I. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện, cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay và qui mô phát triển cho đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020
I. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện, cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay và qui mô phát triển cho đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020
Sự nghiệp giáo dục được xác định là "Quốc sách hàng đầu" nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước. Chăm lo sự nghiệp giáo dục, Đảng, Nhà nước ta rất coi trọng và đặt cao vai trò của người cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ địa phương trong công cuộc xây dựng đất nước nói chung và xây dựng vùng cao, vùng sâu, vùng dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở những vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn, đội ngũ cán bộ người dân tộc còn thiếu, trình độ dân trí còn thấp, kinh tế - xã hội chậm phát triển so với các vùng khác, hệ thống trường Phổ thông Dân tộc Nội trú ra đời với đặc trưng là trường chuyên biệt có nhiệm vụ chính trị quan trọng: tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các dân tộc, trước hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn kỹ thuật. Việc mở trường Phổ thông Dân tộc Nội trú còn nhằm đào tạo lực lượng lao động có trình độ văn hóa, kỹ thuật, có sức khỏe và phẩm chất tốt để tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước.
Được hình thành từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX, trường Phổ thông Dân tộc Nội trú ra đời nhằm tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực có trình độ cho vùng dân tộc, miền núi. Học sinh của trường Phổ thông Dân tộc Nội trú được Nhà nước nuôi dạy và bảo đảm các điều kiện để phát triển. Học sinh ăn, ở, học tập tại trường trong suốt quá trình học tập. Bằng những chương trình cụ thể, Nhà nước đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và tăng cường thiết bị cho hệ thống trường Phổ thông Dân tộc nội trú để trở thành trường có cơ sở vật chất tốt nhất ở các địa phương.
Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú là loại trường chuyên biệt mang tính chất phổ thông, dân tộc và nội trú; được ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách; lựa chọn bố trí cán bộ, giáo viên, nhân viên để đảm bảo việc nuôi, dạy học sinh; đồng thời, cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh của trường được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Nhà nước. Trường PTDTNT cấp THCS và cấp THPT hoặc là các trường PTDTNT liên cấp THCS và THPT là các trường nội trú đặc biệt. Các trường này dành cho con em các dân tộc thiểu số (từ 95% trở lên số học sinh là người dân tộc thiểu số, còn lại gần 5% số học sinh là người Kinh) sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế - xã hội. Nhà nước thành lập trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) cho con em các dân tộc thiểu số, con em các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực, góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này. Học sinh được ở tại trường và được cấp kinh phí ăn, ở.
Theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của trường PTDTNT do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, hệ thống trường PTDTNT gồm 2 cấp: Trường cấp huyện đào tạo cấp trung học cơ sở (THCS) được thành lập tại các huyện miền núi, hải đảo, vùng dân tộc và trường cấp tỉnh đào tạo cấp trung học phổ thông (THPT) được thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong trường hợp cần thiết, để tạo nguồn cán bộ là con em các dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn (62 huyện nghèo thuộc Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo do Chính phủ ban hành), UBND cấp tỉnh có thể giao cho trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cả cấp THPT; Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể giao cho trường PTDTNT trực thuộc Bộ đào tạo dự bị đại học và cấp THCS.
Ngoài việc được đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị như các trường THCS, THPT theo quy định đối với trường chuẩn quốc gia, trường PTDTNT còn được đầu tư khu nhà ở nội trú, nhà ăn cho học sinh; nhà công vụ cho giáo viên; nhà sinh hoạt, giáo dục văn hoá dân tộc với các thiết bị kèm theo và phòng học, thiết bị giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề phổ thông. Trường PTDTNT có nhiệm vụ tuyển sinh đúng đối tượng theo chỉ tiêu kế hoạch được giao hàng năm. Trường được phép tuyển sinh không quá 5% trong tổng số học sinh được tuyển là con em dân tộc Kinh định cư lâu dài ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Mỗi lớp học của trường có không quá 35 học sinh. Học sinh tốt nghiệp THCS, THPT ở trường PTDTNT được ưu tiên xét đi đào tạo tiếp theo chế độ cử tuyển.
Được sự quan tâm của các cấp, các ngành, đặc biệt là của UBND các tỉnh, các Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh đang hoàn thiện hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, đảm bảo nhu cầu dạy và học cho con em đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn. Cho đến nay tất cả các dân tộc thiểu số đều có con em theo học tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú. Một số dân tộc đặc biệt ít người (Lự, Ngái, Mảng, La Hủ, Si La...) đã được tổ chức đào tạo riêng tại trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc từ năm học 2005-2006.
Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú thực hiện chương trình, sách giáo khoa và biên chế năm học như các trường phổ thông cùng cấp học. Bên cạnh việc tổ chức dạy học, trường Phổ thông Dân tộc Nội trú còn tổ chức các hoạt động ngoài trường, ngoài lớp như lao động sản xuất, văn nghệ, thể dục thể thao, các sinh hoạt theo chủ đề, chủ điểm, tham quan du lịch; tổ chức các ngày lễ hội, Tết dân tộc góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Các hoạt động giáo dục văn hoá dân tộc góp phần nâng cao lòng tự hào dân tộc cũng như ý thức bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số, khích lệ học sinh tinh thần học tập, tự hào về dân tộc mình, đồng thời tăng cường hiểu biết, tôn trọng và đoàn kết với các dân tộc anh em, góp phần quan trọng vào việc giáo dục toàn diện cho học sinh các dân tộc.
Hệ thống các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú đã từng bước phát triển và khẳng định vị trí quan trọng trong sự nghiệp tạo nguồn đào tạo cán bộ cho vùng dân tộc, miền núi, góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu số. Nhiều học sinh của trường Phổ thông Dân tộc Nội trú đã trở thành nhà khoa học, nhà quản lý đang tham gia công tác tại các cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể và trong các doanh nghiệp từ Trung ương đến địa phương, đóng góp trí tuệ, sức lực xây dựng kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nguồn lực con người đóng vai trò có tính quyết định, ở các tỉnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số được Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Trong hệ thống các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú của tỉnh, trường Phổ thông Dân tộc Nội trú của huyện… thì trường Trung học Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh là trường trọng điểm có ý nghĩa đặc biệt trong sự nghiệp phát triển giáo dục miền núi, với mục tiêu tạo nguồn đào tạo cán bộ người dân tộc cho các huyện miền núi.
1. Củng cố và phát triển mạng lưới, qui mô và xây dựng trường PTDTNT đạt chuẩn quốc gia
1.1 Phát triển mạng lưới, quy mô của hệ thống trường PTDTNT
Hệ thống trường Phổ thông Dân tộc Nội trú với nhiệm vụ tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực có trình độ cao. Học sinh của trường được Nhà nước nuôi dạy và đảm bảo các điều kiện để phát triển.
Cho đến nay, hệ thống trường Phổ thông Dân tộc Nội trú đã phát triển mạnh:
- Năm học 2011 - 2012, hệ thống trường PTDTNT tiếp tục có sự phát triển qui mô, mạng lưới ngày càng đáp ứng nhu cầu tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực có chất lượng cao cho vùng DTTS và miền núi. Các địa phương đã chủ động quy hoạch mạng lưới trường PTDTNT giai đoạn 2010 – 2015, thành lập thêm nhiều trường PTDTNT nhằm đáp ứng nhu cầu tạo nguồn đào tạo cán bộ. Trường PTDTNT có ở 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với 300 trường bao gồm: 03 trường trực thuộc Bộ GD&ĐT, 50 trường cấp tỉnh, 247 trường cấp huyện với qui mô 80.832 học sinh PTDTNT hưởng học bổng chính sách, trong đó có 52.522 học sinh cấp THCS và 28.310 học sinh cấp THPT. Học sinh PTDTNT chiếm khoảng 7,6% số học sinh DTTS cấp THCS và THPT của cả nước (Tăng 09 trường so với năm học 2009 – 2010, trong đó có 06 trường cấp huyện đã được thành lập, đang xây dựng CSVC). Tính trung bình, đến năm học 2011 – 2012, qui mô trường Trung ương khoảng 1000 HS/trường, trường cấp tỉnh khoảng 485 HS/trường, trường cấp huyện khoảng 280 HS/ trường. Trong đó, trường có qui mô lớn nhất là 1.450 HS, trường có qui mô bé nhất là 140 HS.
1.2 Chất lượng giáo dục trong hệ thống trường PTDTNT
1.2.1 Thực hiện công tác tuyển sinh và phân luồng đào tạo
Việc tổ chức cho học sinh ở nội trú, bán trú trong các trường phổ thông đã đỡ cho các em phải đi lại vất vả, có nhiều thời gian hơn cho học tập. Nhờ mô hình này mà tỷ lệ học sinh đến trường đảm bảo hơn, chất lượng học tập cũng cao hơn. Học sinh ở các trường Phổ thông Dân tộc Bán trú là nguồn tuyển sinh có chất lượng vào các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú. Nhiều học sinh DTTS sau khi tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng trở về quê hương công tác.
