5-Cơ cấu thương nghiệp dưới thời Edo:
5.1 Những nhà phú thương buổi đầu:
Hệ thống thương nghiệp dưới thời Edo khá phức tạp, khó có thể trình bày một cách giản lược. Thiết tưởng chỉ nên nắm những điểm chính.
5-Cơ cấu thương nghiệp dưới thời Edo:
5.1 Những nhà phú thương buổi đầu:
Hệ thống thương nghiệp dưới thời Edo khá phức tạp, khó có thể trình bày một cách giản lược. Thiết tưởng chỉ nên nắm những điểm chính.
Trước tiên, hãy xét về giai đoạn Edo tiền kỳ, trước khi có lệnh Sakoku (Sakokurei = Tỏa quốc lệnh, 1635) hay lệnh bế quan tỏa cảng. Vào buổi đầu ấy, ở những cứ điểm kinh tế như Sakai, Kyôto, Hakata, Nagasaki, Tsuruga vv...có những tập đoàn nhà kinh doanh gọi là hào thương (gôshô) hoạt động. Đây là một danh từ có tính lịch sử và cũng dễ hiểu nên xin cứ gọi theo nguyên văn “hào thương” mà không cần dịch. Họ là những con buôn lớn, được chính phủ cấp giấp phép triện son (shuuin) để thuyền của họ được đi lại buôn bán. Họ kiểm soát được hệ thống cung cấp hàng hoá quốc nội và làm giàu với hoạt động đó. Ta có thể gọi họ là “hào thương buổi đầu”, những nhà mậu dịch có thuyền triện son (shuuinsen = châu ấn thuyền) đầu tiên.
Nhà buôn lớn Suminokura Ryôi
Ở vùng Kyôto có Suminokura Ryôi (Giác Thương Liễu Dĩ, 1554-1614) và Chaya Shirôjirô (Trà Gia Tứ Lang Thứ Lang, tên chung cho nhiều thế hệ nhưng đời thứ 3 là Kiyotsugu, 1584-1622, nổi tiếng hơn cả), vùng Settsu Hirano có Sueyoshi Magazaemon (Mạt Cát, Tôn Tả Vệ Môn, 1570-1617), vùng Sakai có Imai Sôkun (Kim Tỉnh, Tông Huân) là những con buôn hạng lớn.
Tuy nhiên, mạc phủ dần dần kiểm soát chặt chẽ việc mậu dịch và Nhật Bản bắt đầu bước vào giai đoạn sakoku. Hoạt động của các hào thương này chỉ còn giới hạn ở quốc nội. Thế nhưng như đã trình bày bên trên, ở quốc nội thì bấy giờ giao thông trên bộ, trên sông, trên biển đều đã được mạc phủ và các lãnh chúa ở phiên trấn ra sức mở mang nên mạng toàn quốc có thể nói là đã thành hình. Ai cũng có khả năng đi buôn. Những tay hào thương không còn thể nào vẫy vùng một mình một chợ như thủa xưa và hình ảnh hùng tráng buổi đầu của họ đã trở thành mờ nhạt.
5.2 Hoạt động của thương nhân ba đô thị lớn:
Ba đô thị lớn (tam đô) là Edo, Ôsaka và Kyôto. Vào hậu bán thế kỷ thứ 17, với mức độ dân số gia tăng, ba thành phố lớn ấy và các khu đô thị dưới chân thành (jôka-machi) trở thành trung tâm kinh tế cho cả nước. Trong đó, Edo được xem như đất thang mộc của mạc phủ (gọi là Shôgun no hizamoto = dưới đầu gối, cơ sở, của Shôgun). Còn Ôsaka thì từ xưa đã có truyền thống là nơi tụ tập và phân tán hàng hóa (gọi là tenka no daidokoro = nhà bếp của thiên hạ). Có thể nói hai nơi ấy là đầu mối của sự luân lưu tài hóa quốc nội. Tuy những thành phố nói trên, mỗi nơi đều có hoạt động kinh tế riêng lẻ nhưng hãy còn có liên hệ giữa chúng với nhau qua sự lưu thông, giao dịch.
