ông dựng ra một kiểu mẫu kẻ sĩ văn võ kiêm toàn, giàu óc kinh luân hơn tài thi phú, lúc xử thế thì giữ hạnh rất cao, lúc xuất thì phục vụ rất hùng, để rồi sau hết công thành danh toại, coi giàu sang như cái dép rách, ném đi mà lui về với cuộc sống lâm tuyền. Ta phải công nhận rằng cái quan niệm ấy thật là hoàn bị và hào sảng. Nó đưa kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ đến thực hiện một mẫu người tổng hợp trong đó, có cái đạo đức của Trọng Ni, cái hùng dũng của Tử Lộ, cái thanh thoát của Tăng Điểm. Kẻ sĩ của ông trở thành một hạng siêu nhân. Nó làm ta nghĩ đến ở trời Tây hạng người lãnh đạo siêu phàm trong lí tưởng của một Platon, một Nietzsche.

IV. QUAN NIỆM HƯỞNG NHàN

Một đề tài không kém phần quan trọng so với chí nam nhi là cái quan niệm của Nguyễn Công Trứ về sự hưởng nhàn. Chúng ta đếm được 3, 4 bài thơ luật và hơn mười bài hát nói trong đó tác giả diễn tả cái quan niệm của ông về sự cầu nhàn hưởng lạc ở đời. Đa số những bài ấy làm ra trong thời kì ông đã xuất chính và một hai bài trong đó quan niệm của ông được trình bày đầy đủ hơn cả có lẽ làm ra khi ông đã về hưu (như bài Thoát vòng danh lợi, Thích chí ngao du, Nhàn nhân với quý nhân. Qua tất cả phần thi văn về chữ nhàn ấy, ta có thể nhận ra mấy khía cạnh sau đây:

1. Hưởng nhàn trong những thú hành lạc

Ở nhiều nhà nho, nhàn là một thái độ xuất thế, chán phồn hoa danh lợi đã đành, song lại thường kèm theo một nếp sống thanh đạm, tri túc quả dục, yên lặng để hướng tâm tư về sự suy tưởng, về đạo. Ví dụ như ta đã thấy cái nhàn đầy hương vị thanh khiết ấy của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi, của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Bạch Vân thi, của Nguyễn Hàng trong Tịch cư ninh thể phú.

Với Nguyễn Công Trứ, ta thấy cái nhàn của ông có tính cách hoạt động. Ông chán xã hội, chán công danh sự nghiệp là để quay sang sống cho cá nhân và cho cảm giác. Và cuộc sống này thường cũng rất nhộn nhịp, hăng say. Ở Nguyễn Công Trứ hưởng nhàn gần như đồng nghĩa với hành lạc, tức là bày ra những trò vui để hưởng thụ về đường cảm giác. Người ta thấy trong chữ nhàn của ông tất cả mọi giai trình thú vui ấy, từ những thú vui thanh cao đến những thú vui trần tục nhất.

Thú ngao du:

Đôi ba chú tiểu đồng lếch thếch,

Tiêu dao nơi hàn cốc thâm sơn.

Thú cầm kì thi tửu:

Cầm kì thi tửu,

Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay,

Đàn năm cung réo rắt tính tình đây.

Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.

Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,

Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.

Thú bài bạc:

Nhân sinh quý thích chí,

Cuộc ăn chơi gì hơn thú tổ tôm.

Túi kinh luân xoay dọc xoay ngang,

Cơ điều đạc quân ăn quân đánh.

Thú ca nhi:

Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề,

Có yến yến hường hường mới thú.

Khi đắc ý mắt đi mày lại,

Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng.

2. Hưởng nhàn theo cơ hội và suốt cả đời

Thường đối với các nhà nho như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cầu nhàn chỉ là một thái độ khi đã về già, đã hết nhiệm vụ với vua với nước, lui về sống những ngày tàn. Đối với Nguyễn Công Trứ, qua các giai đoạn cuộc đời ông, lúc nào ta cũng thấy ông ca tụng sự hưởng nhàn, hành lạc. Ông coi nhàn hạ như một cơ hội tốt, lúc nào có thể cũng là nên bám lấy để hưởng thụ. Ông lại đặt nhiều tự hào vào chỗ biết khai thác cái nhàn, biết thưởng thức lạc thú, biết chơi.

Lúc còn hàn vi ông viết (bài Than cùng):

Chẳng lợi danh chi lại hoá hay,

Chẳng ai phiền luỵ chẳng ai rầy.

Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,

Trong thú yên hà cuộc tỉnh say.

Khi đương làm quan ông vẫn có dịp ca tụng (bài Cầm đường ngày tháng thanh nhàn):

Cầm kì thi tửu với giang sơn,

Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.

Khi về già “thoát vòng danh lợi” ông càng ưa thích:

Chuyện cổ kim so tựa bàn cờ,

Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt.

Mặc xa mã thị thành không dám biết,

Thú yên hà trời đất để riêng ta.

Có bài thơ ông mở đầu:

Tang bồng là cái nợ,

Làm trai chi sợ áng công danh.

Để đến kết luận:

Chơi cho phỉ chí tang bồng!

Hoặc có khi cùng một bài câu trên ông viết:

Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu

chuyển xuống câu dưới đã:

Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.

Do đó có thể thấy cái quan niệm hưởng nhàn cũng rất quan trọng trong tư tưởng Nguyễn Công Trứ ngang với cái chí nam nhi vẫy vùng. Mặc dầu hai khuynh hướng ấy có vẻ đối lập và gây ra như một mâu thuẫn trong tâm hồn ông vậy.

Sự mâu thuẫn ấy ta đã giải thích ở trên khi phân tích những khuynh hướng của thời đại và con người. Ngay lúc còn thiếu niên, một mặt giáo dục nghiêm khắc của cha, ý thức kiêu hãnh về dòng dõi và giai cấp, ý chí vươn lên đóng một vai trò cho thoả mãn lòng tự ái, tự hào, tất cả dưới ánh sáng của lí trí thúc đẩy ông nhảy ra trường tranh đấu. Mặt khác, cái buồn của thất thế, cái khổ của vận cùng đeo đuổi quá nửa đời người, nếp sống phóng túng dật lạc của một thời loạn tất cả đẩy ông sang khuynh hướng tiêu cực xây dựng lại xã hội để khai thác tất cả những thú vui của đời ngoài vòng cương toả. Bản chất khoẻ, nặng dục vọng của ông càng làm cho mâu thuẫn ấy thêm rõ, bởi vì tuỳ lúc nó lôi cuốn ông đi hướng này mạnh mà hướng kia cũng mạnh ngang.

Tuy nhiên ở đây ta cũng cần nhận xét thêm. Thật ra thì tình trạng mâu thuẫn tâm lí ấy không phải không tiến triển dọc theo cuộc đời ông. Thuở hàn vi ông hưởng nhàn, lí trí ông khuyến khích vì cho rằng chỉ là một sự tạm thời, một phương thuốc để đỡ nóng lòng chờ đợi công danh. Thời ra làm quan hoạt động vất vả, ông tìm cơ hội hành lạc để giải lao: lí trí ông tha thứ. Sau càng hoạt động càng gặp nỗi trắc trở đau lòng, lí tưởng công danh nhiều lúc mất cả ý nghĩa, ông hành lạc để quên đời: lí trí ông đồng loã. Sau hết đến lúc ông về hưu, ra khỏi một trường ác mộng, ông bám lấy nhàn lạc như một lẽ sống duy nhất của tuổi già: lí trí ông đầu hàng. Tư tưởng hưởng nhàn và hành lạc như vậy ngày thêm phát triển và tiến tới trở thành một cột trụ vững vàng trong chủ nghĩa nhân sinh của ông.

V. TìNH CẢM LãNG MẠN

Cũng trong đời sống tình cảm của Nguyễn Công Trứ, bên cạnh sự hưởng nhàn và hành lạc, có khi ngay trong sự nhàn lạc ấy, ta còn thấy một khía cạnh rất đậm đà sôi nổi. Tác giả than thở, rên xiết, mơ màng, quanh những đề tài trữ tình quen thuộc với thi văn lãng mạn như ái tình, sự chán đời, sự rung động trước thiên nhiên. Đây cũng là một phần đặc sắc trong con người và văn chương ông.

1. Cái luỵ tình

Tình ái là một mối hệ luỵ lớn với Nguyễn Công Trứ. Đời tư của ông thật lắm những cuộc gặp gỡ trăng hoa, từ thuở niên thiếu câu chuyện “giang sơn một gánh giữa đồng” với ả đào Hiệu Thư, cho đến khi về già 73 tuổi còn cưới một nàng hầu. Sống ở một thời mà tình yêu phải đi đến hôn nhân và chế độ đa thê được công nhận, ông đã chứng tỏ khía cạnh đa tình của mình bằng một nét tiểu sử hy hữu: Gia phả ghi trước sau ông có đến 14 vợ. Cuộc sống thật phóng túng. Lúc nào ông cũng có thể mê tít cô đầu. Lúc nào ông cũng có thể tính chuyện “Châu Trần” với “giang sơn”:

Liễu hoa vừa gặp chúa xuân,

Châu Trần này có Châu Trần nào hơn?

