
“Khuyển” tướng quân Tsunayoshi cấm sát sinh và tưởng lệ học vấn
Trước tiên, Tsunayoshi cũng như các Shôgun trước, công bố ấn bản mới về pháp độ của
giới vũ gia vào năm 1683 (Tenna 3). Pháp độ này còn có tên là Lệnhh năm Tenna (Tiên Hòa lệnh). Điều thứ nhất của văn bàn ấy đã qui định : “Phải tưởng lệ văn, vũ, trung, hiếu, chỉnh đốn lễ nghi”. Cho đến lúc đó, bổn phận của người samurai chỉ là theo đòi cái “đạo cung mã” nghĩa là đạo của con nhà võ. Nay thì họ phải giữ lòng trung thành với bậc quân chủ, hiếu kính đối với cha ông, giữ gìn lễ nghi nghĩa là trật tự trên dưới và xem những điều này mới là thiết thân nhất.
Đường lối văn trị chủ nghĩa như thế dĩ nhiên dựa trên Nho giáo. Để cụ thể họ việc tôn sùng đạo Nho, Shôgun Tsunayoshi đã cho dựng Yushima seidô (Thang Đảo thánh đường, Yushima là tên đất thuộc nội thành Edo) làm chỗ thờ (điện đường) và dạy đạo Nho. Ông bổ nhiệm học giả Hayashi Nobuatsu (Lâm, Tín Đốc, 1644-1732) hiệu Hôkô (Phượng Cương) làm Daigaku no kami (Đại học đầu) tương đương với chức viện trưởng. Như thế, ông đã cho chuyển Khổng miếu (Tiên thánh điện) là tư thục của nho quan và thị giảng Hayashi Razan (Lâm, La Sơn, 1583-1657, ông nội của Nobuatsu) ở Ueno Shinobu-ga-oka về nơi đó. “Thánh đường học vấn sở” này được đặt dưới quyền chỉ đạo của gia đình họ Hayashi[3], làm nơi dạy dỗ cho tầng lớp võ sĩ.
Về phương diện lễ nghi trật tự, cho đến nay, chính sách liên quan đến thiên hoàng và triều đình có thay đổi một chút. Một số nghi thức triều đình được phục hồi, lãnh địa dành riêng cho hoàng gia (gọi là kinri goryô =cấm lý ngự liệu) nay cũng được tăng thêm. Các Shôgun Ieyasu, Hidetada và Tsunayoshi mỗi người đều hiến 1 vạn thạch, tổng cộng tất cả được trên 3 vạn thạch.
Tsunayoshi tỏ ra là người sùng đạo Phật, năm 1685 (Jôkyô 2) ông đã ban lệnh Shôrui awaremi no rei nghĩa là Lệnh phải thương xót loài vật (shôrui = sinh loại). Không những cấm giết chó mà thôi, ông cấm tất cả mọi hình thức sát sanh. Lý do là người đáng lẽ nối dõi ông – thế tử Tokumatsu - mới 5 tuổi đã chết yểu. Nhân thế, tăng lữ cố vấn là Ryuukô (Long Quang) mới bàn rằng vì trong kiếp trước Tsunayoshi đã phạm quá nhiều tội sát sanh nên phải nhận quả báo. Nếu muốn có con, ông phải biết xót thương tất cả những sinh vật, nhất là không được giết chúng. Đặc biệt Tsunayoshi sinh vào năm Tuất cho nên đối với chó thì ông cần phải ưu ái hơn nữa. Lệnh đó đã gây nhiều khó khăn cho cuộc sống của dân chúng vì lúc nào cũng phải dành ưu tiên cho chó. Tuy nhiên, nhờ vậy mà những kẻ bất mãn xã hội và hay chê trách như bọn kabukimono cũng không còn thấy bóng dáng đâu nữa.
Ngoài cách thức mới trong việc khu xử đối với các lãnh chúa, triều đình lẫn thiên hoàng, thời đại của Tsunayoshi còn được đánh dấu như một khúc quanh về mặt tài chính của mạc phủ. Thu nhập từ các mỏ khoáng sản cũng như lượng vàng bạc từ mỏ Sado trước đây có thể gọi là dồi dào thì nay bắt đầu có triệu chứng suy giảm khiến cho tài chánh của mạc phủ càng ngày càng sa sút.Thêm vào đó, trận hỏa hoạn lớn năm Meireki (Meireki no taika, 1657, Minh Lịch đại hỏa) thiêu rụi thành phố Edo đã đòi hỏi một ngân sách lớn cho việc tái thiết thành quách và các khu phố. Ngoài ra, công sự xây cất đền chùa giai đoạn đó cũng gây nhiều tốn kém. Có thể nói mạc phủ có nguy cơ phá sản bất cứ lúc nào.
Chính vào thời điểm đó chức quan trông coi tài chánh (trước gọi là Kanjô gimmiyaku, sau đổi ra Kanjô bugyô) là Ogiwara Shigehide (Địch Sinh, Trọng Tú) sau khi kiếm đủ cách không xong, đã đề nghị với Tsunayoshi phương án mới là đúc lại hoá tệ. Từ đó Nhật Bản có đồng tiền gọi là Genroku koban, “đồng vàng thời Genroku”, một loại tiền hình viên chùy và dẹp, bằng vàng, giá trị tương đương với một lượng. Koban mới này tuy phẩm chất kim loại kém đi so với với koban cũ nhưng số kim loại chiết ra (xuất mục deme) từ nó - nói trắng ra là ăn gian - đó sẽ được dùng vào việc cải thiện tình hình tài chánh của mạc phủ. Đúng là nhờ giải pháp này mà tài chánh mạc phủ khá ra. Thế nhưng nhân bù lại thì số tiền koban mới được tung ra thị trường quá nhiều nên nó đã bị mất đi giá trị. Trong một nền kinh tế tiêu bằng đồng vàng như xã hội Edo thì hiện tượng nói trên đã làm cho vật giá leo thang và cuộc sống của người thường dân thành ra vô cùng chật vật.
Đến năm 1707 (Hôei 4), núi Fuji gần Edo lại có trận phun lửa thật lớn, các vùng Suruga, Sagami bị tro hỏa sơn rơi đầy, gây ra nhiều thiệt hại. Để phục hưng những vùng bị ảnh hưởng của núi lửa, nhà chúa ra lệnh thu Shokokutaka yakukin (gọi tắt là Kuniyaku = quốc dịch), một món trưng thu nghĩa vụ trên toàn quốc: hễ nơi nào có khả năng trưng thu thì cứ mỗi 100 thạch thóc huê lợi phải nộp cho nhà chúa 2 lượng.Kết quả là mạc phủ đã thu vào được 49 vạn lượng. Tuy vậy, trong suốt thời gian còn lại của chính quyền Tsunayoshi, hình ảnh một cuộc phá sản tài chánh của nhà nước vẫn cứ lởn vởn không chịu buông tha những người cầm quyền.
2.2 Văn hoá Genroku:
Cho đến đây, chúng ta đã bàn về tình hình chính trị thời Edo. Hãy tạm rời nó một chút để tìm hiểu văn hoá sử của thời đại này.
