Những góc nhìn Văn hoá

Lotman và chủ nghĩa Mác (Kỳ 2)

Tính khoa học và quan điểm lịch sử bảo chúng ta phải nhìn thấy ở hiện thực lịch sử ý nghĩa chế định, chứ không phải tính định định hướng của nó.

Không mang tính định hướng, tức là không lo lắng để trở thành bệ đỡ của chúng ta và một cái gì hơn thế: Lotman quả quyết, rằng lịch sử mang tính quy luật, nhưng không phải là tiền định, rằng trong đó bao giờ cũng có những khả năng chưa được sử dụng, rằng phía sau chúng, cái chưa được thực hiện bao giờ cũng nhiều hơn gấp bội so với cái đã được thực hiện. Chính những khả năng bị bỏ mất của văn hoá đã lôi cuốn Lotman đến với những hiện tượng chẳng có gì vượt trội và những tác phẩm chưa được phát hiện - ông đã làm như thế ngay từ thời viết về Andreiev Turgheniev, Momonov và Kaisarov cho đến tận những năm cuối đời, khi ông viết về các ý tưởng chưa được thực hiện của Pushkin, Nhưng, tất nhiên, không phải chỉ có thế: kính trọng các tên tuổi nhỏ bé vốn là truyền thống của ngữ văn học, trái ngược với phê bình, là truyền thống của khoa học, trái ngược với tư tưởng hệ, và là truyền thống của nghiên cứu, trái ngược với định giá.Truyền thống này thể hiện rõ nhất khi đối tượng nghiên cứu là những cái kết cục non yểu và những hy vọng chưa được thực hiện. Vậy mà trong khoa nghiên cứu văn học nửa mùa, loại khoa học đem các tác phẩm kinh điển sung công, như chúng ta thấy, ngày càng hiện ra rất rõ xu hướng đánh tráo vào đó lịch sử quy trình của một bộ sưu tập huy chương dành cho các ông tướng văn học.

Hãy hình dung tình huống chọn đường không có sẵn câu trả lời đã được gợi ý trước ấy, tình huống chọn đường với sự cự tuyệt một loạt khả năng, vì một loạt khả năng khác - đó không hẳn là nhiệm vụ của khoa học, mà chủ yếu là nhiệm vụ của nghệ thuật: giống như trong sáng tác của Tynhianov, người mở đầu Cái chết của Mazir-Mukhtar bằng những lời: “Chẳng còn gì chưa được giải quyết[1]. Lựa chọn chẳng phải là công việc của một thứ thời đại chung chung, vô nhân xưng, mỗi con người riêng lẻ đều tiến hành lựa chọn: ngay trong ý thức của anh ta, các mảnh của những tư tưởng đầy mâu thuẫn kiến tạo thành cấu trúc, và trước hết, đó là cấu trúc luân lý với khái niệm chìa khoá của nó là các chữ: danh thơm và hổ thẹn. Về thời đại yêu quý của mình, về những năm 1800-1810, Lotman nói: “Sáng tạo văn hoá cơ bản của thời đại này được bộc lộ ở việc tạo ra một mẫu người”, nó không làm nên những tác phẩm đỉnh cao của trí tuệ, nhưng đã nâng lên mạnh mẽ  “đời sống tinh thần của lớp bậc trung”. Sự chú ý như thế tới lớp bậc trung và những con người không mấy tên tuổi cũng là một truyền thống dân chủ của khoa học ngữ văn. Tôi dám chắc, bản thân Lotman đã hiểu như vậy về vị trí của mình trong thời đại của chúng ta. Ông không ném ra những lời thách và không viết những bản tuyên ngôn - ông chỉ nâng cao trình độ bậc trung của đời sống tinh thần. Và bây giờ chúng ta được thừa hưởng cái sự nâng lên ấy.

Cho nên, Lotman thường xuyên chuyển dịch khu vực tiền duyên của khoa học tới chỗ mà nghệ thuật vẫn thường kiểm soát, tức là chuyển đến chỗ thế giới của các tính cách và số phận con người, thế giới của những cái tên riêng. Ông đặc biệt quan tâm tới tính chất vô thường của cái cụ thể lịch sử. Ông có người học trò tên là Raflik Papaian, một nhà lý luận về thơ, sau đó anh này bị bắt vì theo chủ nghĩa dân tộc Armenia, phải ngồi tù, rồi sau, đến thời cải tổ, lại được đề cử làm nghị viên, trở thành đối thủ cạnh tranh trong cùng một khu vực bầu cử với cựu giám đốc nhà tù, nơi anh từng bị giam giữ.  Khi tôi kể chuyện này cho Lotman, ông vỗ tay rồi thốt lên: “Đó chính là lý do vì sao tôi yêu lịch sử đến vậy!”. Điều này chứng tỏ, cái lý thú thẩm mỹ bao giờ cũng lớn hơn cái lý thú của trí lự.