Anh hùng hà xứ bất giang sơn?

Tuy nhiên nếu chỉ có vấn đề tình dục thì tất nhiên chẳng đủ tạo nên nhà thơ lãng mạn; chẳng đáng ta xét đến ở đây. Điểm đặc biệt là con người ông đã đi vào tình yêu với một cảm quan dồi dào, và những rung cảm của ông trong địa hạt yêu đương, ông biết ghi lại bằng những lời thơ rất chân thành. Ví dụ đây mối tương tư:

Khi đứng khi ngồi khi nói chuyện,

Lúc say lúc tỉnh lúc chiêm bao

Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,

Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.

Và đây, một mối tương tư khác nữa:

Trót đa mang khúc hát cung đàn,

Nên dan díu mối tình không dứt.

Xá nghĩ xa xôi ngàn dặm đất,

Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời.

Khi ra vào tiếng nói giọng cười,

Một ngày cũng là người tri kỉ.

Sao nỡ để kẻ vui người tẻ,

Gánh tương tư riêng nặng bề bề.

Thương thay người ở đôi quê,

Nẻo đi thì nhớ nẻo về thì thương!

Không nghi ngờ, ông đã do mục đích hành lạc mà tìm vào tình ái, song ở đó ông đã hiếm thấy cái vui, thường thấy cái sầu. Mối sầu tình, ông hát lên với một giọng thật não nề:

Sầu ai lấp cả vòm trời,

Biết chăng chăng biết hỡi người tình chung?

Xuân sầu mang mang tắc thiên địa,

Giống ở đâu vô ảnh vô hình.

Cứ tò mò quanh quẩn bên mình,

Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng.

Hỏi trăng gió, gió trăng hờ hững,

Ngắm cỏ hoa, hoa cỏ ngậm ngùi...

2. Mối sầu nhân thế

Trong những bài hát khác, cũng thường nhân những dịp hành lạc, ông tỏ ý bi quan yếm thế, ông chán đời không phải vì thế thái nhân tình, vì thói bạc ác của một số người, mà vì đào sâu ý nghĩa cuộc sống, ông thấy nó thật vô nghĩa. Kíếp người ngắn ngủi:

Kể chi thằng lên bảy đứa lên năm,

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy chốc.

Thế mà còn bày ra bao chuyện lợi danh, vinh nhục, bi hoan, để làm con rối cho ông tạo hoá đa đoan. Nhân sinh đầy hư ảo, chẳng còn biết bám víu vào cái gì để làm lẽ sống:

Ôi nhân sinh là thế ấy,

Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.

Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,

Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín,

Vận thái mặc cùng văn biến huyễn,

Thề đồ vô lự thuỷ doanh hư.

Cái hình hài đã chắc thiệt chưa,

Mà lẽo đẽo khóc sầu mãi rứa?

Trời đất nhẽ có hình thì có hoại,

Ỷ chi chi mà chắc chắn chi chi...

Tác giả khuyên thế nhân trước cuộc đời hư ảo như vậy, chẳng nên sầu hận vô ích, nên vội vã “làm vui”, tìm sự quên lãng trong men rượu, trong tiếng đàn. Nhưng:

Tuý tự tuý đảo sầu tự sầu

Giữa nhịp phách cung đàn, cái sầu vạn cổ vẫn cứ hiện ra:

Bóng trăng thu thấp thoáng trên thuyền

Tiếng tỳ bà ai khéo gảy nên?

Xui lòng khách thiên thai luống những...

Ai oán nhẽ bốn dây văng vẳng.

3. Lòng cảm thiên nhiên

Con người giàu tình cảm ấy cũng hay tìm đến cảnh sắc thiên nhiên. Có khi chỉ là kéo thiên nhiên vào làm khung cảnh, làm chứng hoặc để cảm thông những mối tình của mình. Như thương nhớ ngậm ngùi, ông đi ngắm trăng hỏi gió. Ở chỗ khác, ông đem tâm hồn thanh thản hơn để thưởng thức sự thay đổi hình sắc trong bức tranh của tạo vật bốn mùa. Ông có bốn bài hát vịnh bốn mùa rất đặc sắc. Xin dẫn bài Vịnh mùa thu sau đây:

Trời thu phảng phất gió chiều,

Mây về Ngàn Hống, buồm treo ráng vàng.

Sang thu tiết hơi may hiu hắt,

Cụm sen già lã chã phai hương.

Sương gieo giậu cúc đoá hoa vàng,

Son nhuốm non đào cành lá đỏ.

Lãnh vũ như ty trùng chức dạ,

Tình thiên tác chỉ nhạn thư không.

Phút đâu đâu một trận hảo phong,

Trên cung Quảng xa đưa hương quế.

Trời biêng biếc nước xanh xanh một vẻ,

Khen hoá công khéo vẽ nên đồ,

Một năm được mấy mùa thu.

Mặc dầu ảnh hưởng Hán học còn khá nặng, song tác giả đã ra khỏi cái lề lối “vịnh cảnh thiên về triết lí” của nho gia xưa (như các bài vịnh của Hoàng Sĩ Khải, Trịnh Sâm). Ông để cho tình cảm thành thật rung động trước những đường nét, sắc thái của thiên nhiên và kết lại bằng một xúc động thán phục bàn tay nghệ sĩ của hoá công. Đặc biệt ông có bài hát Yêu hoa như sau:

Ngồi thử ngẫm trăm hoa ai nhuốm,

Mỗi hoa riêng, riêng một sắc hương.

Khi chưa xuân khép nép bên tường,

Còn phong nhuỵ đợi đông hoàng về cáng đáng.

Liễu tía đào hường mai trắng trắng,

Lan tươi huệ tốt lí xanh xanh.

Thêm hương khi gió lá mưa cành,

Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím.

Khách thập thuý say màu hoa diễm,

Đối mặt hoa mà cầm mà kì mà tửu mà thi.

Khuyên ai đừng giở cuộc li phi,

Trân trọng lấy hương giời cho trọn vẹn.

Hoa với khách như đà có hẹn,

Ưa màu nào màu ấy là xinh,

Trăm hoa cũng bẻ một cành.

Ta thấy nhà thơ yêu hoa đây chẳng phải như ở Nguyễn Trãi, ở Lê Thánh Tông, vì hoa sen là biểu tượng cho người quân tử, hoa mai nói lên cái trong trắng của bậc hiền nhân, hoa cúc tượng trưng cho người ẩn dật. Nguyễn Công Trứ yêu hoa chỉ vì hương vì sắc của hoa, vì hoa vẽ ra dáng dấp của phái đẹp, vì hoa là sứ giả thần bí của tình yêu.

Với khía cạnh tình cảm đậm đà này của Nguyễn Công Trứ, chúng ta có thể lại thấy đặt ra đây một mâu thuẫn khác trong bản ngã của ông. Con người ấy ở một mặt thì nghiêm nghị, khắc kỉ, hùng dũng, hết sức rèn đúc ý chí, hết lời ca tụng bổn phận và sự nghiệp. Ở một mặt khác thì trái lại lẳng lơ, suồng sã, mềm yếu, buông mặc bản năng, vật dục lôi cuốn, phát ra những ý hoài nghi yếm thế, những tình uỷ mị buồn rầu. Sự mâu thuẫn này thật ra cũng chỉ là thuộc về mối mâu thuẫn đã nói trên, giữa hai khuynh hướng hoạt động và cầu nhàn, hy sinh và hưởng thụ. Khuynh hướng nhàn lạc ấy ở đây đem vào đời sống tình cảm với bản chất đa tình, nên bày ra một khía cạnh đặc biệt lãng mạn vậy.

Tuy nhiên xét kĩ thì thấy: Ông không phải là con người uỷ mị, sướt mướt, hay thả hồn vào mơ mộng, sầu não như Bà Huyện Thanh Quan hoặc Nguyễn Du. Bản chất lạc quan, thực tế, giàu lí trí vững vàng, ông không ưa tỉa vẽ những khía cạnh bi quan của cuộc đời, làm cho sự sống giảm hứng thú. Ngay về một chữ tài tình, Nguyễn Du đã từng kêu rên: Tài tình chi lắm cho trời đất ghen! Ông vỗ tay cười đáp:

Thế nhân mạc oán tài tình luỵ!

Không tài tình quang cảnh có ra chi?

Tính lãng mạn của ông cũng như sự nhàn lạc, thật ra chỉ là một khía cạnh trong cái nhân sinh quan đa diện của ông như ta có thể thấy sau đây.