Genroku, giai đoạn cuối thế kỷ 17 bước qua đầu thế kỷ 18 là một thời kỳ chính trị ổn định, những mục tiêu kinh tế đề ra đều xem như thực hiện được nên tình hình xã hội đủ sung mãn để phát huy được một nền văn hóa nhiều sắc thái, vửa chủ động bởi tầng lớp võ sĩ, sau đến người kẻ chợ lẫn hạng bình dân. Văn hoá đó được mệnh danh là văn hoá Genroku, niên hiệu (1688-1704) cùng tên.
Văn hoá Genroku là một nền văn hoá có khuynh hướng hiện thực và thực chứng rất đậm đà. Cuộc đời gọi là “phù thế” (ukiyo) đầy biến dịch và linh động muôn màu muôn vẻ của xã hội người thành thị (chônin shakai) đã được văn học thời ấy mô tả như nó là. Nho học gắn bó với chính trị và được khích lệ. Học vấn cũng phát triển với các công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên và cổ điển nặng về thực chứng
Văn học có những cây bút tiêu biểu cho vùng Kamigata (Kyôto và phụ cận) như nhà tiểu thuyết Ihara Saikaku, nhà thơ Matsuo Bashô và nhà soạn tuồng Chikamatsu Monzaemon.
.jpg)
Tượng văn hào Ihara Saikaku
Xuất thân từ một gia đình thương nhân ở Ôsaka, Ihara Saikaku (Tỉnh Nguyên, Tây Hạc, 1642-1693) bắt đầu cuộc đời văn chương như nhà thơ haikai theo kiểu viết lấy lượng nhờ nhanh trí. Tuy nhiên, ông chính là một tiểu thuyết gia rất ăn khách nên có thể sống bằng ngòi bút, một chuyện chưa từng có trước đó. Tác phẩm của ông trình bày những cảnh đời nghĩa là xã hội như một hiện thực. Ông khai thác chủ đề tình dục và kim tiền, hai thứ mê hoặc lòng người. Ngòi bút của ông sắc sảo tài tình và đã mở một cách cửa mới cho văn học Nhật Bản cận đại. Tác phẩm của ông có thể xếp vào 3 loại:
Loại chủ đề tình dục: Kôshoku ichidai otoko (Một đời trai mê sắc dục), Kôshoku gonin no onna (Năm người đàn bà lụy vì tình).
-
Loại chủ đề đời samurai: Budô denraiki (Truyện con nhà võ còn truyền lại), Buke Giri monogatari (Truyện ân oán trong giới võ sĩ);
-
Loại chủ đề người kẻ chợ: Nihon eitaigura (Kho hàng Nhật Bản muôn đời), Seken munezanyô (Những toan tính bụng dạ người đời)
Ihara Saikaku và cuộc đời chìm nổi[4]
Đầu thời cận đại, tiểu thuyết gia kanazôshi (tiểu thuyết nôm na) nổi tiếng là Asai Ryôi (Thiển Tỉnh, Liễu Ý, ? – 1691) có viết “Truyện đời chìm nổi” (Ukiyo Monogatari) trong đó ông trình bày nhân sinh quan của người đương thời,cho rằng “Nếu sống bất như ý thì hãy để mặc dòng đời cuốn đi, xem tất cả chuyện hay chuyện dở (yoshiashi) chỉ là những trò vui thoáng hiện ra trước khi bóng đêm phủ tới”. Thật vậy, cuộc đời “phù thế” (ukiyo) thời Edo là cảnh đời muôn mặt, biến hoá khôn lường chứ không phải là cái “ưu thế” (cũng đọc là ukiyo) có màu sắc bi quan của Phật giáo thời Sengoku. Lúc đó, người ta muốn đi tìm sự cứu rỗi trong tương lai gọi là “bờ bên kia” (higan = bĩ ngạn) bằng lòng tin tôn giáo. Thời Edo, quan niệm ukiyo phản ánh nhân sinh quan của người kẻ chợ (chônin) tức lớp đông đảo dân chúng thành thị nay nhờ quá trình đô thị hoá và sức mạnh kinh tế đã nắm vai trò chủ đạo. Có thể nói ngắn gọn là bọn họ theo chủ nghĩa sát na (sống cho thoáng chốc, cho giây phút hiện tại) và chủ nghĩa hưởng lạc.
Như trình bày bên trên, người khai sáng cho loại tiểu thuyết ukiyozôshi (tiểu thuyết có nội dung miêu tả cuộc đời muôn vẻ) là Ihara Saikaku. Ông còn đặt cả tên cho nhân vật chính trong tác phẩm chủ yếu của ông – Kôshoku ichidai otoko (Một đời trai mê sắc dục) – là Ukiyo no suke. Qua loạt truyện nói về sắc dục, ông trình bày một cách lộ liễu nhân cách người Edo và phong trào xã hội đương thời là chạy theo ái dục, du hí và hoang phí, những điều đã trở thành giá trị căn bản của thời đại mới. Ông còn viết những truyện tầm thù phục hận của giới võ sĩ, giai thoại về sự làm ăn thành công của lớp thương gia, chuyện tất bật hoạt động kinh tế, chạy đua theo tiền bạc của người kẻ chợ, chuyện bất hiếu, đồi phong bài tục xảy ra như cơm bữa trong một xã hội mà luân lý cổ truyền đã bị băng hoại. Như Balzac, như Zola của phương Tây, Ihara Saikaku là một nhà văn tả thực và nhà văn phúng thích lớn của thời Genroku. Không có ông, khó lòng mà ta hình dung được một cách sống động và tường tận xã hội cũng như nhân sinh quan của người Nhật Bản đưong thời.
Vai trò các xóm bình khang thời Edo[5]
Ở Edo có Yoshiwara, Kyôto có Shimahara, Ôsaka có Shinmachi, tất cả đều là những xóm bình khang (du quách = xóm lầu xanh) nổi tiếng.Yuukaku (du quách) có nghĩa là khu vực riêng biệt được nhà nước công nhận dành cho gái làng chơi tức du nữ tiếp khách nam giới. Thực ra các nàng du nữ từ xưa vẫn hành nghề trong các yuujoya (du nữ ốc) ở bến cảng, nhà trọ, xóm buôn bán trước cổng thành.. nhưng những nơi đó trị an không được tốt và thường xảy ra phạm tội. Do đó việc cắt rời các nhà chứa khỏi khu vực thành phố và đưa nó ra ngoại ô, tụ tập tất cả lại để tiện bề kiểm soát an ninh là chủ tâm của nhà nước. Gái làng chơi như thế chỉ được bán dâm trong khu vực của xóm lầu xanh. Trong năm Keichô (1596-1615) toàn quốc đã có 20 khu vực gọi là kuruwa (quách) như vậy. Từ giữa thời Edo, nhà nước chia chúng làm loại: những xóm bán công nhận và những xóm không được công nhận, thế rồi sau cuộc cải cách năm Kansei-Tenpô, các xóm không được công nhận đã bị quản lý chặt chẽ.