Nhưng Lotman không đánh tráo khoa học bằng nghệ thuật: khoa học vẫn là khoa học. Khi nói tới những bức chân dung nhân vật xuất hiện trong các công trình nghiên cứu lịch sử - văn hoá của Lotman,- từ nhà cách mạng tháng Chạp Zavalisin cho đến Natalia Dolgaruka - ngay từ đầu, tự nó, đã nảy ra hai hình ảnh đối sánh: Kliuchevski và Ghersenzon đều nghệ sỹ như nhau. Sau đó, các hình ảnh ấy tự làm sáng tỏ: Kliuchevski nghệ sỹ hơn so với Ghersenzon. Bởi vì, có một từ không thể nào xuất hiện trong các bức chân dung của Lotman: từ “tâm hồn”.

Với Lotman, cá nhân con người không phải là một thực thể, mà là một quan hệ, là điểm giao cắt của các mã xã hội. Người mác-xít chắc sẽ nói: “điểm giao cắt của các quan hệ xã hội”, - sự khác nhau vẫn chỉ là ở ngôn ngữ. Chính vì thế mà hoá ra, Pushkin đồng thời vừa là nhà khai sáng - duy lý, vừa là nhà quý tộc, nhà lãng mạn, vừa là nhà quan sát tỉnh táo thời đại mình, hiểu được giá trị của những ước lệ và để cho người ta giết mình trong một cuộc đấu súng. Từng con đường trong những tuyến giao lộ ấy có thể theo dõi riêng lẻ, và khi đó, ta sẽ thu được cái “lịch sử văn hoá vô danh”, hoặc cái “loại hình văn hoá vô danh” mà Wolfflin và Varro rất thích thú. Lotman cũng có khả năng tuyệt vời trong việc phân tích các cơ chế vô nhân xưng của văn hoá như thế, nhưng ông không thích làm như vậy, chẳng phải vì đó chỉ là sơ đồ, mà vì nó là sơ đồ quá thô sơ. Tất nhiên, với Lotman, việc phân tích các đối lập phân cực trong thơ và bức tranh của thời đại bao quanh nhà thơ bổ sung cho nhau giống như khoa học và nghệ thuật.

Nhưng sự bổ sung nói trên có thể được thực hiện theo những kiểu khác nhau. Suốt đời, Veselovski nghiên cứu lịch sử vô nhân xưng của nghệ thuật ngôn từ, về già, ông viết một bức chân dung tâm lý tuyệt vời về Zukovski - nó chẳng có mối liên hệ gì với những gì trước đó, chỉ đơn giản là để giải toả tâm hồn. Tynhianov bắt đầu viết tiểu thuyết về Pushkin, khi ông thấy cái hình tượng Pushkin như nó đã hình thành trong ý thức của ông không thể xây dựng theo kiểu chứng minh - khoa học, mà chỉ có thể mô tả theo kiểu thuyết phục - nghệ thuật: hình tượng là chính yếu, chứng lý chỉ có ý nghĩa bổ trợ. Với Lotman (cũng như với Kliuchevski) - hoàn toàn ngược lại, mỗi bức chân dung của ông là sự minh hoạ theo ý nghĩa riêng của lời nói, là vật liệu để luyện tập phân tích lịch sử - văn hoá, con người ở ông, giống như âm vị, được hình thành từ những dấu hiệu khác biệt, trong đó, tất cả các mã văn hoá giao cắt lẫn nhau đều có thể chia tách, và tác giả không làm như thế chỉ để người đọc cẩn trọng tự mình nhẩm tính chúng trong đầu. Ở đây, quan niệm là cái chính yếu, hình tượng chỉ có ý nghĩa bổ trợ.

Mỗi thời đại bao giờ cũng xét lại các tác gia kinh điển theo quan điểm riêng, phù hợp với nhu cầu và khát vọng riêng; mỗi người đọc lại tạo ra cho bản thân một “Pushkin của mình” theo hình ảnh và kiểu mẫu của cá nhân, đó là sự sáng tạo mang tính cá nhân của anh ta trên cái nền sáng tạo chung của nhân loại - của giới nhà văn và công chúng độc giả. Lotman hứng thú hơn với điều ngược lại: tái tạo một Pushkin đích thực, hy hữu và nhìn thế giới bằng đôi mắt của ông.

Khi đọc các bức chân dung văn hoá- lịch sử của Lotman, ta không có cảm giác tựa như mình đang đánh giá lịch sử, mà có cảm giác, giống như là lịch sử đang đánh giá bản thân, và đánh giá một cách nghiêm khắc. Biết đứng trên lập trường của người khác, lập trường của quá khứ lịch sử - đó là sự làm giàu có thêm văn hoá theo tinh thần nhân văn chủ nghĩa, ý nghĩa đạo đức của các khoa học xã hội chính là ở đấy. Không nhìn vào lịch sử từ đôi mắt hiện tại, mà nhìn vào hiện tại bằng đôi mắt lịch sử - điều đó cũng có nghĩa là xem bản thân và môi trường của mình không phải là mục đích tối hậu của lịch sử, mà chỉ là một trong vô số phương án tiềm tàng của nó.