VI. TRIẾT THUYẾT NHÂN SINH CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ

Thật ra ông không hề thuyết pháp, không hề mở trường giảng triết, hay viết sách dựng nên lí thuyết nọ kia. Ông chỉ sống cuộc đời mình rồi nhân từng dịp cảm nghĩ mà ghi lại trong mấy chục bài thơ, bài hát. Nhưng cuộc sống của ông thật hào hùng, tư tưởng của ông vừa phong phú vừa phức tạp, chúng ta không thể tự ngăn nổi ham muốn tìm ra ở đó một hệ thống. Qua tất cả những quan niệm nhiều khi trái ngược nhau của ông về sự hành động, về những giá trị ở đời, về con người và cuộc sống, có thể vạch ra những nét lớn nào cho một nhân sinh quan triết lí không? Ông sống lúc ngang tàng, lúc uỷ mị, lúc làm tướng quân bách chiến, lúc làm khách phong nhã si tình, khi yêu đời mê mệt, khi chán đời mênh mông, nhưng sau hết ở nơi thật ngã của ông, ông nghĩ gì về con người, về cuộc sống? Có thể tìm ra trong những quan niệm của ông một vài nguyên tắc hướng dẫn nào không? Chúng ta hãy thử ráng xem.

Trước hết chúng ta nên trở lại với bài hát rất quan trọng về Nghĩa đời người của ông:

Ba vạn sáu ngàn ngày thấm thoắt

Từ mọc răng cho đến bạc đầu

Cõi nhục vinh góp lại có bao lâu,

Ngồi thử ngẫm thợ trời thêm khéo quá.

Núi tự tại cớ sao sông bất xả,

Chim thì lông hoa thì cánh,

Công đâu tạo hoá khéo thừa trừ.

Từ nghìn xưa cho đến nghìn sau,

Kết cục lại mỗi người riêng một kiếp.

Bộ phận cốt cán của triết thuyết, tâm điểm siêu hình, chính là ở đây. Trời sinh ra vạn vật phú dữ cho mỗi vật một cái tính, một ít sở năng. Sống tức là vận dụng cái sở năng ấy. Núi đứng, sông đi, chim bay, hoa nở. Đó cũng là kiếp của mỗi vật. Con người sinh ra tài lớn, việc lớn, tài nhỏ, việc nhỏ. Người hào kiệt sở bẩm tinh anh, tú khí, tất phải xây dựng ra công nghiệp thiện mĩ. Ý này đã nói ở trên khi luận về cái “chí nam nhi” Nguyễn Công Trứ. Chúng ta đã thấy như thế nào ý ấy đưa ông đến coi công danh như một cái nợ. Không hẳn chỉ là một cái nợ. Đúng ra là một thứ hệ quả tất yếu. Con tằm không thể không nhả hết miếng tơ. Chẳng cần ép nài, người hào kiệt cũng nhảy vào trường tranh đấu để tự thực hiện. Song trời sinh ra người ta chẳng phải chỉ có vậy. Con người, cả con người hào kiệt, cũng lại còn một bầu nhân dục đòi thoả mãn. Đói đòi ăn, khát đòi uống, mở mắt ra ham sắc, mở tai ra ham danh. Đó cũng là cái tính, cái nết “đánh chết không chừa” và cái đó cũng đòi thực hiện một cách rất bách thiết. Cũng là một cái nợ vậy. Nguyễn Công Trứ hay nói đến cái nợ phong lưu, cái nợ nguyệt hoa, y như cái nợ tang bồng, cái nợ quân thần.

Như vậy, con người, theo ông, đem thân vào đời đương nhiên nhận lấy một số nợ phải trả, một số những khuynh hướng trong bản chất mình phải tự thể hiện. Quan niệm ấy khiến ông có thể không từ chối một khuynh hướng nào, chấp nhận nuôi dưỡng tất cả, lúc hoạt động lúc chơi bời, lúc làm người nam nhi ngang tàng, lúc đóng vai khách tính sầu não. Mặt khác nó khiến cho ông có thể nhìn đời và chính thân thế ông với một con mắt bình thản, tự chủ. Công danh đã là một sự tất yếu thì lúc chưa được chẳng cần nóng lòng mong đợi. Công danh đã là một cái nợ thì lúc trả rồi cũng chẳng có gì đáng để vinh vang. Sự chơi bời hoa nguyệt cũng vậy. Đã là một cái nợ thì vương vào cũng chẳng lấy làm xấu xa. Làm ông tướng múa may trước ba quân hay là làm anh ăn tục nói khoác trên chiếu rượu cũng đều là thực hiện cái tính cả, cái tính mà nhiều khi mình không muốn, mà một thợ Tạo cắc cớ đã đúc rót vào bản ngã, bắt mình cứ phải thực hiện. Người câu nệ hẹp hòi thường mỗi bước đi đứng để động tâm bởi những vấn đề phải quấy, vinh nhục, ông nghĩ rằng đời chẳng có gì quan trọng cả. Hoá nhi đã “đa hý lộng” buộc người ta làm một con rối cho những trò thăng trầm điên đảo, thì mình chỉ có cách thoát ra là coi việc đời tất cả cũng là những trò chơi thôi. Cho nên đối với ông, không phải chỉ cầm kì thi tửu mới là chơi mà công danh sự nghiệp cũng là trò chơi cả:

Ngâm cùng trăng gió vài câu kiểng,

Tính với giang sơn mấy chuyện đời.

Không chỉ du sơn thuỷ, đánh bài bạc, hát ả đào là chơi, mà vận dụng tài trí, thi thố kinh luân, dẹp giặc an dân cũng là chơi(1):

Trời đất cho ta một cái tài,

Dắt lưng dành để tháng ngày chơi,

Cái “duy chơi chủ nghĩa” ấy đưa ông đến không để vương vấn, hệ luỵ một cái gì ở đời:

Được mất dương dương người tái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Công danh, tình ái cái gì ông cũng thích cả mà bước vào hăm hở, bước ra nhẹ tênh. Đúng ra thì ông cũng công nhận những hệ luỵ ấy, cũng có những lúc ông mải miết hăng say, thiết tha đắm đuối trong những hệ luỵ ấy. Song đó chỉ là phần con người “nhập thế” tù hãm trong những dục vọng, trong cái tính đúc nặn bởi tạo hoá thôi. Trên con người ấy, ông tự tạo lấy một con người tư duy ngoại cuộc, thanh thản độc lập. Ông cho rằng sống tức là vùng vẫy cho sạch những dục vọng ấy, thực hiện cho hết cái thiên tính ấy, và chừng nào (có lẽ phải là lúc đường đời đi trọn) con người nhập thế giũ sạch những hệ luỵ ấy, cũng là lúc nó bay lên hợp nhất với con người tư duy mà hát bài ca giải phóng. Lối sống “tuỳ dục, tuỳ tính” ấy thật là đa dạng và ngang tàng. Người đời không hiểu nổi, ông bảo cho biết:

Linh khâm bảo hợp thái hoà,

Sạch không trần luỵ ấy là thần tiên,

Ngang tàng lạc ngã tính thiên.

Đi tìm nguồn gốc của chủ nghĩa nhân sinh ấy, người ta có thể nghĩ đến trước hết những vết tích học thuyết. Trước là Nho học, rõ hơn cái học tính lí của Trình - Chu. Ông đưa vào nhiều bài hát cả từng câu nguyên văn của Trình Hiệu. Những nhân vật tiên giới như Hoàng Thạch, Xích Tùng, hoặc bán Nho, bán Lão như Trương Lương, Trần Đoàn đều cảm ông sâu xa với cái phong thái thung dung ngoại vật của họ. Cả đạo Phật cũng được ông dung nạp, ông cho rằng “chữ kiến tính cũng là suất tính” và cái ý con người ta đeo một cái nghiệp - nghiệp công danh cũng như nghiệp tình ái - đòi phải thực hiện có gì quá quen thuộc với bên nhà Phật. Có lẽ quan niệm của ông khởi nguồn cũng không ở ngoài tư tưởng tam giáo.