.png)
Tái tạo phong cảnh xóm lầu xanh Yoshiwara
Yoshiwara ở Edo là nơi mạc phủ cho phép tập trung các gái làng chơi ở vùng Edo lại, được thành lập vì mục đích trị an vào đầu thời Edo (1617) do lời tâu bày của Shôji Jinemon. Nhân có một cánh đồng lau (có hai loại lau ashi và yoshi mọc rậm rạp), họ bèn đặt tên cho miếng đất đó là Yoshiwara (yoshi cũng có nghĩa là tốt đẹp) (1626) và dựng xóm lầu xanh trên đó. Nhưng sau vì nó làm rối loạn kỷ cương, chính quyền mới dời nó về vùng Honjo, Asakusa. Thế rồi sau trận đại hỏa tai năm 1657 (Meireki 3) lại dọn về Asakusa Nihondzuzumi nên được gọi là Shin Yoshiwara (Xóm Yoshiwara mới). Trước kia có 5 khu vực, nay lại thêm một khu thứ 6, được phép kinh doanh ngày đêm không nghỉ. Lúc đầu đời Edo khách chỉ có samurai cao cấp và thương nhân có máu mặt, sau khi lan rộng ra mọi tầng lớp trong dân chúng. Những tay ăn chơi khét tiếng thời Genroku người ta vẫn còn nhắc tới là Kiinokuniya Zaemon và Date Tsunamune...Cuối đời Edo thì số gái làng chơi tụ tập ở đấy lên đến trên 6.000 người.
Xóm Shimahara ở Kyôto đã có từ thời Muromachi trong xóm Kujô, rồi Nijô no Koji, sau được Hideyoshi cho phép chuyển về Yanaginobaba vào năm 1589. Sau nhiều lần đổi chỗ vào năm 1602 và 1640, nó được đổi tên thành Shimahara vào năm 1641 ở trung tâm thành phố, và trên địa điểm mới, trở nên phồn thịnh nhất là từ khoảng niên hiệu Genroku (1688-1704) nhưng sau đó đã bị xóm Gion (Kỳ viên) đoạt mất khách. Xóm Shinmachi ở Ôsaka cũng được thành lập vào năm 1585 từ tiền thân của nó là xóm Shimanouchi. Nay thì 5 xóm cũ của Shimanouchi đã kết hợp với 2 xóm mới để thành Shin Shimahara.
Gái làng chơi tức các cô yuujo (du nữ) không chỉ bán dâm cho khách. Trong đám họ có lắm người am hiểu nghệ thuật, sành thơ waka, haikai, trà đạo, thư đạo và có học vấn cao.Các công khanh, võ sĩ, thương gia và người dân thành thị tới xóm lầu xanh tuy để thỏa mãn tính dục nhưng còn dùng nó như một nơi gặp gỡ, giao thiệp. Nơi đây, mọi người khách đều bình đẳng, hơn nhau ở chỗ có là người sành sỏi (tsuujin = thông nhân) nghề chơi hay không. Những nhà văn như Ihara Saikaku, những soạn giả tuồng như Chikamatsu Monzaemon, những họa sĩ như Suzuki Harunobu, Kitagawa Utamaro đều lấy sinh hoạt các xóm lầu xanh để làm đề tài cho tiểu thuyết, tuồng múa rối, kịch kabuki và tranh ukiyo của mình. Tuy vai trò văn hoá của các kuruwa (quách) to lớn như thế nhưng chớ nên quên khổ ải mà các cô gái phải chịu. Ta có thể xem họ cũng là những nô lệ tình dục suốt khoảng thời gian bán mình từ 10 năm đến 20 năm, đã đốt cháy tiêu tuổi trẻ của mình để sinh lợi cho những kẻ làm giàu trên xương máu đồng loại. Nếu biết tuổi thọ trung bình của một yuujo (du nữ) ở Yoshiwara là 23 tuổi thì đủ hiểu. Các cô thường nói với nhau: “Sống là địa ngục đau khổ (khổ giới), chết là về Tĩnh Nhàn Tự” (Ikite wa kugai, shi shite wa Jôganji) bởi vì khi một du nữ chết, người ta thường đem vứt xác họ cho chùa Jôganji lo liệu.
Vào thời Genroku, về thi ca, Matsuo Bashô (Tùng Vĩ Ba Tiêu, 1644-1694), xuất thân ở Ueno Iga (tỉnh Mie) thuộc miền tây, đã góp mặt trên thi đàn và tỏ ra có biệt tài. Khác với những người đi trước như Nishiyama Sôin (Tây Sơn Tông Nhân) của trường phái Danrin (Đàm Lâm) vốn yêu chuộng sự tân kỳ, hào nhoáng (eccentric), Bashô chỉ viết những vần thơ về một thế giới mang màu sắc tịch liêu, rỉ sét (sabi), héo úa tàn tạ ( shiori), nhẹ nhàng, vật vờ, chợt có chợt không (karumi). Ông đã gây dựng nên một phong cách gọi là Shôfuu (Tiêu phong, còn viết là chính phong) dựa lên khái niệm cơ sở là yuugen kanjaku (u huyền nhàn tịch) và để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng với cái nhìn bén nhạy về con người và thiên nhiên. Ông du hành nhiều nơi, đi đến đâu cũng có dịp giao tiếp với nhân sĩ địa phương, nào là võ sĩ, nào là thương nhân hay nông dân địa chủ, lấy những cuộc gặp gỡ đó làm tư liệu để viết những bài văn du ký (kikôbun = kỷ hành văn) giàu chất thơ gọi là haibun (bài văn) như Oku no hosomichi (tùy cách hiểu có thể dịch là Đường mòn miền Oku hay Đường vào sâu thẳm). Trong chuyến đi dài về miền đông bắc đó, học trò là Sora (Tăng Lương) đã tháp tùng ông.
Trong lãnh vực sân khấu, không thể quên những đóng góp to tát của soạn giả Chikamatsu Monzaemon (Cận Tùng, Môn Tả Vệ Môn, 1653-1724), người được đời sau đánh giá như là Shakespeare của Nhật Bản.Xuất thân từ một gia đình samurai ở gần Kyôto, thưở nhỏ đã gần gủi với văn chương, ông soạn nhiều vở tuồng về hình thức sân khấu đương thời là jôruuri (tĩnh lưu ly hay sấn khấu múa rối búp bê) và kabuki (ca vũ kỹ), một hình thức tuồng cải lương (nếu ta xem tuồng Nô như hát bộ). Tác phẩm của Chikamatsu có nhiều thể loại (vật = mono): jidaimono (thời đại vật) là những pho tuồng dã sử, sewamono (thế thoại vật) nói về người đời, là những tuồng mang chủ đề luyến ái, tình cảm, chết chung vì tình, truyện hồn ma bóng quế vv…Có thể đưa ra một số ví dụ:
-
Truyện dã sử: Kokusenya gassen (Quốc tính gia hợp chiến) kể lại cuộc chiến đấu của một chàng trai Đài loan mang nửa dòng máu Nhật, chống lại cuộc xâm lăng của thực dân da trắng, bảo vệ xứ sở Đài loan.
