4-Tình hình giao thông và công nghiệp thời Edo:
4.1 Phát triển nông nghiệp thời Edo:
Phần trước, chúng ta đã đặt trọng tâm về chính trị ngoại giao, kể từ trang này, chúng ta sẽ xét về lịch sử xã hội, kinh tế của thời Edo.
4-Tình hình giao thông và công nghiệp thời Edo:
4.1 Phát triển nông nghiệp thời Edo:
Phần trước, chúng ta đã đặt trọng tâm về chính trị ngoại giao, kể từ trang này, chúng ta sẽ xét về lịch sử xã hội, kinh tế của thời Edo.
Trưóc tiên, cần nhấn mạnh rằng, nông nghiệp là lãnh vực đã phát triển nhiều hơn hết. Thật vậy, nông nghiệp là bộ phận sản xuất cơ bản của xã hội tiền cận đại. Đại đa số tầng lớp bị trị là nông dân, ở Nhật họ được gọi là hyakushô (bách tính, trăm họ). Do đó, cả mạc phủ lẫn các lãnh chúa đều đặt trọng tâm đường lối chính trị của họ vào việc chấn hưng nông nghiệp và cai trị nông dân (hyakushô). Sử sách hãy còn ghi chép lại một số quan điểm của các nhà cầm quyền thời đó về vai trò của người nông dân mà họ cai trị, một ví dụ tiêu biểu là Honsaroku (Bản tá lục) do Honda Masanobu (Bản Đa Chính Tín,1538-1616), chức Rôjuu, nguyên trấn thủ vùng Sado và mưu thần của Tokugawa Ieyasu, trứ tác. Trong đó, ông trình bày: “Nông dân (hyakusho) là căn bản của thiên hạ. Cho nên, muốn cai trị được họ, thì phải làm sao để họ không dư dã mà cũng không lâm vào cảnh thiếu thốn. Đó là điều quan trọng số một”. Ngoài ra còn thấy trong sách Shôhei yawa (Thăng bình dạ thoại), tác phẩm của Takano Jôdô (Cao Dã Thường Đạo, 1729-1815) của phiên Nagaoka câu nói: “ Muốn cai trị nông dân thì đừng để họ chết mà cũng đừng cho họ sống, cứ thế mà thâu tô thuế (niên cống = nengu)”. Hoặc như trong sách Seiiki Monogatari (Tây vực vật ngữ, tây vực ở đây ý nói các nước Âu Mỹ) của Honda Toshiaki (Bản Đa Lợi Minh, 1743-1820), tác giả đã trích dẫn câu nói mà chức quan Kanjô bugyô vào giai đoạn sau của cuộc cải cách năm Kyôhô (1716-1736) là Kan.o Haruhide (Thần Vĩ Xuân Ương 1687-1753) đã thốt lên: “ Dầu mè và nông dân là hai thứ càng vắt thì càng tiết ra nước”. Kiểu ăn nói như thế thật đúng là miệng lưỡi của viên quan Kanjô bugyô trông coi tài chánh từ sau cuộc cải cách năm Kyouhô (Hưởng Bảo)[1], một cuộc cải cách chỉ có dụng ý nengu zôchô (niên cống tăng trưng = trưng thu vượt trội tô thuế) nghĩa là vơ vét cùng kiệt nông dân.
Quan niệm về nông dân của người cầm quyền là như thế nhưng họ cũng lo ưu tiên cho việc phát triển nông nghiệp bằng cách đưa ra những biện pháp cụ thể như khai khẩn thêm ruộng đất mới, cải tiến nông cụ và phân bón, trồng trọt những giống cây có giá trị thương mãi cao. Đầu tiên, hãy xem việc khai khẩn đất hoang đã được mạc phủ xúc tiến như thế nào?