Song xét cho kĩ thời cái nên đánh giá trong quan niệm ấy không phải là ở phần tri thức, sự tinh vi hay độc đáo của một lí thuyết mà là ở phần thực hành sự thành thật của một thái độ. Ông không giảng đạo hoặc dựng triết thuyết, ông chỉ đưa ra một thái độ sống, theo chính lời ông “Không Phật không Tiên không vướng tục”. Thái độ ấy rõ rệt hơn bắt nguồn ở những kinh nghiệm của cuộc đời ông. Để hiểu nó ta không thể không trở lại nhìn qua cuộc đời ấy. Từ niên thiếu sống trong một xã hội loạn li, đổ vỡ, ông đã chịu sự giằng co giữa đạo lí nghiêm nghị gia đình và tiếng gọi bách thiết của vật dục, giữa sự thôi thúc của ý chí xây dựng sự nghiệp và sự lôi cuốn của bản năng hưởng thụ dễ dàng. Lớn lên, con đường khoa cử lận đận, rồi những bước công danh vất vả, phải nếm những tủi nhục thất bại và truất giáng, ông không khỏi suy nghĩ mông lung, một mặt về những mồi bả mà người ta đưa ra để cho ông phải khổ sở điêu linh, một mặt về những sự nhàn lạc tình ái đối với ông chứa chan hương vị, mà luân lí, dư luận vẫn ra chiều không dung. Ông đã đi đến một quan niệm giúp ông đánh giá đúng mồi bả công danh và kiếm một chỗ ngồi hợp lí cho nhàn lạc tình ái. Cũng giúp cho ông có thể đàn áp được cảnh ngộ, thoả mãn mọi khuynh hướng trong con người ông và vươn lên tự do tự chủ hoàn toàn.

Cũng nên nhận xét thêm, để kết luận, rằng chủ nghĩa ấy có gì thật phi thường mà hấp dẫn. Về lí thuyết, nó coi con người như bị tù hãm trong một số dữ kiện tiên thiên và trách vụ xã hội - và như vậy chỉ còn đặt cứu cánh ở thể hiện bản chất mình, tìm đường đi ở tuân theo định mệnh mình - song lại bày cho sự giải phóng bằng cách siêu lên một thái độ ý thức và khách quan. Về thực hành, nó đưa đến một nếp sống nhằm thoả mãn mọi khuynh hướng, dốc cạn mọi dục vọng, luôn luôn tuỳ ngộ, tuỳ thích, luôn luôn mãnh liệt căng thẳng.

Hội cả lí thuyết và thực hành, đứng từ quan điểm xã hội mà nhìn thì lại thấy là một chủ nghĩa vô cùng vị tha, đặt con người nhập thế trước những nợ xã hội không thể nào không trả đền. Nhưng từ quan điểm cá nhân thì lại là một chủ nghĩa vô cùng vị kỉ, hoạt động là để chiều theo cái bản chất của mình, để tìm cái vui cho cảm giác và tự ái mình tức là vì mình trên hết. Tất nhiên, chủ nghĩa ấy, nhất là nếp sống ấy không phải để hiến cho mọi người. Tác giả đạt tới sự thăng bằng, nhưng là một thăng bằng khó khăn, “ngất ngưởng”, chơi vơi giữa những cường lực trái ngược, làm chóng mặt người ta.

VII - VĂN CHƯƠng NGUYỄN CÔNG TRỨ

1. Nhận xét chung

Nói chung Nguyễn Công Trứ là một nho gia đã có khuynh hướng đặc biệt về văn Nôm. Thi văn chữ Hán của ông lưu lại nay không thấy có gì cả. Nhưng phần Việt văn thật là quan trọng. Số lượng dồi dào, thể cách đa tạp. Cuốn biên khảo của Lê Thước về Nguyễn Công Trứ ghi tất cả 52 bài thơ, 63 bài hát nói, 1 bài phú, 2 tuồng hát và nhiều câu đối. Những văn phẩm ấy ông đã làm ra tuỳ hứng dọc cuộc đời ông. Vài bài có thể nhận ra hoàn cảnh sáng tác (Gánh gạo đưa chồng, Hoạn thứ cảm tác, Con tạo ghét ghen,...). Song đa số những bài ngâm vịnh thời điểm không được rõ lắm. Tuy nhiên, văn Nôm ông không thuộc về thời Lê mạt, mặc dầu ông có sống những năm thiếu niên dưới thời này. Ngay cả những bài than thở vận cùng, nhà nghèo cũng là sang Nguyễn mới làm ra cả. Người ta có thể nhận ra điều đó bởi cái giọng điệu lạc quan tin tưởng của người nho sĩ đã tìm ra hướng đi, bởi nói chung lời văn, câu văn không xa xưa như ở các tác giả Lê mạt, mà trái lại rất mới, rất gần đây. Trong nhiều bài thơ và hát nói của ông, lại có nhắc đến cả sự tích Truyện Kiều (như bài: Trách tình nhân làm ra chắc vào khi chưa ra làm quan, có câu: “Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng - Mà đó đà mang nợ Thuý Kiều”) hoặc dùng văn liệu Kiều, lẩy hoặc tập cả từng câu, như “Tính sao cho vẹn trăm đường” (Bài ca từ biệt), “Yêu nhau khăng khít dải đồng” (Gánh gạo đưa chồng), “Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên” (Duyên gặp gỡ), “Ai dư nước mắt khóc giàu sang” (Tự thuật), “Nghề chơi cũng lắm công phu(Chơi xuân kẻo hết xuân đi),... tất cả chứng tỏ văn chương ông đã phần nào chịu ảnh hưởng văn Đoạn trường tân thanh. Có thể nói gần cả văn nghiệp của ông đã viết ra về đời Nguyễn, rõ rệt hơn vào khoảng 1813 - 1853. Năm 1813, ông đậu tú tài, đó là cái ơn mưa móc mà ông nói đến trong bài Than cùng (cũng năm đó Nguyễn Du đi sứ Tàu về). Năm 1853 ông ra chơi Tiền Hải về, bị triều đình xử ức, mới làm bài Con tạo ghét ghen, đó có lẽ là một trong những bài văn cuối cùng của ông vậy. Như vậy trong văn học triều Nguyễn, những sáng tác của ông đã đặt ông (mặc dầu tuổi ông có cao hơn) đồng thời với Bà Huyện Thanh Quan, với Nguyễn Quý Tân, Cao Bá Quát. Tóm lại đứng vào nửa đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Công Trứ có kinh nghiệm rất giàu, tư tưởng rất chín nhưng văn chương rất trẻ, rất mới.

Thi văn của ông gồm có trước hết một phần thi phú cổ truyền sau một phần quan trọng ca trù, một thể loại mới mẻ chưa từng gặp ở các nhà văn đã nghiên cứu về đời Lê mạt hoặc Nguyễn sơ. Dưới đây ta hãy điểm qua các loại ấy và nhìn xem một vài cốt tính trong mỗi loại.

2. Thơ luật

Như đã nói trên, người ta còn sao được 52 bài thơ luật của Nguyễn Công Trứ. Thể cách biến đổi, bác tạp: lối bát cú, lối tứ tuyệt, lối liên hoàn, lối yết hậu. Có bốn bài liên hoàn nổi tiếng thường gọi là Than cùng hay Than nghèo. Những bài tứ tuyệt thường có tính cách khẩu chiến, ứng đối bỡn cợt. Như bài Than bạc:

Ngày xuân thong thả tính thừa cơ,

Thấy chúng chăn trâu đánh cũng ưa.

Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy,

Bỗng chốc nên quan đã sướng chưa.

Cái bài yết hậu cũng vậy. Đây để làm ví dụ về một lối thơ của Nguyễn Công Trứ mà ít người biết đến, bài Đánh tổ tôm:

Tổ tôm tên chữ gọi hà sào,

Đánh thì không thấp cũng không cao.

Được thời vơ cả, thua thời chạy,

Nào!

Song phần chính yếu thơ của ông là những bài bát cú. Cũng có thể phân ra đủ loại thơ vịnh vật, vịnh cảnh, hoặc đeo cái sáo “khẩu khí” như vịnh cây cau, cái trống. Trích bốn câu trong bài Vịnh cây cau:

Ơn chúa vun trồng kể xiết bao,

Càng ngày càng một rán lên cao.

Lưng đeo đai bạc sương không nhuộm,

Đầu đội tàn xanh nắng chẳng vào.

Thật là đúng đường lối khẩu khí Lê Thánh Tông! Hoặc với một chủ ý châm biếm phúng thích như: vịnh cây vông, vịnh nhà thờ thất hoả. Nhiều bài đề vịnh nhân một vụ việc, một cảnh ngộ của tác giả thường có tính cách hoặc thuật chí hoặc tả tình: Than nghèo, Thơ tết, Đi thi tự vịnh, Tương tư, Bỏ vợ cảm tác,... Sau hết có nhiều bài về thế thái nhân tình, có tính cách giáo huấn, làm ta nghĩ đến những bài đề tài tương tự của Nguyễn Trãi hoặc Nguyễn Bỉnh Khiêm xưa.

Về kĩ thuật thì thơ luật Nguyễn Công Trứ có đặc tính là dễ dãi nôm na, vần xê xích thế nào cũng được. Đối qua loa thế nào cũng xong. Không gò ép về quy luật, chỉ cần ý lấy thông đạt. Nhất là lời văn, chữ dùng đôi khi thật rất nôm na, thông tục. Ông dùng rộng rãi tục ngữ, cả tiếng địa phương: răng, rứa, mô, chừ. Giọng văn mạnh mẽ ngang tàng, ở vài bài chủ ý phúng thích, đi đến chỗ trắng trợn tàn nhẫn. Như bài Cách ở đời:

Đã gớm hôi tay chù chẳng bắt,

Những e liếm mặt chó không trêu.