Thử tưởng tượng trường hợp một lãnh chúa (daimyô) địa phương nào đó.Trước tiên, ông ta thu thập gạo tuế cống (nengumai) từ nông dân (hyakushô) trưng thu được trong phiên trấn của mình. Một phần gạo sẽ được trích ra dùng vào việc chi tiêu trong phiên nhưng phần lớn phải gửi vào kho hàng lớn (để bảo quản và sau đó đem bán lấy tiền) tên là kurayashiki (thương ốc phu, thương = kho, ốc phu = nhà rộng), đúng ra là những cơ sở cấp bậc nhà nước được thiết lập ở Edo và Ôsaka. Trong khi các lãnh chúa miền tây gửi lên kurayashiki của Ôsaka thì các lãnh chúa miền đông chuyển gạo vào kurayashiki ở Edo.Nơi đó đã có mặt các con buôn tên là kuramoto (tàng nguyên) hay kakeya (quải ốc). Hai loại người này làm công việc môi giới để bán ra ngoài gạo tuế cống do các phiên gửi lên cũng gạo tư nhân sản xuất được. Gạo gửi trong kho kurayashiki được gọi là nayamono (nạp ốc vật). Như thế, khi gạo bán xong thì các lãnh chúa sẽ có tiền, tư nhân bán được gạo cũng thế. Thương phẩm (gạo) thu nạp ở Edo và Ôsaka sẽ đi theo lộ trình đến các người tiêu dùng (shôhisha) vốn là cư dân ở các thành phố lớn qua sự trung gian của các toiya (tonya, nhà buôn sỉ), nakagai (nhà buôn nhỡ) và kouri (nhà buôn lẻ) với phương tiện giao hoán là tiền bạc.
Thành phố Ôsaka, sau khi tụ tập tài hoá các nơi, sẽ xuất hàng lên Edo nhờ các nhà buôn sỉ tức toiya. Tùy theo mặt hàng, toiya (vắn ốc, cũng gọi là tonya) sẽ phân tán những hàng mình giữ cho các đồng nghiệp đã tụ họp với nhau thành tổ hợp gọi là nakama. Họ là những người có mua cổ phần (kabu) trong tổ hợp nên còn gọi là kabu-nakama, và nhờ đó mà được độc quyền bán hàng. Khi mạc phủ bảo đảm cho họ độc quyền buôn bán như thế thì những người này cũng phải đóng 2 loại thuế doanh nghiệp đặc biệt gọi là unjô (vận thượng) và myôga (minh gia, myô = minh , u minh). Unjô thì dễ hiểu vì có thể xem nó như là thuế chuyên chở từ Ôsaka lên Edo, còn myôga thì bí hiểm hơn, có thể coi như một món lễ cảm ơn thần thánh phù hộ cho bình yên, nhưng ở đây chỉ có thể là cảm tạ ơn huệ của nhà nước đã giúp cho việc buôn bán được trơn tru. Ở Ôsaka, các toiya (vấn ốc) tất cả họp thành 24 tổ hợp như thế và được gọi chung là Nijuuyokumidoiya (Nhị thập tứ tổ vấn ốc)
Hai mươi tư tổ hợp này sẽ cho chất hàng lên các thứ thương thuyền Higaki-kaisen và Taru-kaisen (đã nhắc đến bên trên) để chở đến Edo. Nơi đây đã có sẳn 10 tổ hợp nhận hàng. Mười tổ hợp Edo có tên chung là Tokumidoiya (Thập tổ vấn ốc). Hàng hoá tiếp đến sẽ được những nakama này sẽ được phân tán ra trong các chợ của khu vực tiêu dùng mạnh số một Nhật Bản là thành phố Edo và cũng theo lộ trình toiya (hay tonya, nhà buôn sỉ), nakagai (buôn nhỡ) và kouri (buôn lẻ) đến tay shôhisha (người tiêu thụ) rồi thu tiền vào. Gạo tuế cống mà mạc phủ trưng thu được cũng được họ gửi ở nhà kho riêng gọi là Okura (Ngự tàng) được cất ở Asakusa thuộc nội thành Edo để bán lấy tiền qua trung gian các tay fudasashi (trát sai).