Các địa phương đã chỉ đạo các trường PTDTNT thực hiện nghiêm túc công tác tuyển sinh theo quy định của Quy chế tuyển sinh THCS và tuyển sinh THPT (Ban hành kèm theo Quyết định số 12/2006/QĐ-BGDĐTngày 5/4/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và Quyết định số 24/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28/4/2008 sửa đổi bổ sung Điều 3 của Quy chế tuyển sinh trung học cơ sở v à tuyển sinh trung học phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 12/2006/QĐ-BGDĐT) và Quy chế tổ chức và hoạt động của trường PTDTNT (ban hành kèm theo Quyết định số 49/2008/QĐ-BGDĐT ngày 25/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Tuyển sinh đúng đối tượng, đúng quy mô được phê duyệt đối với từng trường, ưu tiên tuyển sinh đối với các dân tộc rất ít người (Thực hiện Quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Công tác tuyển sinh vào các trường PTDTNT được các địa phương và nhà trường chú trọng, kế hoạch tuyển sinh đã được xây dựng cụ thể. Chỉ tiêu tuyển sinh được cân đối đến từng xã trên cơ sở xem xét tỷ lệ dân số và cơ cấu dân tộc. Đối tượng tuyển sinh được quy định chặt chẽ, quy trình tuyển sinh nghiêm túc chọn lựa được những học sinh ưu tú của các dân tộc vào học. Việc tuyển sinh theo phương thức kết hợp thi tuyển với xét tuyển được các địa phương đánh giá là đã cải thiện rõ rệt chất lượng đầu vào của các trường PTDTNT.
Tuy nhiên, khó khăn trong công tác tuyển sinh được các nhà trường nêu ra vẫn là chất lượng nguồn tuyển, đặc biệt đối với các trường đang thực hiện phương thức xét tuyển. Trường PTVC Việt Bắc xét tuyển đầu vào có tỉ lệ 70% học sinh có học lực giỏi và khá, tuy nhiên khi tổ chức kiểm tra chất lượng đầu vào với 3 môn Văn, Toán, Ngoại ngữ thì nhiều em không đạt yêu cầu. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS của các trường PTDTNT cấp huyện được tuyển vào cấp THPT PTDTNT cấp tỉnh và Trung ương còn thấp (theo báo cáo của 33 đơn vị, năm học 2009-2010 là 27,8%).
Năm học 2011 – 2012 các trường PTDTNT trong toàn quốc đều thực hiện tuyển đủ chỉ tiêu tuyển sinh được giao. Các trường PTDTNT cấp THCS tuyển sinh lớp 6 theo phương thức xét tuyển, trong đó có khoảng 45% số trường tổ chức khảo sát HS dự tuyển 2 môn Toán và Tiếng Việt để nâng cao chất lượng đầu vào; trên 60% địa phương tuyển sinh vào lớp 10 trường PTDTNT áp dụng phương thức thi tuyển kết hợp với xét tuyển. Các địa phương đều ưu tiên chỉ tiêu để tuyển HS DTTS, vì vậy tỉ lệ HS người Kinh trong các trường PTDTNT đều thấp hơn tỉ lệ cho phép chỉ chiếm khoảng gần 3% trong tổng số học sinh (quy định cho phép từ 5% trở xuống). Có khoảng gần 70% chỉ tiêu tuyển sinh của các trường PTDTNT cấp THPT được dành để tuyển học sinh các trường PTDTNT cấp THCS. Nhiều địa phương có tỉ lệ gần 100% số HS PTDTNT tốt nghiệp THCS liên thông lên cấp THPT DTNT như: Điện Biên, Kon Tum, Hậu Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ...
Các trường trực thuộc Bộ GD&ĐT ngoài nhiệm vụ đào tạo đối tượng học sinh PTDTNT còn đào tạo các đối tượng học sinh khác như: Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc đào tạo hệ dự bị đại học với 505 HS, trường Hữu nghị 80 đào tạo 90 lưu học sinh Vương quốc Cam Pu Chia và 85 HS dân tộc Kinh của huyện đảo Cát Hải – Hải Phòng, trường Hữu Nghị T78 đào tạo 250 lưu học sinh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Trường PTDTNT tỉnh Bình Phước đào tạo lưu học sinh của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào...
Công tác phân luồng đào tạo trong các trường PTDTNT chủ yếu được thực hiện thông qua các biện pháp: Phân loại học sinh thông qua khảo sát năng lực học tập để định hướng nghề nghiệp; lồng ghép chương trình giáo dục hướng nghiệp vào nội dung các môn học; tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp, tư vấn nghề, tham quan, ngoại khoá; dạy học môn Công nghệ, dạy nghề phổ thông và tổ chức hoạt động lao động sản xuất...