Với Lotman, tư tưởng về những khả năng lịch sử không được sử dụng  không chỉ là trò chơi của đầu óc biện chứng. Đó còn là kinh nghiệm của hai thế hệ ở thế kỷ của chúng ta: của những người vào những năm 1930 phải chia tay với những khả năng không được sử dụng vào những năm 1920 và vào những năm sau chiến tranh phải chia tay với những hy vọng chưa được thực hiện của những năm chiến tranh. Lotman không khuyến khích các đồng nghiệp trẻ tuổi nhìn vào văn hoá quá khứ của nước Nga chỉ thấy các ám dụ về những chuyện phiền lòng của hiện tại. Nhưng cuốn sách cuối cùng của đời mình: Văn hoá và sự bùng nổ, Lotman đã kết thúc bằng những hình dung về cái hiện tại được cải tổ, về khả năng chuyển đổi từ cấu trúc nhị phân của văn hoá Nga sang cấu trúc tam quyền phân lập của văn hoá châu Âu: “Bỏ qua khả năng ấy sẽ là một thảm hoạ lịch sử”.

Có vẻ như chúng ta đã đi lạc rất xa ra ngoài vấn đề “Lotman và chủ nghĩa Mác”. Thực ra không phải như vậy. Nói về Pushkin “đích thực” trong sự đối lập với Pushkin “của tôi” -  điều đó cũng có nghĩa là còn tin vào chân lý: không phải chân lý tuyệt đối, mà là chân lý khách quan, khoa học tồn tại chính là vì nó. “Điều duy nhất mà với nó, từ trong bản chất, khoa học có thể phục vụ con người - đó là thoả mãn nhu cầu tìm kiếm chân lý của nó”. Lotman đã viết như thế trong bài về nói về nghiên cứu văn học như một khoa học. Đó không phải là tính nhị phân: ở thế kỷ XX, thế kỷ được mở ra bằng sự tự tán dương sáng tạo của chủ nghĩa suy đồi và khép lại bằng trò chơi sáng tạo của chủ nghĩa giải cấu trúc, niềm tin vào chân lý và khoa học không còn là một tiên đề, mà là quan điểm sống. Niềm tin ấy, nhân loại đã sáng tạo ra, văn hoá xô - viết đã tiếp nhận từ tay của chủ nghã Mác. Chủ nghĩa mác xuất hiện ở bước ngoặt chuyển từ chủ nghĩa không tưởng của những nhà lãng mạn sang chủ nghĩa thực chứng của các nhà hậu lãng mạn, phương pháp của nó là khoa học, hệ tư tưởng của nó mang tính chất ảo tưởng. Cự tuyệt phương pháp khoa học vì giáo điều tư tưởng hệ hay vì sự võ đoán giải cấu trúc - sự khác biệt  chỉ rất nhỏ mà thôi. Lotman tin vào phương pháp khoa học. Ông không tuyên bố mình là người mác-xít hay phản mác-xit, ông là một học giả.

Rất nhiều phản đề lịch sử - văn hoá, với người đương thời, có vẻ như không thể hoá giải, nhưng với hậu thế, chúng hoá ra chỉ chuyện hư ảo, tầm phào. Chủ nghĩa lãng mạn dốc toàn lực chống lại chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực cũng dốc toàn lực chống lại chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng nhân loại thông minh đã nhìn thấy và hiểu ra: chính chủ nghĩa cổ điển đã có tất cả ván, vách đủ làm tổ để khai triển trong đó mọi cách tân của chủ nghĩa lãng mạn, và cả chủ nghĩa hiện thực cũng chẳng phải là gì khác ngoài một cái cành cực lớn mọc lên từ thân cây của chủ nghĩa lãng mạn: đều là ngoại lai, chỉ hiềm nỗi thiếu cơ sở lịch sử, hay địa lý, mà chỉ là hiện tượng xã hội và tâm lý. Diễn ra sự thu hẹp giản đơn (tất nhiên, cũng có đào sâu) lãnh địa hoạt động thực nghiệm - đó cũng chính là sự chặt chém không thương tiếc những khả năng chưa được được sử dụng mà Lotman rất đỗi quan tâm. Trong các khoa học xã hội, tình hình cũng hệt như vậy,  phương pháp luận mác - xít hoàn toàn đủ rộng để  có chỗ cho mọi hướng tiếp cận mà sau này được hình thành trong chủ nghĩa cấu trúc. Lotman nhớ kỹ điều đó và ông thấy không cần,  diễn đạt theo Puskhin, cắn vào bầu vú sữa của nhũ mẫu nữa, bởi vì hàm răng đã nhú lên.

Người dịch: Lã Nguyên

Nguồn: Доклад на Третьих Лотмановских чтениях (РГГУ, декабрь 1995 г.)

 


[1] Tynhianov Iu.N. (1894-1943): Nhà văn, nhà viết kịch, nhà nghiên cứu - phê bình văn học. Tiểu thuyết Cái chết của Mazir-Mukhatar được ông hoàn thành vào năm 1928, viết về những năm cuối đời của A.S.Griboedov(1795-1829), tác giả của vở kịch bất hủ Khổ vì trí tuệ.-

Bản này do người dịch gửi cho VHNA

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114569512

Hôm nay

2296

Hôm qua

2432

Tuần này

21895

Tháng này

228036

Tháng qua

129483

Tất cả

114569512