Nhân nói về từ fudasashi (trát sai) cũng cần giải thích thêm rằng, gạo tuế cống mạc phủ trưng thu được sẽ dùng vào việc cấp bổng lộc cho những người thân tín mà nhà chúa trực quản là các hatamoto (kỳ bản) và go-kenin (ngự gia nhân). Vì hạng người này không rành buôn bán nên các tay fudasashi sẽ thay họ đi đổi gạo lấy tiền giùm để được hưởng hoa hồng. Fudasashi là nguồn gốc của chữ nafuda (danh trát) cũng hiểu như danh thiếp (danh thích = meishi).Fudasashi sau này sẽ phát triển thành một nghề trung gian buôn gạo và cho vay gạo nữa.
5.3 Ba loại hóa tệ thời Edo:
Ta vừa đề cập đến cách lưu thông hàng hóa, nay củng nên nói đến việc lưu hành hóa tệ vì hai luồng này thường đi song đôi với nhau. Trước tiên, phải biết thời Edo đã có những loại tiền nào.
Vào thời Sengoku (Chiến Quốc Nhật Bản), các lãnh chúa khắp nơi trong nước thi nhau khai tháng quặng mỏ (vàng, bạc) để có phương tiện trang trải chi phí quân đội.Họ tự đúc cho mình những đồng vàng, đồng bạc riêng biệt. Đến khi Mạc phủ Edo thống nhất chính quyền, hoá tệ trên toàn quốc cũng phải thống nhất. Sau trận Sekigahara, hoá tệ bằng vàng và bạc làm theo qui cách chung đã được Tokugawa Ieyasu cho đúc với một số lượng thật lớn ở các lò đúc tiền gọi là Ginza (Ngân tòa) và Kinza (Kim tòa) vừa mới mở ra.
Phố Ginza ngày nay, trung tâm sầm uất của Tôkyô
Dưới thời Tokugawa Ieyau, tiền đồng và tiền vàng mang tên Keichô kingin (Khánh Trường kim ngân). Tiền vàng có miếng lớn (ôban), miếng nhỏ (koban), từa tựa như hình con thoi. Ôban dùng cho việc nghi lễ, được xem như có trị giá danh nghĩa là 10 lạng nhưng trên thực tế chỉ được trên dưới 8 lạng. Còn koban là tiền thông dụng, giá trị ngang 1 lạng vàng.
Tuy gọi chung là kim ngân nhưng tiền vàng khác tiền bạc. Trước tiên, nhà nước cho mở Kinza (Kim tòa, chỗ đúc tiền bằng vàng) ở cả Kyôto và Edo nhưng sau thống nhất tại một chỗ là Edo. Nơi đây, Gôtô Shôzaburô (Hậu Đằng Trang tam lang) được giao việc đúc loại hóa tệ gọi là keisuu kahei (kế số hóa tệ) theo đơn vị koban và ichibukin (nhất phân kim = tiền hình chữ nhật bằng vàng, tương đương 1/4 lạng).Theo định nghĩa thì keisuu kahei là tiền dùng để tính toán. Nó được đúc với một phân lượng kim loại thuần chất nào đó, theo một hình dạng nào đó và trên mặt cũng biểu thị một giá cả nào đó. Chủ yếu nó được dùng để tính toán trong giao dịch thương mại. Cũng cùng một hình thức và mục đích, xưa kia bên Trung Quốc có tiền “mã đề ngân”, một thỏi bạc lớn hình móng ngựa trị giá 50 lạng (khoảng 1.800g bạc)..
Tóm lại, với khái niệm kế số hóa tệ, khi ta có 10 đồng tiền 100 Yen thì ta sẽ có một số tiền tính ra là 1000 Yen. Đơn vị kim hóa tệ là lạng (lượng), phân và chu (châu) (ryô, bu, shu) [1]. Giá trị của chúng được tính theo “tứ tiến pháp” nghĩa là một lượng vàng thì có 4 phân, một phân vàng là 4 chu (châu).