Theo báo cáo của 33 đơn vị, kết quả phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS và THPT các trường PTDTNT năm học 2009-2010 như sau: Trong số 8.000 học sinh tốt nghiệp cấp THCS vào học cấp THPT ở các trường PTDTNT trực thuộc Bộ, PTDTNT tỉnh, huyện là 2.224 em (27,8%), 4533 em (56,7%) vào các trường THPT ở địa phương, 326 em (4,1%) vào học các TTGDTX, 176 em (2,2%) đi học các trường THCN; trong số 4160 HS tốt nghiệp THPT các trường PTDTNT, có 2091 em (50,3%) thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng và dự bị đại học dân tộc, 280 em (6,7%) đi cử tuyển ĐH, CĐ, TCCN, 283 em (6,8%) học TCCN, trung cấp nghề; số HS còn lại: 9,2% tốt nghiệp THCS và 36,2% tốt nghiệp THPT các trường PTDTNT trở về địa phương hoặc chưa nắm được thông tin.
Công tác phân luồng ở các trường PTDTNT chưa đi vào chiều sâu. Chưa có sự đồng thuận về tư tưởng và nhận thức đối với các ngành, các cấp, cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và cộng đồng về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phân luồng học sinh các trường PTDTNT. Công tác chỉ đạo phân luồng đào tạo HS PTDTNT chưa có định hướng cụ thể từ các cấp quản lý. Các địa phương chưa có hoặc chưa cụ thể hoá quy hoạch đào tạo cán bộ dân tộc nên việc tuyển sinh và đào tạo của trường PTDTNT còn bị động, lúng túng.
1.2.2 Thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục
Các Sở Giáo dục và Đào tạo ở các địa phương đã có văn bản hướng dẫn các trường PTDTNT thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục năm học trên cơ sở giữ nguyên tổng số tiết học của mỗi môn học, điều chỉnh thời lượng và tích hợp một số hoạt động giáo dục; chỉ đạo các trường PTDTNT thực hiện dạy giãn tiết một số môn học và bố trí vào thời khóa biểu chính khóa như: Toán, Văn, Tiếng Anh, Lý. Hóa, Sinh…để phù hợp với đối tượng HS. Các trường PTDTNT đã bố trí dạy tăng cường các môn Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh cho học sinh vào các buổi chiều để nâng cao chất lượng đại trà và bồi dưỡng HS giỏi, khá.
Các trường PTDTNT đều tổ chức dạy 2 buổi/ngày (Công văn số 7600/GDTrH ngày 26/8/2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn dạy học 2 buổi/ngày ở các trường PTDTNT và công văn số 7291/BGDĐT-GDTrH ngày 1/11/2010 về việc hướng dẫn dạy học 2 buổi/ngày đối với trường trung học) theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS, THPT, buổi sáng tổ chức dạy học theo Chương trình của Bộ ban hành, buổi chiều tổ chức dạy học các môn tự chọn, chủ đề tự chọn, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông, giáo dục quốc phòng, phụ đạo HS yếu, bồi dưỡng HS khá, giỏi và tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Từ đầu năm học, các trường tổ chức khảo sát chất lượng, phân loại đối tượng , phân công cụ thể giáo viên lên kế hoạch và tổ chức dạy học phân hóa theo năng lực và nguyện vọng của HS DTTS.
Việc thực hiện dạy giãn tiết các môn Toán, Văn, Tiếng Anh, Lý, Hóa, Sinh được bố trí vào thời khóa biểu chính khóa theo chỉ đạo của Sở GDĐT. Các trường PTDTNT đã bố trí dạy tăng cường các môn Toán, tiếng Việt, tiếng Anh cho HS vào các buổi chiều để nâng cao chất lượng đại trà và bồi dưỡng học sinh mũi nhọn. Các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long đã tổ chức dạy tiếng Khmer chương trình tiểu học (Trình độ A, B, C, D) trong trường PTDTNT (Trà Vinh, Sóc Trăng,...).
Ngoài việc thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục theo cấp học phổ thông, các trường trực thuộc Bộ GD&ĐT còn thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục cho học sinh dự bị đại học (Trường PTVC Việt Bắc), chương trình tiếng Việt và dự bị đại học cho học sinh Lào và học sinh Cam Pu chia (Trường Hữu nghị T78 và trường Hữu nghị 80).
Tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đã được các trường thực hiện theo quy định. Đặc biệt một số trường đã đưa một số nội dung giáo dục hướng nghiệp, giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức địa phương, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục phòng chống HIV/AIDS, giáo dục phòng chống tội phạm và an toàn giao thông, các hoạt động ngoại khóa, tham quan,... vào hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được học sinh, giáo viên hưởng ứng và có hiệu quả giáo dục rõ rệt.
Các trường đã thực hiện tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học trong một số môn học và hoạt động giáo dục. Đối với cấp THCS việc tích hợp chủ yếu thực hiện qua các môn học Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Vật lí, Sinh học và Công nghệ; đối với cấp THPT tích hợp qua các môn học Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân, Vật lí, Hoá học, Sinh học và Công nghệ.