Ở những bài thơ tình cảm ông cũng có một giọng trữ tình thật là đặc biệt, như gởi cho tình nhân:

Tao ở nhà tao tao nhớ mi,

Nhớ mi nên phải bước chân đi.

Người vừa đọc thơ Xuân Hương, Thanh Quan yêu những lời thanh tao tuyệt nhã của Bà Huyện hoặc những câu bóng bẩy ý nhị của họ Hồ, đọc đến thơ luật của Nguyễn Công Trứ cảm thấy thật là vô vị. Nghệ thuật vừa rẻ vừa thấp. Âm điệu kém êm ái, chữ dùng xô bồ. Toàn một giọng thất tế trắng trợn. Thơ Nguyễn Công Trứ thiên về lí trí. Cả những bài tình cảm của ông cũng thường nghiêng về trào lộng. Lại không phải cái trào lộng mềm mại duyên dáng của Hồ Xuân Hương mà là một cái trào lộng cục cằn, bộc tuệch, kém thi vị.

3. Phú

Nguyễn Công Trứ để lại một bài phú nổi tiếng: Hàn nho phong vị phú làm theo thể Đường phú, độc vận (vần khó), 36 liên (liên chót hình như có chỗ thiếu sót trong các bản hiện lưu hành). Trở lại về trước ta thấy thể phú đã có từ đời Mạc và đến đời Trịnh bày ra hai lối: lối đứng đắn có tính cách giáo huấn, dùng nhiều chữ và điển kinh sách, lối chơi có tính cách trào lộng, dùng nhiều thành ngữ tục ngữ nôm na. Bài phú của Nguyễn Công Trứ thuộc về loại thứ hai. Nó vừa trào lộng vừa hiện thực. Tác giả sử dụng rất dồi dào tục ngữ, ngạn ngữ. Văn thuật tả gợi hình, xác thực: “Vỗ bụng rau bình bịch... an giấc ngáy kho kho... pha mùi chát chát chua chua... buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ...”.

Cái bức tranh nghèo của tác giả đây gợi ta nghĩ đến nhiều bức tranh nghèo khác của các bậc ẩn sĩ hàn nho về trước. Cùng gặp cảnh nghèo mà Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng ung dung tự tại, bối cảnh sinh hoạt của họ có một màu thanh thoát lí tưởng. Cái nghèo của họ có thi vị. Với Nguyễn Công Trứ, cái nghèo đi vào những hình vật phàm tục, những đường nét thiết thực bẩn thỉu: “Lợn gặm máng... chuột khua niêu... áo vải thô nặng trịch... khăn lau giắt đỏ lòm...”. Chúng ta nghĩ đến bức tranh nghèo dưới con mắt Chuột đực trong Trinh thử.

Ngòi bút hiện thực của Nguyễn Công Trứ ở đây khá sắc sảo. Bức tranh sinh hoạt vật chất ở nửa trên bài là cả một mớ tài liệu xác thực về phong tục xã hội, cách ăn, ở, mặc, chơi của người Việt trung lưu về đầu thế kỉ thứ XIX. Mà tác giả không phải không biết lựa chọn cho cái chủ đích của ông. Có nhà phê bình cho rằng chỉ một vị “cà non mướp luộc” cũng đủ nói lên tất cả cái phong vị nghèo: Cà phải để già mà muối, cà non đã vội ngắt nấu ăn vừa nhạt vừa ngán. Đến mướp là để nấu canh, canh cá canh thịt. Nay thịt cá không có đem luộc mà ăn, ai có nếm qua vị đó mới thấy nó vô vị đến thế nào. Một đạo sĩ tịch cốc, một thầy chùa thụ trai có thể ăn ngon mướp luộc. Nhưng đối với Nguyễn Công Trứ mơ đến chung đỉnh thấy lỗ mũi phập phồng thì mướp luộc không thể nào nuốt trôi được. Ông phải chép miệng mà kêu lên: “Ngon khéo là ngon!”. Nói chung thì ta thấy bức tranh đầy chi tiết xác thực, ý nghĩa hứng thú. Bài phú của Nguyễn Công Trứ rất có giá trị. Ngòi bút hiện thực sở trường của ông không được thoải mái trong bài thơ luật vắn vỏi đã tìm thấy ở đây một hình thức rộng rãi để vẫy vùng.

4. Hát nói

Ngày nay còn sao lục được tất cả 63 bài hát nói của Nguyễn Công Trứ. Ông dùng thể thơ này một cách rất rộng rãi, cho đủ mọi đề tài: thuật chí (những bài về chí nam nhi), tả tình (những bài về nhàn lạc tình ái), lại còn vịnh cảnh (vịnh Hà Nội, vịnh Tây Hồ, vịnh bốn mùa), vịnh người (những nhân vật trong sử hay trong truyện: Trương Lương, Trần Đoàn, Khuất Nguyên, Nam Xương liệt nữ, Thuý Kiều), vịnh văn (những áng văn nổi danh: Tiền Xích Bích, Hậu Xích Bích phú của Tô Đông Pha, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị), vịnh vật, vịnh việc (vịnh tiền, vịnh hoa, tổ tôm, say rượu). Có những bài có giá trị một áng hồi kí (Ngất ngưởng, Con tạo ghét ghen). Sau hết có những bài đề vịnh mà vấn đề đặt ra cao xa như ý nghĩa đời người, luận về kẻ sĩ, về đạo Phật, v.v…, có thể coi như những áng văn nghị luận luân lí hoặc triết lí vậy.

Xét về thể cách thì những bài hát nói trên của ông cũng rất biến đổi trong hình dạng. Bài đủ khổ, bài dôi khổ (như bài Kẻ sĩ tất cả có đến 31 câu) Bài có mưỡu đầu, bài có mưỡu hậu, bài kiêm cả hai thứ mưỡu. Lại có bài như bài Vịnh Nam Xương liệt nữ (như bản chép trong Lê Thước) câu chót có đến tám chữ (“Dẫu tình ngay song lí cũng là gian”), như vậy tức là xuất cách so với lối hát nói (câu chót gọi là câu keo chỉ có sáu chữ).

Đọc phần hát nói của Nguyễn Công Trứ ta thấy mới chính là thể văn thích hợp với ông. Cây bút của ông tìm ra ở đây những điều kiện thuận tiện để vẫy vùng hơn ở các thể trên. Thật vậy:

1. Bài hát nói có kích thước dài rộng và co dãn. Bản chất dồi dào phóng túng của ông bị bó buộc quá trong cái khuôn khắc khổ của Đường luật. Ở đây ý tưởng của ông có thể tuỳ hứng trải ra ngắn dài rộng hẹp, một cách tự do. Nhất là thơ Đường là thứ thơ nhằm dẫn khởi hơn là nói thẳng. Ông, ông ưa nói “huỵch toẹt” ra ráo. Thơ Đường của ông nông cạn vô vị. Ông muốn biện bác lí luận, cần phải nói nhiều lời.

2. Bài hát nói cũng có âm điệu biến đổi hơn, và như vậy cũng thích hợp với cái khuynh hướng ngang tàng của ông. Đọc lắm bài ta thấy ông đưa điệu thơ cũng như cách gieo vần đến những khúc quanh thật là bất ngờ. Tiết điệu lúc dồn dập lúc thư thả, câu văn lúc thu lại vắn vỏi lúc trải ra rộng rãi miên man. Vần thì lúc ràng rịt dưới trên, yêu có cước có, lúc đểnh đoảng rời rạc, trúc trắc nhọc nhằn.

3. Ông chịu ảnh hưởng của hát ả đào, một thú chơi mà ông đam mê ngay từ thời niên thiếu. Những bài hát nói làm ra là để cho ả đào hát trong những cuộc trình diễn ca trù để hiến vui cho khách làng chơi. Ông mê cô đầu, thích đi hát cho nên càng thích sáng tác hát nói. Tuy những bài hát ở các nhà hát thường chỉ diễn tả những tình cảm nhàn lạc. Song có lẽ vì quen thuộc một thể thơ yêu mến nên ông mở rộng ra cho mọi đề tài đề vịnh, nghị luận.