Mặt khác, Ginza (Ngân tòa) hay chỗ đúc tiền bằng bạc ban đầu được mở ở Fushimi và Shunpu, sau chuyển đến Kyôto và Edo. Nơi đây, mạc phủ cho đúc các loại Shôryô kahei (Xứng lượng hóa tệ, xứng = cái cân) như chôgin (đinh ngân) và mameitagin (đậu phản ngân). Đinh ngân có thể xem là “đỉnh bạc” nặng trên dưới 43 nhận bạc (mỗi nhận là 3, 75g) , còn mameitagin có hình hạt đậu, có tên là mamegin hay tsubugin, đơn vị lẻ, phụ thuộc chôgin, cũng còn gọi là saigin (toái ngân) hay bạc vụn. Loại “xứng lượng hóa tệ” này khác với “kế số hoá tệ” ở chỗ là mỗi lần trao đổi, người ta phải đặt nó lên bàn cân (xứng) để biết trong lượng (lượng) thực sự, giám định giá trị thực sự của nó trước khi cho dùng. Do đó, đơn vị đo lường của nó là “sức nặng”, một quán (kan) bạc tương đương với 1.000 nhận. Để tính toán, người ta thường dùng những đỉnh bạc kéo dài ra nặng từ 42 đến 43 nhận cũng như những mẩu bạc vụn dùng kèm với chúng để điều chỉnh trọng lượng. Về sau nhà nước còn cho đúc hai thứ tiền kin-isshu (kim nhất chu), kin-ichibu (kim nhất phân) dù không phải làm bằng vàng để đóng vai trò “định vị ngân hóa” (teii ginka, đồng tiền bằng bạc dùng làm chuẩn). Đó là các đơn vị tiền tệ mang tên isshugin (nhất chu ngân), ichibugin (nhất phân ngân). Chúng được xem như công cụ của thời đại Tanuma (1781-1789, lúc chức Rôju là Tanuma Okitsugu, Điền Chiểu Ý Thứ, 1720-1788, nắm quyền chính trị).
Ba thứ tiền thời Edo (tam hóa chế độ)
|
Hóa tệ bằng bạc |
Hóa tệ bằng vàng |
Hóa tệ khác (tiền) bằng đồng và sắt. |
Giá trị tương đương do nhà nước định |
= Đỉnh bạc và bạc vụn để điều chỉnh cộng lại mà thành, từ 50 đến 60 monme (nhận, văn mục) |
= Một koban (tiền miếng hình thoi) tương đương 1 lạng vàng |
= Tính theo mon (văn tiền): giữa 4.000 và 10.000 mon. |
Phân chia thành đơn vị nhỏ |
Đỉnh bạc chia làm 12 thoi. Mỗi thoi trị giá 5 nhận, văn mục (monme). Chế độ “kế số” từ thời Edo trung kỳ tức năm 1765 trở đi) |
Một koban bằng 2 tấm nibukin (nhị phân kim) (chế độ từ năm 1818 trở đi) |
|
Giá trị tương đương do nhà nước định |
Một phân (bu) bạc gồm 4 tấm |
= Hay bằng 4 tấm ichibukin (nhất phân kim) |
|
Giá trị tương đương do nhà nước định |
Hai chu (shu) bạc gổm 8 tấm |
= Hay bằng 8 tấm nishuukin (từ 1697 trở đi) |
|
Giá trị tương đương do nhà nước định |
Một chu (shu) bạc 16 tấm |
= Hay bằng 16 tấm ichishuukin (từ 1824 trở đi) |
|
Năm Kan.ei (Khoan Vĩnh, 1624-1645), các loại tiền đồng và tiền sắt (thiết tiền = tessen) đã được đúc ở Sở đúc tiền (Zeniza = Tiền tòa) nằm ở Edo hay Ômi Sakamoto (gần Kyôto) để được dùng chung với tiền vàng và tiền bạc. Khi kinh tế hóa tệ phát triển mạnh và các loại tiền được dùng trong việc buôn bán hằng ngày rồi thì các Sở đúc tiền mọc lên khắp nơi trên toàn quốc. Tiền đúc vào năm 1633 (Kan.ei 13) được gọi là Kan.ei tsuuhô (Khoan Vĩnh thông bảo). Tiền có các đơn vị là kan (quan hay quán), mon (văn). Một nghìn mon thì ăn một kan. Đến giữa thế kỷ 17 hệ thống hoá tệ Nhật Bản đã được thành lập vững vàng trên 3 thứ hoá tệ cơ sở (vàng, bạc, tiền) gọi chung là “tam hóa” (sanka). Chúng đã đóng vai trò phát triển sự lưu thông tài hóa ở Nhật.