Vào thời Edo, vì nông nghiệp là trung tâm của hoạt đống kinh tế cho nên tăng thêm diện tích canh tác là điều tối quan trọng. Những cuộc đất khai khẩn là những nơi sơn dã hoang vu ngày trước người ta thường đến kiếm củi hay cây lá mục làm phân bón (phân xanh).Từ thời Sengoku (Chiến Quốc Nhật Bản) bước qua thời Edo, kỹ thuật khơi thông dòng nước (trị thủy) áp dụng vào việc khai thác các mỏ khoáng sản đã được chuyển qua áp dụng để bảo đảm việc tưới tiêu trong nông nghiệp.Do đó người ta đã có thể biến vùng đồng bằng hoặc vùng ven biển thành những dãi đất đại qui mô dùng cho canh tác.Nếu nói về kỹ thuật trị thủy của thời Sengoku thì không ai có thể quên được việc lãnh chúa Takeda Shingen đã xây con đê phòng lũ co cái tên là “Đê Shingen” (Shingen-dzutsumi).
Nhờ vậy mà diện tích nông địa trên toàn quốc đã tăng thêm rất nhiều. Vào đầu thời Edo, tính ra chỉ có 164 vạn chôbu (đinh bộ, đơn vị đo diện tích ruộng đồng ngang với một hectare) đất canh tác, đến đầu thế kỷ 18 (tức khoảng 100 năm sau), con số đó đã lên đến 297 vạn chôbu.
Đất mới được khai thác có thể chi ra nhiều loại.Vào thời kỳ đầu của mạc phủ Edo, người ta gọi là Dogô kaihatsu shinden (thổ hào khai thác tân điền) vì loại ruộng nương đó do các thổ hào (nông dân ở địa phương có của và quyền thế) xin phép khai khẩn. Thường thường tên cuộc đất được khai khẩn dính liền với tên người thực sự đứng ra khai khẩn.Ví dụ như Gorobê ở Shinano khai khẩn thì nó sẽ được gọi là “cuộc đất mới của anh Gorobê ở Shinano” (Shinano no Gorobe shinden). Ngày nay cách gọi theo như vậy hãy còn được thấy khi người ta nghiên cứu xuất xứ địa danh các vùng. Thứ đến là loại Daikan mitate shinden (Đại quan kiến lập tân điền). Có là những cuộc đất mà chức Daikan (quan chức đại diện mạc phủ xuống địa phương thu thuế) chỉ đạo và cho thi hành việc khai khẩn. Sau khi khai khẩn xong thì 1/10 tiền thuế (niên cống, tuế cống) sẽ được trích ra làm món tiền thưởng cho viên quan đó. Lối khai khẩn thứ hai này cũng thường thấy vào đầu đời Edo.
Thế rồi từ giữa thời Edo, lối khai khẩn thấy nhiều nhất là loại murauke shinden (thôn thỉnh tân điền) do xã thôn đứng ra xin phép khai khẩn hoặc loại chônin ukeoi shinden (đinh nhân thỉnh phụ tân điền) nghĩa là đất được khai thác nhờ có sự viện trợ tài chánh của người thành phố. Lý do là công việc trị thủy cho khu ruộng mới khai khẩn bao giờ cũng đòi hỏi một số vốn đầu tư kết xù. Khu ruộng mới khai khẩn có tên là Shiunji-gatashinden (Tử Vân Tự tả tân điền), - ruộng mới khai khẩn từ bải cạn do chùa Tử Vân Tự vùng Echigo (tỉnh Niigata ngày nay) - có khả năng sản xuất 1 vạn 7 nghìn thạch thóc (1 thạch = 180 lít). Kawaguchi shinden (Xuyên khẩu tân điền) ở Settsuu cũng tự hào có giá trị 1 vạn 5 nghìn thạch. Ngoài ra, con buôn giàu có ức vạn tên là Kônoike, nhờ làm nghề cho vay lấy lãi và vận tải hàng hóa, cũng đủ tài chánh để khai khẩn được Kônoike shinden.Những cuộc khẩn hoang thời Edo trung kỳ thật ra có liên quan rất lớn đến việc chấn chỉnh tài chánh của mạc phủ sau cuộc cải cách chính trị và kinh tế năm Kyôhô (Hưởng Bảo (1716-36) nhưng cùng lúc, nó cũng đưa đến nhiều tệ hại. Một là nó đã đẻ ra một tầng lớp thương nhân kiêm chủ nhân ông của vùng nông thôn có ruộng mới. Hai là nó đưa đến việc khai khẩn quá trớn, không theo kế hoạch nào