Tổ chức hoạt động giáo dục nghề phổ thông trong trường PTDTNT với hai hình thức tổ chức chủ yếu là dạy tại trường và liên kết với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp của địa phương. Các trường tập trung vào các nhóm nghề như: Làm vườn, thú y, lâm sinh, may mặc, điện dân dụng, mộc, y tế thôn bản, vi tính văn phòng. Một số trường còn tổ chức dạy nghề truyền thống cho HS như dệt thổ cẩm, đan lát, thêu...
Hoạt động lao động sản xuất và lao động công ích tiếp tục được các nhà trường PTDTNT phát huy như lao động vệ sinh trường lớp, khu nội trú, trồng cây và chăm sóc cây, trồng rau xanh, nuôi lợn, thả cá...
Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc được các nhà trường PTDTNT duy trì đều đặn với nhiều nội dung phong phú như: Tổ chức Hội khỏe phù đổng cấp trường, tổ chức ngày tết dân tộc, hội thi học sinh các dân tộc thanh lịch, thi văn nghệ, thể dục thể thao, tìm hiểu văn hóa các dân tộc, khu di tích lịch sử.. Các trường PTDTNT luôn là hạt nhân khi tham gia phong trào văn nghệ, thể dục thể thao ở địa phương. Các hoạt động đều có sự tham gia tích cực của các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường nên đã mang lại hiệu quả giáo dục thiết thực.
1.2.3 Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
Các Sở GD&ĐT đã nghiêm túc chỉ đạo việc đổi mới PPDH và KTĐG trong các trường PTDTNT. Tạo điều kiện và tổ chức cho các GV tham gia tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, đổi mới PPDH theo hướng tăng cường tương tác sư phạm trong quá trình giảng dạy, tích cực hóa quá trình nhận thức, quá trình tư duy của HS DTTS, tổ chức các hội thảo nâng cao chất lượng dạy học các môn học, đổi mới kiểm tra đánh giá. Các tổ chuyên môn trong trường PTDTNT đã tổ chức sinh hoạt thường xuyên theo chuyên đề, hội thảo cấp tổ, thảo luận các bài dài, bài khó, giáo viên trong tổ được học hỏi trao đổi kinh nghiệm với nhau. GV nghiên cứu và đề ra cách giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình dạy học. GV viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong tổ, trong trường, phổ biến ứng dụng trong thực tế giảng dạy và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm.
Các trường PTDTNT tăng cường ứng dụng CNTT&TT trong dạy học và quản lý. Cho đến nay, các trường PTDTNT đều có phòng máy vi tính, kết nối Internet, sử dụng các phần mềm trong công tác quản lý như: phần mềm kế toán, phần mềm xếp thời khóa biểu, phần mềm quản lý điểm, phần mềm quản lý thư viện…
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã được chú trọng, các trường PTDTNT khuyến khích và tạo điều kiện giáo viên mua sắm máy tính cá nhân, tra cứu thông tin trên mạng, áp dụng vào soạn bài giảng theo hướng phát huy tính tích cực, rèn luyện kỹ năng tự học, tự nghiên cứu nhằm tạo hứng thú trong học tập của học sinh. Nhiều trường PTDTNT đã lập Website phục vụ cho công tác quản lý, trao đổi, chia sẻ thông tin, phổ biến kinh nghiệm dạy học, chăm sóc, nuôi dưỡng học sinh nội trú (PTVC Việt Bắc, PTDTNT tỉnh Cao Bằng, PTDTNT Quảng Nam,...). Trường PTDTNT tỉnh Quảng Nam đã triển khai lập “Nguồn học liệu mở” trên Website của trường thiết thực và bổ ích. Các trường khuyến khích giáo viên thường xuyên truy cập mạng Internet để khai thác tư liệu điện tử tích hợp vào giáo án dạy học tích cực có ứng dụng CNTT&TT và giáo án dạy học tích cực điện tử (giáo án điện tử). Tăng cường các tiết thao giảng có ứng dụng hiệu quả, hấp dẫn CNTT&TT tránh lạm dụng CNTT&TT như là chỉ thiết kế được Bản trình chiếu điện tử/Bản trình diễn điện tử và tiến hành trình chiếu trong cả tiết học, từng bước xóa quá trình dạy học thụ động: “đọc – chép”, “chiếu – nhìn – xem – chép”, “chiếu – nhìn – đọc – chép”, phối hợp hiệu quả giữa TBDH truyền thống và TBDH hiện đại, thiết kế TBDH tự làm; nghiêm túc tổ chức việc xây dựng ma trận đề kiểm tra theo sự hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo…biến quá trình dạy học thành quá trình dạy học tích cực, nhằm tích cực hóa quá trình nhận thức, quá trình tư duy của HS DTTS…
1.2.4 Tổ chức các hoạt động giáo dục đặc thù
Tổ chức và quản lý HS DTTS ở nội trú: các trường PTDTNT đã tổ chức bộ máy quản lý nội trú theo quy định, xây dựng và quán triệt HS DTTS thực hiện các nội quy của khu nội trú, quy tắc ứng xử văn hóa trong trường PTDTNT, trong khu nội trú
Các trường PTDTNT đã chú trọng xây dựng nội quy khu nội trú, nội quy phòng ở, phổ biến và hướng dẫn học sinh thực hiện. Nhiều trường có tổ quản sinh để quản lý, giáo dục học sinh ngoài giờ lên lớp, đặc biệt là quản lý hoạt động tự học, lao động tăng gia cải thiện cuộc sống, giáo dục học sinh đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong học tập và sinh hoạt trong khu nội trú.