Xét về giá trị văn chương phần văn hát nói của Nguyễn Công Trứ ta thấy:

1. Nếu đem so sánh văn hát nói của ông với nhà khác đồng thời, nhất là Cao Bá Quát, ta thấy có những chỗ kém cỏi: Ông dùng chữ cẩu thả, đặt câu lôi thôi. Ở đây cũng như ở thơ luật, văn ông chỉ cốt đạt ý, không cần trau chuốt mài gọt. Sự trùng điệp, sự nhàm thường cho đến xuất vận lạc, vận đối với ông không đáng để ý. Có bài đọc thấy trúc trắc khó khăn, ta có cảm tưởng ông lùa chữ đi như thể kéo rào ngược vậy. Một đoạn làm ví dụ về cái văn phong ấy:

Chuồn đội mũ mượn mầu đạo đức,

Thịt hay ăn một cục tham si.

Gác thảy thảy là cầm, là kì, là tửu, là thi...

Rất đỗi y quần chi hạ,

Bất tri hữu thử trần mĩ giả.

Ối trời đất người đâu người thế!

Mấy trăm năm là mấy trăm năm!

Từ ngữ của ông kém lọc lựa mà ngay ở những bài êm xuôi nhất cũng không có giá trị khêu gợi mới mẻ. Đọc văn ông người ta không hề thấy những chắp ghép tân kì, những chuyển dụng tài tình, những lối nói viết đặc sắc đã đánh dấu Nguyễn Du, Xuân Hương, Thanh Quan. Nguyễn Công Trứ dùng chữ sẵn, Hán cũng như Nôm, lại thường là chữ sẵn nhàm thường mòn vẹt. Nói chung ngữ vựng của ông thiếu yếu tố phát kiến, sáng tạo.

2. Cái người ta thường ca tụng ở văn hát nói ông là tính cách hùng tráng lôi cuốn của nhiều bài nói về chí nam nhi. Như bài:

Vòm trời đất dọc ngang ngang dọc,

Nợ tang bồng vay trả trả vay.

Chí làm trai nam bắc đông tây,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể...

Lời văn mạnh mẽ, âm điệu rộn rã, ý nghĩa hào hùng. Đó chính là đặc sắc của Nguyễn Công Trứ. Song những bài toàn bích như trên thật hiếm có Nhiều bài khác về chí nam nhi thường chỉ nhắc lại mãi đến chán tai những danh từ công danh, vùng vẫy, ngang tàng, phỉ chí,... Văn kêu mà thiếu thâm trầm. Những bài hát tình cảm của ông cũng có đôi bài quyến rũ người ta bởi cái giọng điệu tha thiết (như bài Tương tư, Chán lợi danh,...). Song đọc kĩ thì thấy cũng không phải cái tha thiết tiềm tàng thâm trầm có thể quyến rũ lâu dài. Chỉ là một cái tha thiết nóng hổi, cũng nhất thời như tiếng gọi ồn ào nhập thế của ông vậy.

3. Nói chung ở hát nói cũng như ở thơ luật, Nguyễn Công Trứ không có chiều hướng siêu thoát của một thi nhân. Tuy thể hát nói đối với ông thích hợp hơn khiến ông diễn tả được một cách khoái hoạt những tình ý dồi dào trong lòng, nhưng ông không sành nghề thơ. Bản chất ông phác thực, mạnh mẽ. Ông là con người của lí trí, của hành động, không phải của mơ mộng, của nghệ thuật. Đọc văn ông ta ít thấy cái “ý tại ngôn ngoại”, cái bay bổng vô hình (immatérialité) của thi ca thuần tuý. Thường chỉ là một sự chắp vần khá dung tục.

VIII - TìM HIỂU BàI HáT NóI

1. Lối hát ả đào

Hát ả đào là một lối hát mà ca nữ gọi là đào nương hay ả đào hay cô đầu vừa hát vừa gõ bằng hai que gỗ gọi là phách lên một sênh cũng bằng gỗ để làm nhịp, bên cạnh một người kép gầy đàn theo, và trước mặt một ông quan viên đánh những tiếng trống nhỏ để điểm vào. Tiếng hát, tiếng phách, tiếng đàn và tiếng trống cầm chầu phải ăn nhịp với nhau theo những luật tắc riêng về tiết điệu. Lối hát ấy mà ta còn thấy rất thịnh hành ở nước ta hồi đầu thế kỉ này đã phát sinh từ bao giờ? Tuy cũng đã có nhiều nhà để ý nghiên cứu, song vấn đề nguồn gốc hát ả đào còn đầy mù mờ.

Theo một truyền thuyết thì lối ấy gốc từ Thanh Hoá, do một vị công chúa tên là Bạch Hoa nghĩ chế ra âm luật và cách bộ. Cho nên con hát thường kiêng chữ bạch đọc là biệc, chữ hoa đọc là huê. Song chế ra từ đời nào và bởi nguyên do gì thì không ai biết. Lại theo trong Công dư tiệp kí có chép câu chuyện về đời Hồ, giặc Minh chiếm đóng nước ta, có người con gái ở làng Đào Xá (huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên) có sắc đẹp, có tài ca hát, thường quyến rũ bọn sĩ quan Tàu để sát hại ngầm chúng. Giặc Minh đi rồi, người ta phục can đảm của nàng và nhớ ơn nàng nữa nên gọi thôn nàng ở là thôn Ả Đào. Phải chăng vì thế mà những người con gái làm nghề xướng ca về sau đều gọi là ả đào, đào nương?

Những thuyết trên kia đầy tính chất viển vông hoang đường và thật ra không giải thích được gì cả. Chỉ biết hát ả đào nằm trong ca nhạc cổ, và muốn tìm ra manh mối ắt phải nghiên cứu bộ môn nghệ thuật ấy của ta xưa. Song ở đây lịch sử cũng rất mờ mịt. Chỉ biết đời Trần chúng ta đã có lối hát tuồng (học được của người Tàu) và trong cung vua cũng như phủ đệ các vương hầu thường có những đội nữ nhạc múa hát để hiến vui. Đến đời Lê, vua Lê Thánh Tông sai kê cứu âm nhạc nước Tàu, áp dụng vào quốc âm ta, đặt ra hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc để dùng ở triều đình những khi cúng tế hoặc yến ẩm. Lại đặt cả chức quan Thái thường để trông coi. Vua lại để ý đến cả nền ca nhạc ở chỗ dân gian, sai đặt ra những giáo phường để trông nom và muốn ngăn cách không cho hai nền ca nhạc ấy (dã nhạc và triều nhạc) lẫn lộn. Song đến khi nhà Lê suy rồi mất ngôi thì hai ngành ấy hỗn tạp cả không còn có thể thống quy tắc ra sao nữa. Mấy họ phân tranh đất nước loạn lạc, lễ nghi nghệ thuật mai một cả. Mãi đến khi họ Trịnh đứng vững được ở miền Bắc, suy tôn nhà Lê lên ngôi Trung hưng người ta mới nghĩ đến phục hưng lại.

Cứ theo Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút, ca nhạc thời này tuy có phục hưng lại xoang điệu cũ mà ba láp, tạp nham cả, bởi vì thất truyền hết. Mặc dầu vậy, người ta cũng đi đến chế ra một nghệ thuật trình diễn ca nhạc tinh luyện. Trịnh Giang, Trịnh Sâm đều rất ham mê thanh sắc. Chúa cưới cả ca nhi, phong làm vương phi (trường hợp nàng Phùng Ngọc Đài). Sự ham mê ấy truyền ra giới quyền quý quan lại, gây thành hẳn một phong trào. Nhà quan Tham tụng Nguyễn Khản không mấy lúc vắng tiếng hát đào nương, bọn vương tôn công tử đua nhau học tập. Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút ghi lại cái phong trào ham mê hát xướng ấy của thời ông (thời Cảnh Hưng) như sau: “Có người thích chơi âm nhạc lại phải học theo bọn ca công, bọn ấy đắc chí bịa đặt ra sự kì quái để hãi nạt người nghe. Ta thường thấy các con nhà tấn thân phải dịu lời hoà sắc để ton hót kẻ ca công hèn mạt, cầu học cái giọng hát, bắt chước cái điệu bộ đi đứng của nó để khoe với chúng bạn, khiến cho những kẻ ôm đàn gõ phách vẫn hầu rượu xưa nay dám công nhiên nhạo báng cả người trên tiệc hát”.

Ta thấy ca nhạc bành trướng như thế nào về đời Lê mạt và cứ theo những chữ “ôm đàn, gõ phách, hầu rượu”, đủ thấy lối hát ả đào của ta sau này tất đã bắt nguồn trong lối hát ưa chuộng đời ấy. Có thể giả thiết rằng những cuộc trình diễn ca nhạc ở đền vua hay phủ chúa có kép gảy đàn, có đào múa hát, có vua chúa hoặc đại diện đánh trống chầu để ban thưởng (mỗi khi ban thưởng đánh một tiếng trống đặc biệt người ta có một cái thẻ - chữ Hán là trù - để ghi lại). Do đó có danh từ ca trù, đã đưa đến lối hát ả đào về sau. Đưa đến bằng cách nào? Bằng hai phương thức, một là bình dân hoá, hai là giản dị hoá.