-
Truyện người đời: a) Shinjuu Ten no Amijima (Tâm trung Thiên Võng Đảo) hay truyện hai tình nhân trốn nhà ra đi để cùng chết chung vì tình (tự sát) trên đảo Ten no Amijima. b) Sonezaki shinjuu: Một chuyện cùng tự sát ở mũi đất Sonezaki để giải quyết một vấn đề tình cảm oan trái. c) Meito no hikyaku (Minh đồ phi cước): Người giao hàng của cõi u minh, chuyện chung quanh một vụ án mạng.
Những tác phẩm của Chikamatsu được người điều khiển con rối Tatsumatsu Hachirôbê (Thìn Tùng Bát Lang Binh Vệ) mang ra diễn với giọng đọc của Takemoto Gidayu (Trúc Bản Nghĩa Thái Phu) được quần chúng tán thưởng. Bài bản do Gidayu đọc kèm theo âm thanh của đàn samisen (ba giây) réo rắt được gọi là Gidayubushi (Nghĩa Thái Phu tiết). Do đó, ngày nay cách nói chuyện của một người nào có cá tính và được quần chúng biết đến cũng được gọi là xxx+bushi như thế. Dayu (Tayu = thái phu) là tiếng tôn xưng người lành nghề trong một lãnh vực nào đó.
Thời đó, Kabuki cũng được quần chúng bình dân yêu chuộng như sân khấu múa rối jôruuri. Nó phát triển rất mạnh. Ở vùng Edo hay vùng Kamigata (Kyôto và phụ cận), có những rạp con ngoài trời (shibai koya) được cất lên. Thế nhưng nếu ở Edo, khan giả chuộng những vở tuồng võ hiệp với lối diễn tả mạnh bạo (aragoto = hoang sự) với những anh kép hát đầy nam tính như Ichikawa Danjuurô (Thị Nguyên Đoàn Thập Lang) đời thứ nhất thì người vùng kinh đô lại chuộng tuồng tình cảm (wagoto = hòa sự) với lồi diễn tả tình tứ của chàng Sakata Tôjuurô (Phản Điền Đằng Thập Lang). Một kép hát đóng vai đào (onnagata) nổi tiếng thời ấy là Yoshizawa Ayame (Phương Trạch Ayame). Tuy có nhiều cách diễn âm Hán nhưng một trong những cách viết của ayame là “xương bồ”, tên một loài hoa.
Kabuki đã phát triển như thế nào?[6]
Văn hoá thời Edo mà người thành thị (chônin) đóng vai trò trung tâm thật là muôn màu muôn vẻ, trong đó không thể nào không nhắc đến nghệ thuật sân khấu độc đáo của người Nhật gọi là Kabuki mà lịch sử phát triển có thể tóm gọn như sau:
-Năm 1603 (thời Adzuchi-Momoyama), có người con gái xứ Izumo tên là Okuni (A Quốc) mặc quần áo đàn ông, nhảy múa những điệu kỳ cục, không giống ai (Kabuki-odori) trên đường phố Kyôto.
-Năm 1629, các cô gái làng chơi ôm đàn samisen, vừa theo tiếng nhạc vùa nhảy múa rộn ràng. Đó là Onna-kabuki hay Kabuki các cô.
-Năm 1652, đến lượt bọn thiếu niên cũng làm trò như thế thay vào chỗ các cô gái (Wakashu-kabuki hay Kabuki các cậu.
--Sau đó, chỉ có những người đàn ông thành nhân (Yarô) mới được trình diễn. Đó là Yarô-kabuki hay Kabuki thanh niên.
.jpg)
Kép Kabuki hiện đại Bandô Tamasaburô trong một vai nữ
Nói chung, các nam nữ trẻ tuổi diễn trò thường mắc vào chuyện mãi dâm trá hình nên mạc phủ phải ra lệnh cấm đoán. Đến thời Muromachi, Kabuki đã thay đổi để được truyền lại cho tới ngày nay. Những soạn giả tên tuổi có Tsuruya Nanboku giỏi về tuồng ma quái (kaidan) và Kawatake Mokuami chuyên môn loại cường đạo trên sông nước (shiranamimono).
Sau đây, ta hãy bước vào lãnh vực học vấn của thời Genroku.
Cùng với sự ổn định chính trị cũa thể chế mạc phiên, Nho giáo với tư cách là môn môn học qui định phận sự của từng cá nhân trong xã hội cũng đã được phổ biến đến mọi tầng lớp người. Đặc biệt Chu tử học – cái học của Chu Hy - đặt nặng vấn đề trật tự trên dưới và lễ tiết - được mạc phủ cũng như các phiên rất hoan nghênh vì nó là vũ khí giúp họ duy trì trật tự nội bộ.
Một trường phái của Chu tử học có tên là Nam học (Nangaku) đã được nhà nho Tani Jichuu (Cốc, Thì Trung, 1589/1599-1649) của phiên Tosa (trên đảo Shikoku) thừa kế. Từ cửa ông đã xuất hiện những tài năng như Yamazaki Anzai (Sơn Kỳ Ám Trai, 1618-1682) và Nonaka Kenzan (Dã Trung, Kiêm Sơn, 1615-1663) , cả hai sau này sẽ giúp đỡ đắc lực cho đại thần Hoshina Masayuki. Đặc biệt Anzai là người đã đưa ra thuyết Suika Shintô (Thùy gia Thần đạo) [7] và dùng Nho giáo để giải thích Thần đạo.Một phái khác của Chu tử học là Kinh học (Kyôgaku). Người gây dựng ra phái ấy có tên Fujiwara Seika (Đằng Nguyên Tỉnh Oa, 1561-1619). Trong đám môn nhân của ông có Hayashi Razan (Lâm, La Sơn, 1583-1657) và Ishikawa Jôzan (Thạch Nguyên, Trượng Sơn, 1583-1672), Matsunaga Sekigo (Tùng Vĩnh Xích Ngũ, 1592-1657) Thêm vào đó, những người kế tiếp đường lối của Matsunaga Sekigo là Kinoshita Jun.an (Mộc Hạ, Thuận Am, 1621-1689), Arai Hakuseki (Tân Tỉnh, Bạch Thạch, 1657-1725), Muro Kyuusô (Thất, Câu Sào, 1658-1734) .