cả, gây nên sự hỗn loạn trong dân. Những vùng cho đến lúc đó chưa được khai khẩn – như đã nói – là khu vực có tên magusaba (mạt trường, mạt = củi khô), nơi nông dân kiếm củi hay ủ cỏ làm phân bón. Nó nằm ở những nơi sơn dã hoang vu.Nay nều thành đất khai khẩn thì một số người sẽ mất miếng ăn nên việc khẩn hoang không phải là có ít người chống đối.Hơn nữa nếu có thêm đất thì hầu như toàn thể nông dân phải có thêm công việc, ngoài đất đai họ hiện phải lao động. Tuy là khi kiểm địa, quan trên đặc cách cho đất mới khai khẩn được giảm miễn tô thuế từ 3 đến 5 năm tức là quảng thời gian mới bắt đầu làm, chưa có hoa màu (kuwashita nenki = thu hạ niên quý, thu hạ = dưới lưỡi cuốc). Tuy nhà nước tỏ ra rộng lượng như thế nhưng có khi họ muốn qui tụ người khai khẩn ruộng mới cũng có khi chẳng ai chịu đến. Vì vậy, từ đầu thời Edo (1603) cho đến khoảng niên hiệu Keian (Khánh An, 1648-52) là lúc mọi người tích cực khai khẩn đất hoang, cũng có giai đoạn, người ta đổi sang lối suy nghĩ là chi bằng nâng cao hiệu suất sản xuất trên diện tích đất đai đã có cái đã.
Muốn nâng cao hiệu suất thì phải có những tiến bộ kỹ thuật. Hãy xem sau đây tình hình nông cụ và phân bón dưới thời Edo như thế nào.
Việc kinh doanh nông nghiệp dưới thời Edo chỉ có ở mức độ nhỏ (tiểu qui mô) nghĩa là trong vòng gia đình. Vì sự canh tác chỉ dựa trên một diện tích nhỏ và một số ít nhân công lao động, nông dân không thể nào sử dụng sức kéo của bò và ngựa một cách đại qui mô. Họ chỉ còn biết cố gắng cải tiến nông cụ để nâng cao sức sản xuất. Những thứ nông cụ dùng để thâm canh (cày, cuốc sâu) thì có loại cuốc lưỡi dài Bicchuuguwa (kuwa = cuốc, Bicchuu = Bị Trung, tên cũ của tỉnh Okayama), tuốt lúa thì có senbakoki (thiên xỉ tháp, bàn răng lược), tách vỏ trấu khỏi hạt gạo thì có tômi (đường ki, sàng sẩy thóc) và sensekiotoshi (thiên thạch đồ) (?), tưới nước vào ruộng thời dùng fumiguruma (đạp xa, guồng đạp nước)...Chúng khá phổ biến trong dân chúng. Nông cụ với những cái tên phức tạp này may là còn được giới thiệu lại trong tác phẩm Rônô yawa (Lão nông dạ thoại = Lời chuyện trò ban đêm của ông già làm nông) của Nakadai Yoshimasa (Trung Đài, Phương Xương) cũng như Nôgu benriron (Nông cụ tiện lợi luận = Bàn về sự có ích của nông cụ) do nhà nông học Ôkura Nagatsune (Đại Tàng, Vĩnh Thường, 1768- ? ) soạn. Phải nói là kỹ thuật trồng trọt và tri thức về nông cụ được ghi chép lại trong hai quyển sách này là những điều thật cần thiết cho nhà nông. Ngoài hai cuốn sách nói trên, còn phải kể đến Seiryôki (Thanh Lương Ký), tác phẩm về nông nghiệp soạn ra vào đầu thời cận đại. Có thể coi nó như là quyển nông thư (sách dạy nghề nông) tối cổ ở Nhật. Sau đó là Nôgyô zensho (Nông nghiệp toàn thư) do Miyazaki Yasusada (Cung Kỳ An Trinh) viết vào cuối thế kỷ 17. Ôkura Nagatsune còn trình bày phương pháp trồng tỉa 60 loại hoa màu trong Kôeki kokusankô (Quảng ích quốc sản khảo = Bàn về những nông sản đem đến nhiều ích lợi cho nước nhà), qua đó, ông còn muốn chứng minh rằng kỹ thuật canh tác của nhà nông ảnh hưởng đến sự phồn vinh của quốc gia biết chừng nào. Như thế, ta thấy rằng vào thời Edo, đã xuất hiện nhiều sách vở trình bày phương pháp canh tác thích ứng cho tình hình của từng địa phương một. Thật là thời đại toàn thịnh của nông thư vậy.