Hoạt động nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho HS nội trú được các trường quan tâm tổ chức như: Hàng tuần tổ chức thi đường lên đỉnh Olympia, rung chuông vàng, dạ hội các dân tộc, thi trang phục dân tộc, thi văn nghệ, thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ, hội thi kể chuyện Bác Hồ…đã tạo không khí phấn khởi, thân thiện, đoàn kết và thi đua trong khu nội trú.
Các trường đã chú trọng giáo dục những kỹ năng thiết thực cho HS nội trú, đặc biệt là số học sinh đầu cấp như: Cách sử dụng các thiết bị trong phòng ở, vệ sinh cá nhân, cách gấp và phơi chăn màn, quần áo, cách xưng hô, giao tiếp với thầy cô, bạn bè… Các trường đã phát động phong trào anh chị lớp trên hướng dẫn, bảo ban các em lớp dưới, vì vậy HS nội trú nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống tập thể. Tổ chức giáo dục HS nội trú với nhiều nội dung và hình thức phong phú: giáo dục đạo đức, nếp sống văn hóa, giáo dục HS đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập và sinh hoạt ở khu nội trú, giáo dục HS kỹ năng sống tập thể, kỹ năng tự chăm sóc bản thân để HS nội trú nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống tập thể, giáo dục kỹ năng sống…
Công tác chăm sóc sức khỏe cho học sinh được duy trì, các trường tổ chức khám bệnh, tiêm phòng, cân đo học sinh theo định kỳ. Công tác phòng chống dịch bệnh và giáo dục học sinh chăm sóc sức khỏe hàng ngày đã được các nhà trường thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả như: Tổ chức vệ sinh trường, lớp, khu nội trú, tiêm phòng cho HS, giáo dục HS ăn uống điều độ, hợp vệ sinh..., vì vậy trong năm học sức khỏe của học sinh đã được đảm bảo.
Tổ chức đời sống vật chất, chăm sóc sức khỏe cho HS nội trú: mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang bị nhà bếp, biến động của giá cả lương thực, thực phẩm, nhưng các trường đã thực hiện tốt công tác nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe cho HS DTTS. Việc tổ chức nấu ăn cho HS được các trường xem xét cụ thể để lựa chọn phương án phù hợp. Các trường PTDTNT tỉnh Lào Cai, PTDTNT tỉnh Quảng Nam, PTDTNT tỉnh Kiên Giang…tổ chức nấu ăn 3 bữa/ngày cho HS (ăn sáng và 2 bữa chính), các trường PTDTNT Điện Biên, Phú Yên, An Giang…tổ chức cho HS 2 bữa/ ngày (2 bữa chính). Công tác chăm sóc sức khỏe cho HS đã được các nhà trường thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả như tổ chức khám bệnh, tiêm phòng, cân đo HS DTTS theo định kỳ, giáo dục HS ăn uống điều độ, hợp vệ sinh…
Tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ HS nội trú tự học: hướng dẫn HS lập kế hoạch, thời gian biểu để tự học, tổ chức cho HS tự học trên lớp và ở nhà, lập dàn bài chi tiết để tự học, truy cập Internet để lấy các thông tin hỗ trợ việc tự học…
Tổ chức đời sống tinh thần, vui chơi cho HS nội trú được các trường hết sức quan tâm: tổ chức ngày lễ, tết dân tộc, thi HS DTTS thanh lịch, thi tìm hiểu văn hóa các dân tộc, thi văn nghệ, thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ, giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức địa phương…
Tổ chức dạy tiếng dân tộc trong các trường PTDTNT: các tỉnh Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng…tổ chức dạy tiếng Khmer cho HS các trường PTDTNT cấp tỉnh và cấp huyện, tỉnh Yên Bái dạy tiếng Hmông, tỉnh Đắk Lắk dạy tiếng Êđê…Việc dạy học tiếng dân tộc đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc, phát triển nhân cách HS DTTS, góp phần bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc cho HS DTTS.