Hai nhà nho Fujiwara Seika và Hayashi Razan[8]
Như ta đã biết, ở Nhật Bản, Nho giáo dính líu chặt chẽ với cửa thiền qua việc nghiên cứu thi văn chữ Hán ở các tự viện. Cuối đời Sengoku, ở chùa Shôkokuji (Tướng Quốc), một trong Ngũ sơn của Kyôto, có một vị tăng là Fujiwara Seika (Đằng Nguyên Tinh Oa, 1561-1619), thuộc chi nhánh Reizei quí tộc Fujiwara và xuất thân từ Harima, đã trở thành khai tổ của Nho học cận đại ở Nhật Bản. Seika thân thiết với võ tướng cùng quê là Akamatsu Hiromichi, từng được Hideyoshi Hidetsugu, Hideyoshi Hidetoshi, Tokugawa Ieyasu mời đến hỏi đạo. Ông cũng thân giao và trao đổi nhiều với văn nhân và Nho gia lỗi lạc Kang Hang (Khương Hàng) một người Triều Tiên bị quân đội Hideyoshi bắt về. Ông đã từ bỏ Phật giáo, hoàn tục, miệt mài nghiên cứu Chu tử học mà ông nghĩ thích hợp cho chính trị của thời đại mình đang sống. Ông phủ nhận tri thức của các nhà bác sĩ chú thích kinh điển và tạo cho mình một học phong riêng. Học trò của Seika có nhiều người về sau rất nổi tiếng như Hayashi Razan (Lâm La Sơn), một tăng nhân hoàn tục khác (đến từ Kenninji). Khi Razan tự ý giảng Luận Ngữ mà không xin phép mạc phủ, bị các quan bác sĩ tố giác, Shôgun Ieyasu nghe chuyện, chỉ cười khà. Seika không thờ Hideyoshi và cũng chẳng đi theo Ieyasu. Thế nhưng Razan thì ngược lại, ông được Ieyasu mời về thành Shunpu làm cố vấn và sau này con cháu ông sẽ phụ trách truyền đời chức vụ quản lý ý thức hệ trong chính quyền Tokugawa. Đến nỗi, các luồng tư tưởng Nho học đứng ngoài chủ trương của gia đình và môn đệ của Razan đều bị coi như là “dị học” và chịu sự đàn áp.
.jpg)
Hayashi Razan và quang cảnh giảng dạy ở trường Shôheikô
Tại sao lại như thế? Hãy nghe chủ trương của Razan: “Căn nguyên của vạn vật trong vũ trụ đều có trật tự trên dưới, phân định rõ ràng. Xã hội con người cũng vậy: quân thần phụ tử, tôn ti quí tiện đã rõ”. Ông khẳng định chế độ giai cấp (mibun seido), thuyết thiên mệnh, thuyết danh phận...tất cả điều đó đều làm vui lòng mạc phủ vốn muốn trấn áp phong trào “hạ khắc thượng” của thời Sengoku cũng như mong thiết lập vững vàng cơ sở chính trị cho nhà chúa.
Hệ thống Nho học thời Edo
Niên đại
|
Chu Tử học phái
(Kinh học)
|
Chu Tử học phái (Nam học)
|
Dương Minh học phái
|
Cổ học phái
|
Các học phái khác
|
1600
|
Fujiwara Seika
|
Minamimura Baiken
|
|
|
|
1620
|
Hayashi Razan
Ishikawa Jôzan
Matsunaga Sekigo
|
Tani Jichuu
|
Nakae Toju
|
|
|
1640
|
|
|
|
|
|
1660
|
Hayashi Gahô
Kinoshita Jun.an (Mokumon)
|
Nonaka Kenzan
Yamazaki Ansai
(Kimon)
|
Kumazawa Banzan
|
Yamaga Sokô (Thánh học)
Itô Jinsai (Học phái Horikawa)
|
|
1680
|
Hayashi Nobuatsu
|
|
|
Itô Tôgai
Inou Jakusui
Ogyuu Sorai
(Phái Cổ văn từ)
|
|
1700
|
|
Satô Naokata
Asami Keisai
|
Miyake Sekian
|
|
|
1720
|
Arai Hakuseki
Amenomori Hôshuu
Muro Kyuusô
|
Miyake Shôsai
|
Nakai Shuuan
|
Aoki Konyô
Dazai Shundai
Hattori Nankaku
|
Phái chiết trung
(Setchuuha)
|
1740
|
Shibano Ritsuzan*
Miura Baien
|
Okada Kansen*
|
Nakai Chikuzan
Nakai Riken
|
|
|
1760
|
|
Koga Seiri*
|
|
|
|
1780
|
Hayashi Jutsusai
Bitô Nishuu*
|
|
Yamagata Bantô
|
|
Phái khảo chứng (Kôshôha)
|
1800
|
|
|
Satô Issai
|
|
|
1820
|
Rai San.yô
|
|
Ôshio
Heihachirô
|
|
|
1840
|
|
|
Sakuma Shôzan
|
|
|
1860
|
|
|
Yôshida Shôin
|
|
|
1880
|
|
|
|
|
|
-
Shibano, Okada và Bitô được gọi là Tam Bác Sĩ đời Kansei (Khoan Chính). Sau Koga thế chỗ Okada.
-
Tên in chữ đậm là những nhà tư tưởng và hành động quan trọng, ảnh hưởng đến các chí sĩ Duy Tân.
Đối đầu với Chu tử học là Dương Minh học. Nakae Tôju (Trung Giang, Đằng Thụ) và môn nhân của ông là Kumazawa Banzan (Hùng Trạch, Phiên Sơn, 1619-1691, hiệu Ryôkai = Liễu Giới) theo Dương Minh học, trường phái do nhà nho Vương Dương Minh đời Minh mở đường, chủ trương phê phán hiện thực và tìm về cái đạo đức tiềm ẩn trong tâm hồn con người để sau đó thể hiện nó qua việc làm. Với lập trường “tri hành hợp nhất” nghĩa là xem “sự hiểu biết phải đi đôi với việc làm”, tư tưởng của Vương Dương Minh có tính cách tân vì ông muốn giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội (vẫn thường hành xử kiểu nghĩ một đàng làm một nẽo).Do đó. Banzan bị Mạc phủ dè chừng, và nhân vì ông thường lên tiếng phê phán chính trị của nhà nước nên đã bị đày xuống vùng Shimôsa Koga (Chiba-Ibaraki bây giờ), giam trong thành Koga và mất ở đó.Tác phẩm chủ yếu của ông – Daigaku Wakumon (Đại học hoặc vấn, khoảng 1686 hay 87) – đưa ra 22 điều ngờ vực về kinh tế chính trị hàm ý chỉ trích mạc phủ một cách mạnh mẽ nên bị họ ngâm rất lâu không cho xuất bản. Banzan lại còn nói thêm rằng việc nhai lại những tư tưởng hủ lậu về trật tự đạo đức của Trung Quốc cổ đại là theo học “Tử học” chứ không phải Nho học.
Nhà tư tưởng Dương Minh học Kumazawa Banzan
Mặt khác, vẫn có người đi tìm ý nghĩa thâm thúy của Nho học mà họ cho rằng nó nằm bên trong những tác phẩm cổ điển do Khổng tử và Mạnh tử soạn ra. Đó là phái Cổ học do các ông Yamaga Sokô (Sơn Lộc, Tố Hành, 1622-1685) và Itô Jinsai (Y đằng, Nhân Trai, 1627-1705) xây dựng nên.