Về phân bón, cũng vào thời ấy, người ta thường ra những cánh đồng không hoặc rừng núi ngoài thôn làng, cắt cỏ và lá làm phân rải lên mặt ruộng cho nên loại phân xanh đó gọi là karishiki (cát phu = cắt và phủ). Vùng chung quanh đô thị, người ta sử dụng phân bắc (shimogoe) tức hai loại chất thải từ thân thể con người. Nhà nông ở ngoại ô đi đến những vùng dân cư đông đúc như joka-machi, lấy rau quả mình làm ra để trao đổi lấy phân ấy. Ngoài ra còn có các loại phân làm bằng xác cá mòi khô (hoshika), bã thực vật có dầu như vừng, lạc, đậu nành (aburakasu) và các thứ nước chắt và hèm rượu (shimekasu). Loại sau này dùng để bón cây công nghiệp như cây bông vải và phải trả bằng tiền. Do đó chúng có tên chung là kinpi (kim phì = phân bón tốn tiền).
Đời sống của nông dân thời ấy chủ yếu là tụ túc tự cấp nghĩa là tiêu dùng sản phẩm do mình làm ra. Tuy nhiên, đến khi sức sản xuất nông nghiệp đã cao rồi thì ngoài số gạo phải nộp như tuế cống (thuế) cho nhà nước, họ còn có được trong tay chút đỉnh gạo dư.
Mặt khác, cùng với thời gian, xã hội Edo mà trung tâm là khu vực các thành phố đã biến thành một xã hội tiêu thụ. Ảnh hưởng của nó cũng đã lan rộng về nông thôn.Văn hoá mới của vùng thành phố, từ cái ăn đến cái chơi, đã thôi thúc người dân thôn dã bắt chước theo đòi. Số gạo họ kiếm ra và còn dư (dư thừa mễ = yojômai), nông dân đem bán 4 ra ngoài tỉnh như sản phẩm và nhờ đó đã rủng rỉnh trong tay một ít tiền.
Ngoài ra, các loại cây công nghệ như dâu, gai, bông vải, hoa cải dầu (rape), cây gió (paper mulberry), ngay cả rau và thuốc lá ... - những sản phẩm do canh tác mà có (shôhin sakumotsu) - đều bị mạc phủ cấm đem bán ngoài thị trường. Thế nhưng trên thực tế, con số nhà nông sản xuất chúng và bán qua bán lại để kiếm tiền sinh lợi càng ngày càng đông đảo. Sản vật do canh tác mà làm ra tiêu biểu nhất là shiboku sansô (tứ mộc tam thảo = bốn thứ cây và ba loại cỏ). Tứ mộc gồm các thứ cây như sơn, trà, gió, dâu, còn tam thảo là (tơ) gai, hoa đỏ (benihana = safflower, một loại cây thân thảo cho dầu hay cho màu đỏ để nhuộm) và cây chàm (ai = indigo plant, cho màu xanh chàm trong công nghệ nhuộm).