Đặc biệt vào hậu bán thế kỷ 17, ở những phiên trấn quan trọng, kinh tế địa phương mà trung tâm điểm là các vùng jôka-machi (phố dưới chân thành), đã phát triển mạnh mẽ. Nơi đó ta đã thấy có thông lệ sử dụng hansatsu (phiên trát) như một phương tiện trả tiền do phiên trấn phát hành, thương nhân cũng cũng dùng resatsu (lễ trát) của chính họ. Các loại giấy (trát = satsu) này, giống như chứng thư hay ngân phiếu tư nhân đời nay, đóng vai trò hỗ trợ cho việc thanh toán tiền nợ khi mà tình hình tài chánh của các phiên trấn lâm vào cảnh hao hụt và lượng tiền “tam hoá” không đủ dùng. Dù nói như thế, ta vẫn phải công nhận “tam hoá” như phương tiện giao dịch thương mại phổ biến nhất của thời Edo.
Việc trao đổi “tam hoá” đã được mạc phủ qui định theo một hệ thống tương đương ngay vào năm 1609 (Keichô 14). Hối suất công chúng (kôtei kansanritsu = công định hoán toán suất) qui định vào thời đó là 1 lạng vàng = 50 nhận bạc = 4 quan tiền. Năm 1702 (Genroku 15), chế độ này có sự thay đổi. Theo đó, 1 lạng vàng = 60 nhận bạc = 6 quan tiền. Thế nhưng trên thực tế, nó biến hóa tuy theo sự lên xuống của thị trường.
Để có một ý niệm về liên hệ giữa tiền bạc và vật giá thời Edo, ta có thể tham khảo con số do Viện Bảo Tàng Ngân Hàng Nhật Bản đưa ra như sau:
Một thạch (hộc, koku) gạo: trọng lượng ước chừng 150kg. Thời Genroku giá 1 koku gạo là 1 lạng vàng. Nếu tính theo giá gạo ở Nhật năm 1.988 là 3.767 Yen cho 10 kg thì 1lạng vàng là 56.505 Yen. Nếu tính 1USD là 100 Yen thì một lạng vàng giá 565 USD.
5.4 Edo chuộng tiền, Ôsaka chuộng bạc:
Trên thực tế, sự tiêu pha và trao đổi mậu dịch đã xảy ra như thế nào? Có thể mọi người sẽ ngạc nhiên khi biết rằng giữa Edo và Ôsaka, việc sử dụng hoá tệ giống như giữa hai nước khác nhau.
Ở miền đông Nhật Bản mà Edo là thủ phủ, chỉ có một chỗ đúc tiền vàng duy nhất dùng chung cho cả nước gọi là Kinza (Kim tòa).Hầu như mọi việc buôn bán đều dựa trên vàng. Thế nhưng ở miền Tây Nhật Bản nơi thành phố Ôsaka là trung tâm điểm, thương nghiệp đã có truyền thống từ trước, việc dùng bạc làm đơn vị tiền tệ trong buôn bán là phổ biến hơn cả. Vì thế người ta mới có câu: “Edo xài vàng, Ôsaka xài bạc” (Edo no kindzukai, Ôsaka no gindzukai). Sự tồn tại song hành của chúng, phải đợi đến thời Meiji khi hóa tệ được thống nhất mới thực sự chấm dứt.
Thế thì hỏi thử khi đem hàng hoá từ Ôsaka lên Edo bán, nhà buôn làm cách nào để đem bạc về Ôsaka? Dĩ nhiên họ phải cần đến những con buôn chuyên môn đổi tiền (ryôgae-shô) rất rành về hệ thống “tam hóa”. Trong số những nhà đổi tiền, đã thấy tên tuổi Mitsui Takatoshi (Tam Tỉnh, Cao Lợi, 1653-1737) [2], vừa bán quần áo vừa mở cửa tiệm đổi tiền ở vùng tam đô (tức ba đô thị lớn Kyôto, Edo, Ôsaka) với bảng hiệu Mitsui Ryôgaeten. Ngoài ra, Ôsaka có Tennôji-ya, Hirano-ya, Kônoike, ở Edo có Mitani, Kajima-ya, đều là những cơ sở đổi tiền nổi tiếng. Tuy nhiên ở đây ta chỉ đưa ra một ví dụ liên quan đến nhà buôn quần áo Mitsui mà lối buôn bán “nếu trả tiền mặt thì sẽ được tính cho giá phải chăng” (genkin (gin) kakene nashi) đã giúp họ trở nên giàu có.