Bên trong phái Cổ học còn có một chi nhánh là phái Cổ văn từ học phái do Ogyuu Sorai
(Địch Sinh Tồ Lai, 1666-1728) cầm đằu. Họ tỏ ra quan tâm đến các vấn đề kinh tế, chính trị, chủ trương muốn bảo vệ thể chế mạc phiên thì phải ngăn chận không cho các đô thị được phát triển, còn samurai phải biết sử dụng đất đai để canh tác. Họ cũng đã mở đường cho môn học gọi là “kinh thế luận” tức lý luận “kinh thế tế dân”, chủ đích làm thiên hạ được yên ổn và cứu dân lành khỏi đói nghèo. Bản thân Sorai được Shôgun Yoshimune và đại thần đầu triều Yanagisawa Yoshiyasu dùng làm cố vấn chính trị để thi hành cuộc cải cách năm Hưởng Bảo (Kyôhô no kaikaku, 1716-1745). Đệ tử của Sorai, Dazai Shundai (Thái Tể Xuân Đài, 1680-1747) đã phát triển lý luận “kinh thế” ấy. Theo ông, samurai cũng phải tham gia thương mãi và kiếm lợi nhờ chế độ buôn bán độc quyền (senbai seido).
2.3 Sự phát triển của các ngành học thuật:
Sự phát triển Nho học là sự phát triển của một lối tư duy hiện thực và hợp lý, nó sẽ có ảnh hưởng lớn đến những ngành học khác của thời ấy. Ví dụ khoa lịch sử đã có có những nghiên cứu có tính thực chứng dựa trên cổ văn thư. Ngoài Arai Hakuseki, còn thấy xuất hiện một số nhân vật khác cũng triển khai được những phương pháp đánh giá lịch sử độc đáo của riêng họ.
Đóng góp quan trọng của khoa Sử[9]
Mạc phủ cũng như sĩ phu thời Edo rất chú trọng đến lịch sử. Mạc phủ đã ra lệnh cho gia đình Hayashi (Rinke = Lâm gia) soạn bộ Honchô tsuukan (Bản triều thông giám).Lãnh chúa đời thứ 21 của phiên Mito là Tokugawa Mitsukuni cũng cho gia thần bắt đầu thu thập sử liệu trên toàn quốc để soạn Dai Nihonshi (Đại Nhật Bản Sử). Honchô tsuukan đứng trên lập trường chủ nghĩa thuần lý của nhà Nho, bày tỏ sự bất mãn, công kích luận điệu coi Thiên hoàng Jinmu của Nhật Bản là hậu duệ của Thái Bá nước Ngô bên Trung Quốc. Còn Dai Nihonshi là bộ sách kỳ công vì tốn rất nhiều năm để hoàn thành. Từ lúc khởi công cho đến lúc soạn xong vào năm Meiji 39 (1906), tính ra mất đến 250 năm. Bộ sách vĩ đại này nghiên cứu sử Nhật từ đời Thiên hoàng Jinmu cho đến Thiên hoàng Go Komatsu, giải thích mọi sự kiện trên lập trường đại nghĩa danh phận của Chu tử học.
Phiên Mitô có lập trường trước là tôn vương (sonnô) sau phát triển thành tôn vương nhương di (sonnô jôi) tức phò vua đuổi ngoại xâm. Trung tâm của học phái đó là lãnh chúa của phiên Mito, một phiên ở phiá bắc Edo. Tokugawa Nariaki (Tề Chiêu). Ngày nay người ta biết học phái đó qua cái tên là Mitogaku. Chính những rônin có tư tưởng Mitogaku đã tổ chức thành công việc ám sát đai thần Ii no Naosuke, nghĩ rằng ông quá hèn yếu với Tây phương vì chưa có chiếu chỉ của Thiên hoàng mà đã ký hòa ước. Chính con trai Nariaki tức Yoshinobu (Khánh Hỷ) sẽ là người trở thành vị Shôgun thứ 15 tức cuối cùng của Mạc phủ Tokugawa. Việc Yoshinobu trao trả chính quyền cho Thiên hoàng Minh Trị (taisei hôkan = đại chính phụng hoàn) chưa chắc là vì sợ binh lực của đối phương nhưng mà vì bản tâm ông đã sẳn sàng đồng ý từ trước khi được nuôi dưỡng và lớn lên trong không khí tôn vương của Mitogaku.
Tokugawa Nariaki, lãnh chúa phiên Mito
Ngoài hai bộ sử kể trên, trong dân chúng còn có bộ Chuuchô jijitsu (Trung Triều sự thực) của Yamaga Sokô dựa lên lịch sử cổ đai của thời chư thần để xem Nhật Bản mới là trung tâm của thế giới chứ không phải Trung Hoa. Hơn nữa, Nhật Bản phải là quốc gia vượt trội lên hẳn Trung Quốc và Triều Tiên. Nó đã kích thích tinh thần bài ngoại (nhương di) của người Nhật lúc ấy. Riêng Tokushi yoron (Độc sử dư luận) của Arai Hakuseki thì trình bày vấn đề với sử quan đặc dị của ông, cho rằng chính quyền đã được chuyển tiếp từ xã hội công khanh quí tộc để sang tay xã hội quân nhân và khu phân thời đại lịch sử theo nhãn quan đó. Trong một cuốn sử khác Koshitsuu (Cổ sử thông), Hakuseki nhân nói về thời các thần, đã đưa ra kiến giải là “các thần cũng là người mà thôi” như cơ sở lý luận để nghiên cứu về chính trị cổ đại.
|
Tên sách
|
Năm soạn
|
Người soạn
|
Nội dung
|
1
|
Honchô tsuukan
( 310 quyển)
|
Hoàn thành
1670
|
Hayashi Razan
Hayashi Gahô
|
Lịch sử Nhật Bản theo thể biên niên như Tư Trị Thông Giám
|
2
|
Dai Nihonshi
( 397 quyển)
|
Hoàn thành 1907 sau 250 năm chấp bút
|
Tokugawa Mitsukuni chủ biên đầu tiên
|
Lịch sử khảo chứng theo quan điểm đại nghĩa danh phận của Chu Tử học
|
3
|
Chuuchô ji jitsu
(2 quyển)
|
Hoàn thành 1669
|
Yamaga Sokô
|
Phê phán Chu Tử học, bài báng việc sùng bái Trung Quốc.
|
4
|
Tokushi yoron
(3 quyển)
|
Hoàn thành 1712
|
Arai Hakuseki
|
Dùng để giảng cho Shôgun Ienobu. Coi quá trình chuyển quyền lực từ công khanh đến vũ gia như tất yếu lịch sử
|
Mặt khác, trong lãnh vực khoa học tự nhiên, đã có nhiều tiến triển về bản thảo học, ngành học xuất phát tự lâu đời ở Trung Quốc[10] và được truyền đến Nhật từ đời Asuka (cuối thế kỷ thứ 6 đến tiền bán thế kỷ thứ 7), cũng như trong các môn có tính thực chứng khác như y học hay nông học. Kaibara Ekiken (Bối Nguyên Ích Hiên, 1630-1714) chẳng hạn, đã viết những tác phẩm như Yamato Honzo (Đại Hòa bản thảo), Miyazaki Yasusada (Cung Kỳ, An Trinh, 1623-1697) viết Nôgyô Zensho (Nông nghiệp toàn thư) vv... Chúng đều được truyền bá rộng rãi.