- Bình dân hoá: Mới đầu hát ở đền vua phủ chúa (hát cửa quyền) sau truyền ra dinh quan (hát nhà tơ), sau xuống làng xã nơi đình miếu mỗi khi hội hè (hát cửa đình), sau hết lui vào tư gia, hát cho sự thưởng thức của một vài văn hữu thi nhân.

- Giản dị hoá: Hát ở đền ở phủ thì phải thành đội đông đảo, âm nhạc dồi dào, áo quần lộng lẫy, ca vũ lắm kiểu. Xuống đến dinh quan, về đến cửa đình, thì rút ít số người cũng như giảm bớt thể cách. Về đến tư gia thì thu lại những thành phần thiết yếu: một đào vừa hát vừa gõ phách, một kép gẩy đàn. Ca nữ có thể là những gái thôn quê mộc mạc, không điểm trang phấn sức, chỉ cần luyện tập giọng hát và khổ phách. Những khúc kiểu cách như bài bông, dâng hương, thét nhạc, dồn đại thách, cần đến nhảy múa, làm trò, cũng bỏ đi cả, chỉ còn lại mấy lối giản dị dễ dàng, ngồi yên một chỗ mà hát, như gửi thư, đọc thơ, đọc phú, ru con, hãm, và nhất là hát nói.

Bình dân hoá, giản dị hoá, đồng thời nghệ thuật cũng đi vào người thưởng thức một cách sâu xa hơn. Đến đây người nghe hát và cầm chầu nghe mãi những bài cũ thấy chán tai, mới dự vào phần trình diễn một cách chủ động hơn nữa bằng cách tự tạo ra những bài hát mới. Quan viên theo điệu hát ả đào mà sáng tác ra những bài ca có ý nghĩa rồi trao cho người đào nương luyện tập để khi trên chiếu hát, bên chung trà, người ta vừa nghe giọng hát hay, tiếng đàn ngọt, vừa thưởng thức bài văn của mình. Đó là cái thú hát ả đào của văn nhân thi sĩ ngày xưa vậy.

Chúng ta thấy như vậy trên con đường bình dân hoá, giản dị hoá, lối ca nhạc cửa quyền đời Lê - Trịnh đã dần đưa đến lối hát ả đào. Việc biến chuyển này hẳn đã khởi lên ngay từ đời Lê mạt, Tây Sơn và sang đời Nguyễn thì hoàn tất(1). Hát ả đào đời Nguyễn sơ đã thành một tục lệ phổ biến ở khắp thôn quê. Và chẳng phải chỉ công hầu hay đại quan mới biết đến, những cậu thư sinh “hàn nho” kiểu Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Quý Tân, Cao Bá Quát đều từng thưởng thức, từng say mê. Rồi sẵn ngòi bút văn gia chứa chan tứ cao, từ đẹp, các vị đã đặt ra vô số bài hát, tạo hẳn ra một ngành văn chương trong văn học nước ta vào nửa đầu thế kỉ XIX.

2. Bài hát nói

Tuy nhiên, việc biến chuyển từ một ngành ca nhạc đến một ngành văn không phải bên trong không vì nhiều lí do khác. Tại sao bao nhiêu ngành ca nhạc khác như chèo, tuồng, ca Huế không thể đưa đến một ngành văn? Mà ngay trong hát ả đào cũng có bao nhiêu lối hát khác nhau, tại sao chỉ một lối hát nói đưa đến sự sáng tác văn chương? Chúng ta nên nhớ điều này: tuy cũng là những bộ môn nghệ thuật, nhưng ca nhạc là ca nhạc mà văn học là văn học. Những bài ca nhạc tuy có lời văn song không thể kéo sang ngành văn bởi vì lời ca bị yếu tố âm nhạc hoặc tuồng bộ chi phối, choán đoạt. Trong lối hát nói khác thế, bài ca rất quan trọng. Người ta không nhảy múa, không hò hét. Giọng hát lên xuống trầm bổng, nhưng vẫn bình dị, có vẻ như một cách tụng độc mà thôi. Đàn phách chỉ là phụ hoạ. Câu hát lời văn là cái người nghe phải chú ý đến hơn hết. Hát nói cũng như ngâm thơ, đọc phú, kể chuyện. Tóm lại, ở đây nhạc đã nhường bước cho văn.

Mặt khác thì trong những bài hát ả đào, duy có bài hát nói là có quy tắc rõ ràng cho nên bỏ nhạc ra nó vẫn đứng vững, hiện ra như một thể văn vần. Thể văn vần ấy lại có nhiều đặc sắc, so với thơ luật nó rộng rãi phóng túng hơn về âm điệu. Người ta có thể trong mỗi trường hợp, dùng để diễn tả một tình ý, kí thác một tâm sự, trong một khuôn khổ cũng gọn ghẽ hoàn tất như một bài thi Tàu mà không phải chịu sự gò bó của luật lệ thi Tàu. Có thể coi là một hình thức văn chương đề vịnh mới của nhà nho ta vậy. Bởi những lẽ ấy mà các cụ ưa thích, làm ra nhiều, và bài hát nói lâu dần tách rời hẳn ra khỏi phạm vi ca trù. Nhiều bài làm ra chẳng phải để cho ả đào hát nữa mà chỉ để diễn tả cảm nghĩ của văn gia với một mục đích văn học thuần tuý. Chính Nguyễn Công Trứ đã đi vào con đường ấy, đã đưa bài hát nói lên địa vị một thể văn phổ biến có thể áp dụng cho mọi đề tài, diễn đạt từ tình cảm mềm yếu đến khí phách hùng dũng, đến lí luận khô khan.

Sau hết, trong những lí do khiến cho thể hát nói có thể dễ dàng thấy chỗ ngồi trong hàng ngũ các thể văn của ta, còn một lí do nữa là bài hát nói, xét quy tắc về câu, về chữ, về vần, có gì quá gần gũi những thể văn vần khác của ta, nhất là thể song thất lục bát. Đến cuối thế kỉ XVIII chúng ta chỉ có thể lục bát và song thất lục bát. Đầu thế kỉ XIX(1) thể hát nói có thể coi như một bước tiến, một biến thể của lối song thất vậy. Nghiên cứu thể thức văn vần hát nói, chúng ta có thể nhận ra một đằng về số chữ số câu, vết tích của thể song thất.

Một đằng về gieo vần, vết tích của cách nói lối rất thông dụng trong tuồng hát của ta.

(1) Ảnh hưởng của thể song thất

Một bài hát nói có ba khổ. Những khổ ấy đều có thể coi như biến thể của những khổ tứ cú song thất lục bát. Chúng ta có thể dễ dàng đổi mấy khổ song thất lục bát làm một bài hát nói. Ví dụ:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

Hỏi xanh kia thăm thẳm từng trên,

Ai gây dựng cho nên nỗi thiệt.

Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt,

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.

Trên chín tầng gươm báu trao tay,

Nửa đêm hịch định ngày dụng võ.

Nước thanh bình ba trăm năm cũ,

Áo thụng trao quan vũ từ đây.

Sứ trời sớm giục đường mây.

Ta nhận thấy duy có các câu lục bát phải đổi lại cho số chữ bằng nhau (như trong đa số các bài hát nói) và cho cách gieo vần thích hợp. Các khổ một và hai thì cũng là những khổ tứ cú như ở song thất. Duy khổ ba chỉ có ba câu, câu chót lẻ loi và chỉ có sáu chữ. Theo nhà chuyên môn thì phách bản hát nói đặt vậy, nếu bỏ câu sáu ấy đi thì lời đọc hết mà phách vẫn còn, ngược lại nếu thêm ra một chữ nữa (thành 7 chữ) thì phách hết khổ rồi mà lời văn vẫn còn thành ra chữ đó dư.

(2) Ảnh hưởng của thể nói lối

Vần trong hát nói vừa là cước vận vừa là yêu vận. Yêu vận tuy hữu ích nhưng không bó buộc, nhiều khi có thể bỏ qua. Cốt yếu là cước vận. Mà cước vận ở đây là lối vần liền cứ đôi một và gián cách trắc bằng. Chữ chót câu đầu trắc rồi từ đó xuống cứ hai chữ bằng hiệp vận lại đến hai chữ trắc hiệp vận. Lối gieo vần này xét ra đúng là vần trong vè hay nói lối, chúng ta đã thuyết minh khi nói về bài vè trong văn học Nam Hà ở trên. Cách nói lối này đặt câu sóng đôi và chỉ chú trọng đến cước vận, ngoài những bài vè, bài phú bình dân, còn thấy đắc dụng trong văn chương sân khấu của ta. Trong các tuồng hát của ta, bên cạnh những điệu ngâm, vãn, có một điệu gọi là viết, hay nói, hay bạch, hay nói lối. Ở điệu này thể văn và vần gieo chính là cách nói lối. Ví dụ vài câu nói lối trong tuồng Kim Thạch kì duyên, lời của nhân vật Tiêu Hoá Long:

Đại Lư san hùng cứ nhất phương,

Ngã trại chủ Hoá Long thị dã.