Hoa benihana để nhuộm màu
Kết quả của hiện tượng này là nhiều làng xóm đã bị cuốn hút vào nền kinh tế hóa tệ xưa nay vốn chỉ diễn ra ở những vùng thành thị. Thực tình mạc phủ chỉ muốn đóng khung nông dân trong một nền kinh tế tự cấp tự túc chứ không muốn cho họ mó máy đến tiền bạc. Chẳng ngờ sự phát triển kinh tế đô thị (vốn không tự mình cung cấp cho mình được) đã kéo cả nông dân như thể đưa họ vào một cơn lốc xoáy của kinh tế hóa tệ. Điều này đi ngược lại những toan tính trước đó của tầng lớp cai trị tức mạc phủ và đảo lộn hoàn toàn quan niện của giới này về nông dân. Tóm lại, thời đại đã thực sự thay đổi và đi ra ngoài ý muốn của họ.Thế rồi, ở mỗi địa phương, nông dân tùy theo khí hậu, đất đai trong vùng mà trồng những loại cây có ích cho cuộc sống và có lợi về mặt giá cả thị trường. Ví dụ như vùng Dewa Murayama (Mogami vùng Đông Bắc) sản xuất loại hoa đỏ (benihana, safflower) để nhuộm màu, hai vùng Suruga (Shizuoka) và Yamashiro Uji (gần Kyôtô) thì chuyên trồng trà, Higo (nay là Kumamoto) sản xuất igusa (cói lác, rush) làm chiếu, Awa (thuộc Tokushima) có lá cây chàm (aidama) cũng dùng trong công nghệ nhuộm, Satsuma (Ryuukyuu) sản xuất đường đen (đường mía), Echizen (trung bộ Fukui) chuyên làm giấy viết thư cổ truyền từ bột cây gió (phụng thư chỉ = hôshogami), vùng Kai trồng nhiều nho (budô), vùng Kii nổi tiếng về cam.
4.2 Các ngành sản xuất khác:
Chúng ta có dịp nói nhiều về tình hình phát triển nông nghiệp nhưng cũng không nên quên sự tiến bộ của các ngành sản xuất khác. Mới đây, chúng ta đã đề cập đến việc xác cá mòi khô (hoshika) được dùng làm phân bón. Sở dĩ có được như thế là vì vùng Kujikuri (Cửu thập cửu lý), một bãi biển dài ở Azusa (Thượng Tổng, trung bộ tỉnh Chiba bây giờ), việc đánh cá mòi (iwashi, sardine) bằng lưới rà kéo trên mặt đất (jibikiami =địa duệ võng, duệ là kéo lê) vô cùng phát triển. Lưới kéo kiểu jibikiami là một loại lưới giăng ra rất rộng hai bên tả hữu, phần ở giữa hình vòng cung để cho cá dễ chui lọt. Nếu ngư dân nắm đầu dây hai bên mà rà kéo thì sẽ vây lại và tóm được cá. Xác cá mòi khô là một loại phân bón không thể thiếu được cho người trồng cây bông vải. Ở vùng kamigata (Kyôto và phụ cận), nhà nông rất yêu chuộng loại phân cá này và sau đó, nó đã phổ biến ra khắp nơi.
Từ cuối thời trung đại, hình thức đánh cá bằng lưới cố định gọi là teichiami (định trí võng) xưa kia là của ngư dân các vùng Settsu, Izumi và Kii, không xa Kyôto là bao, nay lan rộng khắp nước. Lại nữa, mỗi địa phương lại chuyên đánh một loại cá (và dùng những kỹ thuật) khác nhau. Vùng Hizen Gotô (năm đảo thuộc Saga-Nagasaki) chuyên đánh cá thu (maguro = tuna), Matsumae (nam tây Hokkaidô) trên miền bắc đánh cá mòi (nishin = herring, cũng là một giống cá mòi nhưng khác sardine)[2], vùng biển nội địa trung bộ tức Seto naikai đánh cá mè (tai = sea bream, có nơi gọi là cá điêu, cá hồng), vùng Tosa trên đảo Shikoku đánh cá ngừ (katsuo = bonito). Ngư dân các vùng Kii, Tosa, Hizen, Nagato (tỉnh Yamaguchi) vừa biết dùng lưới lẫn lao (mori = harpon) nên có thể đánh cả cá voi (kujira = whale). Ngoài ra, tuy không phải là đánh cá nhưng người Ezo cũng có một chuyên môn nổi tiếng là trồng loại rong konbu (sea tangle), một thực phẩm đến từ biển và rất được người Nhật yêu chuộng.