Khi hàng hoá từ tay nhà buôn sỉ (toiya, tonya) ở Ôsaka qua tay nhà buôn sỉ ở Edo rồi, nhà buôn Edo sẽ đem tiền mình nợ đối tác ở Ôsaka trả gián tiếp qua tiệm đổi tiền Mitsui ở Edo. Việc này được gọi là kawase (vi thế = thế vì). Ví dụ nhà buôn sỉ Edo phải trả 100 lạng vàng tiền mua hàng thì anh ta sẽ đưa món tiền đó cho hãng Mitsui ở Edo, và bù lại, xin phát hành một tấm “ngân phiếu thế vì” cùng với tên tuổi người trả tiền cũng như người sẽ nhận tiền. Thế rồi nhà buôn ở Edo sẽ nhờ một người làm nghề văn thư tốc đạt (gọi với cái tên ngộ nghĩnh là hikyaku = phi cước) đem xuống Ôsaka trao cho nhà buôn dưới ấy. Nhà buôn Ôsaka bèn đem “ngân phiếu thế vì” này đến hãng Mitsui ở Ôsaka đề lãnh số bạc tương đương với 100 lạng vàng kia. Như thế, tiền bạc chỉ lưu động nội trong hai vùng, hoặc Edo hoặc Ôsaka mà thôi. Tấm phiếu thế vì (ngân phiếu, chứng khoán) là phương tiện thanh toán duy nhất mà đôi bên phải dùng. Những con buôn tiền sẽ làm giàu bằng cách thu phí từ những dịch vụ đổi chác như thế.
5.5 Con buôn nhỏ trong các thành phố lớn:
Cho đến đoạn này, chúng ta đã cố gắng đơn giản hoá vấn đề để có thể hiểu được cơ cấu lưu thông tiền tệ thời Edo vốn khá phức tạp. Ta mới chỉ nói đến những doanh nhân cỡ lớn như các nhà buôn sỉ toiya và con buôn cấp nhỡ nakagai họp thành nakama (tổ hợp ngành nghề). Thực ra, kẻ tiếp xúc trực tiếp với người tiêu thụ không phải là hai loại thương nhân nói trên nhưng chính là những con buôn nhỏ hơn nữa có tên là ko.uri (tiểu mãi). Họ rất đông đảo và có khi phải buôn bán lắt nhắt vì không có cửa hàng. Họ còn được gọi là furiuri (chấn mãi) hay boteburi (bổng thủ chấn, bổng = gậy, gánh, chấn= lắc qua lắc lại), tương đương với giới “buôn thúng bán bưng”, “quang gánh” của ta. Thế nhưng họ có vai trò rất quan trọng đối với người dân thành phố và dân các vùng ngoại ô. Tóm lại, đô thị thời Edo quả là một không gian sinh hoạt chung của nhiều giai tầng trong xã hội.
[1] Một shu (châu) như thế là 1/16 của một lượng (lạng) vàng hay 1/4 của một phân vàng vì một lượng (lạng) có 4 phân. Đó là đơn vị hoá tệ đã được định vào đời Tống bên Trung Quốc, truyền vào Nhật Bản trong niên hiệu Taihô (Đại Bảo, 701-704) trong lệnh năm Đại Bảo (Taihô no ryô, 701). Trong sắc lệnh ấy, chữ chu được viết dưới tự dạng chính tự có bộ kim bên cách chữ chu là đỏ và shu lúc ấy được định nghĩa như 1/24 của lượng (lạng).
[2] Mitsui Takatoshi là ông tổ của tài phiệt Mitsui, sáng lập nhà buôn Mitsukoshi, trước kia làm nghề buôn gạo, chuyên cho các lãnh chúa vay tiền. Sau 17673, đổi qua nghề buôn quần áo, mở tiệm ở Edo và Kyôto.
2151
2347
2812
220323
130677
114573266