Bản thảo là cây cỏ có vị thuốc cho nên bản thảo học là môn học nghiên cúu dược tính và hiệu quả của thực vật, động vật và khoáng vật.Ngoài ra, nhân vì người ta cần dùng đến phương tiện đo lường và tính toán trong việc buôn bán nên Wasan (Hoà toán) tức môn số học của người Nhật cũng phát triển. Người tên Seki Takakazu (Quan, Hiếu Hòa, 1640? -1708) đã có những nghiên cứu đặc sắc về phương pháp tính toán bằng đại số học theo bút toán (chứ không phải bàn toán), cũng như phép tính liên quan tới viên cầu (hình cầu tròn). Thiên văn và lịch học thì đã có Shibukawa Shunkai (hay Shibukawa Harumi, xưng hiệu Yasui Santetsu, 1639-1715 sử dụng lịch Trung Quốc để điều chỉnh độ chênh lệch giữa nó và lịch được áp dụng đương thời trong nước, để làm ra một thứ lịch mới cho Nhật Bản. Lịch này được gọi là Jôkyôreki (Trinh Hưởng lịch tức lịch làm ra trong niên hiệu Jôkyô, 1684-88). Nhờ công lao ấy mà Shunkai được mạc phủ bổ nhiệm làm Tenmonkata (Thiên văn phương), một chức vụ mới lập ra lần đầu tiên để lo việc làm lịch và đổi lịch.
Những công trình nghiên cứu về văn học quốc âm cũng bắt đầu vào thời đại này. Trước tiên phải kể đến Toda Mosui (Hộ Điền Mậu Thụy, 1629-1706) người đã nghiên cứu về những chữ bị cấm dùng trong khi làm thơ waka (chữ gọi là sei no kotoba, sei = chế). Sự cấm đoán đó đã được người ta đặt ra vào thời trung cổ. Theo Mosui, đó là một cấm đoán vô nghĩa. Ông chủ trương nên dùng cả những chữ thông tục (zokugo) trong khi làm thơ. Người nghiên cứu Man.yôshuu (Vạn Diệp Tập là Keichuu (Khế Trùng, 1640-1701) - một tăng lữ - đã dùng nhiều ví dụ cụ thể để chứng minh cho thuyết của Mosui mà ông thấy là một phát ngôn chính đáng. Keichuu đã viết Man.yôdaishôki (Vạn Diệp đại tượng ký), phê phán việc xưa nay người ta vẫn dựa vào quan điểm đạo đức để giải thích thơ waka. Kitamura Kigin (Bắc Thôn Quí Ngâm, 1624-1705) bỏ công nghiên cúu Genji Monogatari (Truyện Genji) và Makura no Sôshi (Chẩm thảo tử) với ý định tìm hiểu đâu là điều ngày xưa tác giả của chúng thực sự muốn bày tỏ.Những công trình nghiên cứu cổ văn này muốn ngược dòng thời gian để bắt gặp tâm tình người cổ đại. Ước muốn này, về sau sẽ được những nhà học giả quốc học thừa kế.
.jpg)
Họa sư Hokusai và một trong Fugaku sanjurokkei (Ba mươi sáu cảnh núi Fuji) của ông
Thứ đến, hãy bàn về mỹ thuật. Trong bộ môn hội họa, ngoài phái Kano (Kanoha, phái Thú Dã), còn có phái Tosa (Tosaha) trong hệ thống tranh Nhật truyền thống (Yamato-e) với họa sư Tosa Mitsuoki (Thổ Tá, Quang Khởi, 1617-1691), người được xem như họa sư của triều đình. Sau đó lại có hai cha con Sumiyoshi Jôkei (Trú Cát Như Khánh, 1599-1670), Kukei (Cụ Khánh, 1631-1705) vốn là một nhánh của phái Tosa đã ly khai. Họ xây dựng thành công trường phái Sumiyoshi và được mạc phủ dùng làm họa sư riêng ( ngự dụng họa sư = goyô-eshi). Đó là chưa kể Ogata Kôrin (Vĩ Hình Quang Lâm, 1658-1716) trước làm việc trong ngành may mặc đồ ta (gofuku) ở Kyôto, đã biết đem họa pháp trang trí của Tawaraya Sôtatsu (Tông Đạt, ? -1640, họa gia đời Momoyama và sơ kỳ Edo) – vào trong tác phẩm của mình, tạo cơ sở cho Rinpa (Lâm phái). Mặt khác, ở vùng Awa (nam Chiba bây giờ) có họa sư Hishikawa Moronobu (Lăng Xuyên, Sư Tuyên, ? - 1694) giỏi họa hình mỹ nhân, kép tuồng, đô vật. Ông bắt đầu làm tranh khắc gỗ (hanga = bản họa) với những chủ đề có tính phong tục, xã hội của loại tranh gọi là Ukiyo-e (phù thế hội) nói về trăm vạn cảnh đời diễn ra trước mắt. Ông rất được dân chúng yêu chộng. Lý do cũng vì hanga (woodcut, woodlock print) ngày xưa giống như bích chương (poster) bây giờ, giá rẻ dễ mua. Cảm giác mua hanga có ảnh một kép hát mà mình hâm mộ về treo trong nhà của người thời Edo cũng không khác hành động tương tự của người hiện đại treo hình thần tượng (idol) bao nhiêu. Có điều cần phải chú ý ở đây. Bức tranh tiêu biểu cho sự nghiệp của Moronobu là Mikaeri bijinzu (Tranh vẽ người đẹp ngoái nhìn) nhưng nó không phải là tranh mộc bản (khắc trên gỗ rồi in lại) mà là tranh chính tay ông vẽ bằng bút (nikuhitsu).
Về mặt sản phẩm thủ công, phải kể đến Nonomura Ninsei (Dã Dã Thôn Nhân Thanh, không rõ năm sinh và mất) người Kyôto, được xem như là ông tổ của Kyôyaki (Kinh thiêu) tức đồ gốm (thiêu) đặc sắc của vùng Kyôto vì đã biết áp dụng thủ pháp uwaetsuke (gắn tranh lên trên) để vẽ tranh màu (iroe = sắc hội) lên da gốm. Thừa hưởng phong cách đó, Ogata Kenzan (Vĩ Hình, Can Sơn, 1663-1743), người em trai của Kôrin, nghĩ ra cách vẽ tranh trang trí lên trên các loại gốm. Riêng về ngành nhuộm màu (irozome), có bậc đại sư là Miyazaki Yuuzen (Cung Kỳ Hữu Thiền, không rõ năm sinh năm mất, chỉ biết ông gốc gác là nhà tu và nghệ sĩ trang trí quạt) đã bắt đầu kỹ thuật nhuộm trên vải lụa sau mang tên mình, Yuuzenzome. Trên mặt xa tanh (rinzu = figured satin) hay kếp ( chirimen = crepe), ông đã biểu hiện được những mẫu hình hoa lệ được người kẻ chợ (chônin) yêu chuộng.