Về giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề truyền thống: hoạt động giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề truyền thống của các trường PTDTNT được lồng ghép vào các nội dung môn học, dạy học môn công nghệ, tổ chức hoạt động lao động sản xuất cải thiện đời sống (lao động vệ sinh trường lớp, khu nội trú, trông cây và chăm sóc cây, trồng rau xanh, nuôi lợn, nuôi cá…Các trường PTDTNT của tỉnh Ninh Thuận, Lâm Đồng đã tổ chức dạy nghề truyền thống, dệt thổ cẩm cho HS, đạt kết quả tốt được phụ huynh học sinh và cộng đồng địa phương rất hoan nghênh.
Tuy nhiên, công tác quản lý nội trú ở một số trường PTDTNT vẫn chưa được tốt, có trường chưa tổ chức bếp ăn cho HS, vệ sinh phòng ở của học sinh chưa thường xuyên sạch sẽ, tài sản của nhà trường trong khu nội trú chưa được giữ gìn bảo quản. Một số địa phương có tỉ lệ học sinh hưởng học bổng ở nội trú thấp, chủ yếu ở cấp THCS (trường PTDTNT huyện), nguyên nhân được cho là giao thông đi lại thuận lợi, CSVC nhà trường xuống cấp, phòng ở của học sinh thiếu và chật chội.
1.2.5 Chất lượng giáo dục
Các trường PTDTNT đã thực hiện nhiều biện pháp để duy trì sĩ số và tỷ lệ chuyên cần của HS trong năm học. Việc tạo môi trường học tập, cuộc sống nội trú thân thiện, ấm cúng như chính ngôi nhà của các em đã động viên khuyến khích HS DTTS yên tâm học tập. Đa số các em đều cố găng học tập, tu dưỡng rèn luyện để đạt kết quả cao nhất. Tỷ lệ HS DTTS có hạnh kiểm tốt, khá của năm học trên 95%.
Kết quả học tập của HS PTDTNT năm học 2011 – 2012
Cấp học |
Tổng số HS |
Xếp loại học lực (%) |
|||
Giỏi |
Khá |
Trung bình |
Yếu, kém |
||
Cấp THCS |
52.220 |
9,2% |
41,5% |
43,3% |
6% |
Cấp THPT |
28.612 |
3,7% |
37,2% |
50,3% |
8,8% |
So với năm học 2009 – 2010, cấp THCS tỷ lệ học sinh có học lực giỏi tăng 3,8%, học lực khá tăng 3,5%, học lực trung bình giảm 7,4%, yếu kém không thay đổi; cấp THPT học lực giỏi tăng 0,6%, học lực khá giảm 1,5%, học lực trung bình tăng 2,4%, học lực yếu, kém giảm 1,5%.
Trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia cấp THPT năm 2012, có 26 HS trường PTDTNT đạt giải, trong đó có 2 giải nhì, 4 giải ba, và 20 giải khuyến khích. Trong đó có 15 HS trường phổ thông vùng cao Việt Bắc đạt giải, bao gồm 2 giải nhì,4 giải ba và 9 giải khuyến khích.
Kết quả tốt ngiệp THCS và THPT của HS DTTS năm học 2011 – 2012
Cấp học |
Tổng số HS dự xét/dự thi tốt nghiệp |
Tổng số đỗ tốt nghiệp |
Đỗ tốt nghiệp loại (%) |
Ghi chú |
|||
Giỏi |
Khá |
Trung bình |
|||||
Cấp THCS |
10.837 |
10.816 (99,8%) |
8,56% |
44,24% |
47,2% |
Thống kê báo cáo của 43 Sở GD&ĐT và 2 trường trục thuộc Bộ GD&ĐT |
|
Cấp THPT |
6.661 |
6.629 (99,52%) |
4,1% |
35,6% |
60,3% |
Thống kê báo cáo của 49 trường PTDTNT cấp tỉnh và 3 trường trục thuộc Bộ GD&ĐT |
|
Năm học 2009 – 2010, tốt nghiệp THCS của các trường PTDTNT đạt tỷ lệ 98,5%. Tốt nghiệp THPT của các trường PTDTNT năm học 2008 – 2009 là 83,43%, năm học 2009 – 2010 là 93,02%, năm học 2010 – 2011 là 96,8%).