(Như ta) Chiếm cứ nhất châu thiên hạ,

Tự xưng Giang hải Đại vương.

Giàn vuốt nanh chờ vận Võ, Thang,

Nuôi vai cánh cướp người thương khách.

 (Lâu la!) Bài khai kiếm kích,

Chỉnh túc thuyền sưu.

Thuyền đoạn triệt giang đầu,

Ngõ truy tầm thường lữ.

Những câu nói lối ấy đều đặt đối nhau, sự hiệp vận về cuối và sự gián cách bằng trắc khiến cho câu văn rắn rỏi mạnh mẽ, thích hợp với giọng tuyên xướng (déclamatoire) trên sân khấu. Hát ả đào tuy về sau chỉ có đào nương hát song ban đầu thớ là cả đàn ông (kép) cũng hát. Hát ả đào cũng trình diễn như tuồng trên sân khấu. Cho nên câu văn hát nói có đồng điệu với câu nói lối hát tuồng cũng không có gì lạ. Cũng chỉ là một vết tích về nguồn gốc ca kịch của nó thôi, và có lẽ cũng là lí do khiến người ta gọi là bài hát nói.

Tóm lại, bài hát nói có thể coi như con đẻ của song thất và nói lối. Song thất đã cho nó cách chia khổ và yêu vận. Nói lối cho nó cước vận. Cả hai cùng để lại ở nó dấu vết đối ngẫu. Tuy nhiên, nó sẽ tiến tới một thể cách phóng túng hơn cả song thất và nói lối: Bài đặt có thể cứ dôi ra từng khổ tứ cú mà kéo dài vô hạn. Trong câu, số chữ cũng không hạn định. Thanh luật chỉ cần tuân theo nguyên tắc điều hoán sơ đẳng. Yêu vận xê xích thế nào cũng xong, chẳng có cũng được. Đối ngẫu chỉ cần ở hai câu thơ thất ngôn Đường luật chữ Hán. Đó có lẽ là một kỉ niệm của bài bát cú Trung Hoa. Có khi nó lại đèo thêm một hai cặp mưỡu, như một quà tặng của điệu lục bát căn bản của dân tộc. Thật là một kì công tổng hợp!

(Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Sài Gòn, 1961)


 

 



(*) Phạm Thế Ngũ (1921 - 2000): quê Bình Giang, Hải Dương, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, tác giả công trình Việt Nam Văn học sử Giản ước Tân biên.

(1) Lê Thước, Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, Imprimerie Lê Văn Tân, 1928.

(1) Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, tr. 216 - 217.

(1) Trích dịch bài: Thăng Long cầm giả ca của Nguyễn Du.

(1) Như sau vụ Phí Quý Trại, năm 1832, ông được cử làm Bố chánh Hải Dương. “Lúc ra đi, Hoàng đế dụ rằng: Khanh nhà nghèo, Trẫm vẫn biết rõ, nay ra tân lỵ, cứ giữ lòng thanh liêm như thế, nếu chi dùng không đủ thì mật tâu về, Trẫm sẽ chu cấp cho. Đến tỉnh lỵ được 2 tháng cụ túng tiêu mật tâu về, vua sai thị vệ đem ban cho 2 chục bánh thuốc trà, mỗi bánh trong có 1 nén bạc” (Lê Thước, Sđd, tr. 11).

(1) Coi lời chú trên. Trong cuốn sách của Lê Thước còn dẫn một cử chỉ quyến cố hiếm có của vua Minh Mệnh đối với ông. Tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 7, bổ Tham hiệp Thanh Hoá. Đi đến Hải Lăng (Quảng Trị) thì bị bệnh. Vua được tin xuống chỉ rằng: Nay nghe Nguyễn Công Trứ đi đường chẳng may bị bệnh, chẳng hay đã lành chưa, lòng Trẫm luống những bất an. Đặc phái một tên thị vệ đem theo một viên ngự y, lập tức bắt trạm đi tới nơi điều trị, vụ được lành. Còn Nguyễn Công Trứ thì cứ an tâm mà uống thuốc bất kì một tháng hai tháng, khi nào trong mình được thập phần khang kiện mới được ra đi chớ nên kíp vội, giời mùa đông lạnh lẽo, nếu đau yếu lại, ấy là phụ cái lòng quyến cổ của Trẫm. Khâm thử”.

(2) Bậc thức giả thường cho rằng mấy ông vua Nguyễn dùng người rất có thủ đoạn, như tỏ rõ trong cách đối xử với Nguyễn Công Trứ. Ông Lê Thước viết: “Ấy là các thủ đoạn điên đảo hào kiệt, chứ kì thực thì nhà vua thấy cụ có tài cao đức trọng, ai cũng kính phục, không muốn để cái thanh thế cụ lớn lên quá sợ khó giá ngự về sau, vì thế đã lấy ân mà cất lên lại phải dùng uy mà ức xuống. Nhưng ân thì thường chỉ là ân mọn mà uy thì toàn là uy lớn”. Nói ân mọn như hai lần đi đánh giặc lập được công to (bắt Phan Bá Vành, đánh Nông Văn Vân) mà không được thăng, chỉ được vua thưởng cho các đồ chơi châu ngọc như ngựa mã não, nhẫn kim cương. Uy lớn như vụ Phí Quý Trại, vụ Mai Văn Thạch.

(1) Quan niệm này đối với người nay có vẻ viển vông, thần bí. Song ta có thể hiểu một cách giản dị như sau: Ví như trong một gia đình, giữa đám con đông có một đứa đặc biệt được cha mẹ cưng chiều, cho ăn thức ngon, mặc đồ tốt, săn sóc quý mến hơn cả các đứa khác, vậy bổn phận nó là phải nghĩ tới chỗ biệt nhỡn của cha mẹ mà đền đáp lại bằng cách hết sức học hành, đối xử cho cha mẹ vui lòng. Người hào kiệt cũng vậy, có thể coi như một đứa con cưng của tạo hoá, được phú dữ cho thông minh tài trí hơn đồng loại, vậy phải nghĩ đến lập công nghiệp để đền đáp lại hoá công.

(*) Có bản dịch là Luận kẻ sĩ, Vịnh kẻ sĩ. (N.B.S).

(1) Tuy nhiên những “chuyện đời” ấy coi làm trò chơi không có nghĩa là làm một cách cẩu thả. Đó là những trò chơi ông đem vào tất cả tài trí gan dạ của mình. Coi làm trò chơi ấy chỉ là để coi thường mọi trò lực, gian khổ, coi thường cả sự được mất, tìm lấy cái vui trong sự phấn đấu thử thách mà thôi, tựa như thái độ của một thể thao gia đời nay vậy.

(1) Sở dĩ vậy phần vì sang đời Nguyễn thái bình trở' lại, phần vì vua chúa chẳng còn ở đất Bắc, nên nghệ thuật họ càng dễ đoạ lạc và truyền rộng xuống dân chúng.

(1) Cứ như văn chương tri danh thì chỉ đến đầu thế kỷ XIX mới có tác phầm hát nói. Song theo tông tích trên thì hẳn hồi Lê mạt đã phải có rồi. Trong cuốn Xướng khúc tập thi (sách viết tay của E.F.E.O, số A. B.195), ông Nguyễn Văn Tố có trích ra một số bài thơ khuyết danh theo ông thì làm về đời hậu Lê, trong những bài ấy có một vài bài thể cách như sau:

“Xinh thay nhỉ đông rồi xuân chiếng,

Ngấn hàn băng mảnh mảnh tan không.

Dưới trời đua muôn tía nghìn hồng,

Trong tiệc nối câu thơ chén rượu.

Triều đình hữu đạo thanh xuân hảo,

Môn quán vô tư bạch nhật nhàn.

Dẫu là dân dẫu là quan,

Ai ai chẳng gặp thời hành lạc.

Ngày chín chục thoi đưa bóng tháng,

Cái vàng anh văng vẳng trên cây.

Dần dần tơ liễu xanh bay”.

Ta nhận thấy đúng là một bài hát nói, lại xét nội dung có ý thức chúc tụng ngày xuân bên tiệc rượu, có thể là một bài hát trong lối hát “cửa quyền” đời Lê vậy. (Coi thêm ở bài Thơ tết đời xưa, báo Tri tân, số Xuân, 1943).

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114569367

Hôm nay

2151

Hôm qua

2432

Tuần này

21750

Tháng này

227891

Tháng qua

129483

Tất cả

114569367