Tranh mỹ nhân của Kitagawa Utamaro (trái) và Suzuki Harunobu (phải)
Từ Ukiyoe đến Dương họa[11]
Thời Genroku, tranh Ukiyoe thường miêu tả cuộc sống tầng lớp thứ dân từ kép hát, mỹ nhân, người buôn thúng bán bưng đến đô vật cũng như phong cảnh thiên nhiên (36 cảnh núi Fuji) và sinh hoạt trên các tuyến đường giao thông (55 dịch trạm trên Tôkaidô). Thế rồi khi ảnh hưởng của phương Tây và Trung Quốc cận đại đến nơi, chúng lại đẻ ra các khuynh hướng hội họa dung hợp giữa truyền thống và cách tân. Chúng ta có thể tóm tắt những khuynh hướng chính trong đồ biểu sau đây:
Chủ đề / Khuynh hướng
|
Họa gia
|
Đặc trưng
|
Hội họa truyền thống
Tranh mỹ nhân / tranh kép tuồng
|
Hishigawa Moronobu
(1618?-1694)
|
Tập đại thành Ukiyoe. Định được vị trí tranh khắc gỗ.
|
|
Suzuki Harunobu
(1725?-1770)
|
Vẽ tranh khắc gỗ nhiều màu sắc. Đường nét tinh vi, biểu lộ rõ tình cảm nhân vật.
|
|
Kitagawa Utamaro
(1753?-1806)
|
Thiện nghệ về tranh đầu cổ (ôkubie). Màu sắc tươi tắn.
|
|
Tôyôsai Sharaku
(không rõ năm sinh và mất)
|
Có tính tả thực, chuyên về tranh kép tuồng.
|
Hội họa truyền thống
Tranh phong cảnh và sinh hoạt dân chúng
|
Utagawa Hiroshige
(1797-1858)
|
Định được vị trí tranh ukiyoe phong cảnh với bộ tranh 53 nhà trạm trên tuyến đường Tôkaidô.
|
|
Katsushika Hokusai
(1760-1849)
|
Tranh mỹ nhân và tranh minh họa cũng nhiều nhưng nổi tiếng nhất với bộ tranh 36 cách ngắm núi Fuji.
|
Hội họa cách tân / Sử dụng viễn cận pháp và phép vẽ với âm ảnh (bóng) từ Lan học
|
Hiraga Gennai
(1728-1779)
|
Giỏi cả khoa học lẫn văn học. Tự học phép vẽ Tây phương. Nổi tiếng với Seiyô fujin-zu (Tranh người đàn bà tây phương)
|
|
Shiba Kôkan
(1747-1818)
|
Học trò Suzuki Harunobu nhưng chuển qua vẽ tranh tả thực. Nổi tiếng với Shinobazu no ike-zu (Cảnh hồ Shinobazu).
|
|
Aôdô Denzen
(1748-1822)
|
Vẽ tranh bản khắc đồng. Tác phẩm tiêu biểu là Asamayamazu-byôbu (bình phong vẽ cảnh núi Asayama)
|
Hội họa cách tân / Khuynh hướng tả sinh (shasei) tức khách quan khi nhìn sự vật, theo phép viễn cận
|
Maruyama Ôkyo
(1733-1795)
|
Khai tổ của phái shasei theo phép viễn cận. Có Yukimatsu-byôbu (Bình phong vẽ cảnh tùng ở giữa tuyết).
|
Tả sinh / Ảnh hưởng Trung Quốc
|
Go Shun
tức Matsumura Gekkei
(1752-1811)
|
Thuộc phái gọi là Shijôha. Tác phẩm tiêu biểu là Ryuurogun kin zu-byôbu (tranh bình phong với liễu và cò)
|
Văn nhân họa (bunjinga = lối vẽ tài tử của văn nhân) / Ảnh hưởng Trung Quốc
|
Ike no Taiga
1723-1776
|
Học Nam họa và lập ra họa phái Nhật Bản Nam họa (Nam Tống).Tiêu biểu có những bức Juuben juugi (Thập tiện thập nghi)
|
Văn nhân họa có cả ảnh hưởng Trung Quốc lẫn Tây phương
|
Watanabe Kazan
|
Học giả Lan học có tư tưởng Duy Tân. Bức Takami Senseki-zô là tác phẩm vẽ chân dung nổi tiếng.
|

Chân dung Takami Senseki (của Kazan) Tranh người phụ nữ Tây phương (của Gennai)
[1] Con trai thứ 4 của Shôgun đời thứ 3 Iemitsu. Đã đi làm con nuôi dể nối dõi cho một phiên trấn nhưng sau được goi về nối nghiệp anh cả và Shôgun đời thứ 4 là Ietsuna 1641-1680) .
[2] Genroku (Nguyên Lộc, 1688-1704) chữ trong Tống Sử, tương ứng với niên hiệu của Thiên hoàng Higashiyama (Đông Sơn).
[3] Razan (La Sơn) là cha Gahô (Nga Phong, 1618-1680). Gahô lại là cha Hôkô (Phượng Cương) , ba đời đều làm nho quan.
[4] Nguồn: Najkajima Takashi trong Saikaku to Genroku Media (NHK Book) (trang 218-219).
[5] Nguồn: Nishiyama Shônosuke trong Yuujo (Kondô shuppansha) và Kin Ichikyô (Yuujo, karayuki, ianfu no keifu (Yu usankaku shuppan) (trang 242-243).
[6] Nguồn ; Nakazawa Nobuhiro trong Nihon no bunka (Natsume-sha) (trang 230-231)
[7] Thùy gia Thần đạo còn gọi là Nho gia thần đạo
[8] Nguồn Minamoto Ryôen trong Tokugawa shisô shôshi (Chuô shinsho) và Aihara Ryô trong Juugaku undô no keifu (Kôbundô atene shinsho) trang 220.
[9] Nguồn: Nihon no bunka (Natsume-sha xuất bản) (trang 244-245)
[10] Bản thảo học là dược học nhưng nội dung nghiên cứu không ngừng lại ở dược tính của cây cỏ đất đá mà có màu sắc bác vật học nên được coi là có phạm vi rộng rãi hơn. Sách đầu tiên (bản thảo thư) đã ra đời tự đời nhà Hán. Đạo sĩ đời nhà Lương ở Mạt Lăng là Đào Hoằng Cảnh (456-536) đại thành loại này với Thần Nông Bản Thảo Kinh và Thần Nông Bản Thảo Kinh Tập Chú vào khoảng năm 500. Sau đó qua các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, lúc nào cũng có người tham gia đóng góp mà hoàn bị hơn cả là Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân cuối đời Minh. Bản thảo học đã bắt đầu ở Nhật vào thời Nara (710-784) qua Honzô Wa.myô (Bàn thảo Hòa danh) 2 quyển do Fukane no Sukehito (Thâm Căn Phụ Nhân) soạn.
[11] Nguồn: Nihon no bunka (Natsume-sha xuất bản) (trang 226-229).