Nói về sản phẩm của biển cả, không nên bỏ qua muối ăn. Ruộng muối ngăn thủy triều lúc nước ròng và để cho khô đi (agehama enden) của thời trung cổ thì dựa vào một kỹ thuật đắp ruộng khá đơn sơ nhưng ruộng muối dẫn nước biển vào những thửa ruộng muối cố định (irihama enden) thời cận đại đòi hỏi một công trình thổ mộc phức tạp hơn.Vùng ven biển nội địa Nhật Bản là một trung tâm làm muối nổi tiếng từ thời này.
Nghề rừng cũng quan trọng bởi vì thời Edo việc kiến trúc các jôka-machi hay phố dưới chân thành là việc cần thiết và gấp rút cho sự vận hành của hệ thống kinh tế cả nước. Nhu cầu về vật dụng xây cất càng cao, ngành khai thác lâm sản càng trở nên quan trọng. Thời Edo trung kỳ, việc khai thác gỗ ở vùng Ezochi trên Hokkaidô đặc biệt phát triển.Những địa phương và loại gỗ quí mà các nơi đó sản xuất là bá hương (hinoki = Japanese cypress) của vùng Kiso (tây nam tỉnh Nagano), trắc bá (sugi = Japanese cedar, còn được dịch là tuyết tùng) của Akita. Trên rừng núi vá các cánh đồng phụ cận Kyôto, có những địa điểm được khoanh ra để chuyên trồng các giống cây nguyên liệu làm giấy hay chè và sơn cũng như các chất đốt như than, củi, mà lượng tiêu dùng mỗi ngày một cao.
Cây sugi (cryptomeria japonica)
Xin nói một chút về ngành khai thác khoáng sản. Các mỏ khoáng đều do mạc phủ trực tiếp kinh doanh. Nhờ có kỹ thuật đào bới, hút nước khỏi mỏ, tinh chế khoáng sản cao, kể từ hồi đầu thế kỷ 17, Nhật Bản đã nổi tiếng là một trong những nơi sản xuất nhiều bạc nhất trên thế giới. Thế nhưng, chỉ vì trong mậu dịch quốc tế, họ lại đi mua hàng nhiều hơn là bán hàng nên dần dần số quí kim dự trữ ấy đã di chuyển hết ra nước ngoài. Kể từ hậu bán thế kỷ 17, nhân vì khai thác quá mức, số bạc đào được giảm đi thấy rõ. Thay vào đó, sản lượng đồng tăng gia và đồng được dùng làm mặt hàng xuất khẩu qua cửa ngõ Nagasaki. Thép luyện từ quặng sắt (sa thiết) bằng phương pháp bễ thổi đạp bằng chân (tatara seiren) tại các lò[3] ở vùng Chuugoku (nam Honshuu) và Tôhoku (đông bắc Honshuu). Thép tốt (ngọc cương = tamahagane) có thể dùng cả vào việc chế đao kiếm xuất phát từ các vùng đó đã được thấy ở mọi nơi trong nước. Trong bối cảnh nông dân cần cải thiện nông cụ, kỹ thuật chế thép và nghề rèn đều có nhiều tiến bộ rõ rệt và điều này cũng dễ hiểu thôi.
[1] Ông Kan.o Haruhide này đặc biệt khinh miệt nông dân, loại người mà ông cho là không trung thành và chẳng có tiết tháo (fuchuu futei = bất trung bất trinh).
[2] Cá sardine còn được dịch là cá...xác đin và cá hareng là cá trích như theo một số từ điển.
[3] Cấu tạo của lò Tenbin-tatara (Lò hình cán cân) chẳng hạn: quặng sắt được nung trong lò ở chính giữa, hai bên có đặt bễ thổi (fuigo = xuy tử) đưa không khí vào để làm tăng nhiệt độ đến khi quặng chảy ra. Fuigo do thợ điều khiển bằng cách lấy chân đạp liên hồi.
2151
2347
2812
220323
130677
114573266