1.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý, nhân viên của trường PTDTNT
Các trường PTDTNT được bố trí đủ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên theo định mức quy định tại Thông tư 59/2008/TT-BGDĐT ngày 31/10/2008 của Bộ GDĐT Hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp giáo dục ở các trường chuyên biệt công lập (Trường PTDTNT cấp tỉnh là 2,4 gv/lớp, trường PTDTNT cấp huyện là 2,2 gv/lớp. Trong năm học qua, một số địa phương đã tiến hành luân chuyển những cán bộ giáo viên trường PTDTNT không đủ tiêu chuẩn, không có khả năng đáp ứng được công tác.Năm học 2011 – 2012 theo thống kê của Bộ GD&ĐT, định biên giáo viên các trường PTDTNT trực thuộc Bộ GD&ĐT và cấp tỉnh là 2,78gv/lớp, các trường cấp huyện là 2,49gv/lớp. Các địa phương ưu tiên bố trí thêm biên chế giáo viên cho các trường PTDTNT để thực hiện dạy học 2 buổi/ngày và tổ chức các hoạt động giáo dục đặc thù, bồi dưỡng HS giỏi, phụ đạo HS yếu, kém và dạy tiếng DTTS Trường PTDTNT tỉnh Điện Biên được bố trí 2,6gv/lớp, trường PTDTNT tỉnh Lai Châu 2,7gv/lớp
Thông qua 3 cuộc vận động lớn được triển khai trong ngành giáo dục, các trường PTDTNT đã tăng cường công tác tuyên truyền, bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống, ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ giáo viên, xây dựng khối đoàn kết nhất trí trong nhà trường, tăng cường kỷ luật kỷ cương, ý thức tự giác trong lao động.
Nhiều trường PTDTNT duy trì tốt việc sinh hoạt chuyên môn cụm với các trường trên địa bàn theo định kỳ; dự giờ đồng nghiệp ít nhất 1 tiết/tuần; tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn có kế hoạch cụ thể để giúp đỡ các thành viên từng bước nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm (Bắc Giang, Lào Cai...).
Công tác xếp loại, đánh giá cán bộ, giáo viên và thực hiện công tác thi đua khen thưởng đã được các trường thực hiện nghiêm túc, qua đó kịp thời khuyến khích và động viên các cá nhân và tập thể phấn đấu vươn lên trong công tác.
Các địa phương chú trọng việc tổ chức các đợt thao giảng và thi giáo viên dạy giỏi, tổ chức cho cán bộ, giáo viên tham quan học hỏi kinh nghiệm quản lý và giảng dạy của các địa phương khác, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên về các nội dung giáo dục đặc thù, về tiếng dân tộc, tổ chức các hội thảo chuyên đề theo môn học. Sở GDĐT Nghệ An tổ chức Hội thảo về đổi mới dạy học ngữ văn sát với đối tượng HSDT; Sở GDĐT Hậu Giang tổ chức Hội nghị chuyên đề “Cách thức tổ chức dạy học tiếng Khmer trong trường PTDTNT” và “Nâng cao hiệu quả dạy tiếng Khmer”; Sở GDĐT Quảng Nam tập huấn tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp;...
Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và dạy học, một số Sở GDĐT đã tổ chức lớp tập huấn ứng dụng công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên các trường PTDTNT về các phần mềm quản lý trường học, soạn giáo án điện tử, tổ chức đi tham quan, dự giờ, trao đổi kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin ở các trường trên địa bàn. Các trường PTDTNT tổ chức hội thi công nghệ thông tin, tổ chức cho cán bộ giáo viên khai thác có hiệu quả nguồn thông tin trên Internet, khuyến khích giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm, tự làm đồ dùng dạy học (Lào Cai, An Giang, Gia Lai, Quảng Nam...).
Nhiều tỉnh đã tổ chức cho Hiệu trưởng trường PTDTNT, cán bộ Sở GDĐT đi thăm quan các trường PTDTNT ở các tỉnh bạn để trao đổi, học tập kinh nghiệm như: Tỉnh Quảng Ngãi tổ chức đi Hòa Bình, Sơn La, Lạng Sơn, PTVC Việt Bắc; …Triển khai việc đánh giá cán bộ quản lý, giáo viên theo chuẩn hiệu trưởng, chuẩn nghề nghiệp giáo viên theo các Thông tư và hướng dẫn của Bộ GD&ĐT.
1.4 Thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý giáo dục , giáo viên và học sinh trường PTDTNT
Các địa phương, nhà trường thực hiện nghiêm túc chế độ, chính sách cho HS DTTS, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục công tác tại trường PTDTNT.
Các trường PTDTNT đã thực hiện nghiêm túc chế độ tài chính cho HS trong năm học (Theo Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 29/5/2009 của Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo Hướng dẫn một số chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú và các trường dự bị đại học dân tộc). HS được đảm bảo các chế độ như: Được hưởng mức học bổng bằng 80% mức lương tối thiểu chung của cán bộ công chức nhà nước; được hưởng các chế độ hỗ trợ khác như miễn học phí và các loại lệ phí thi, tuyển sinh; tiền tàu xe nghỉ hè hoặc nghỉ tết; hỗ trợ học phẩm; hỗ trợ tiền điện nước hàng tháng, hỗ trợ sinh hoạt phí, bảo hiểm y tế...Đặc biệt, từ ngày 01/9/2011 đến 31/12/2015, HS của 9 dân tộc rất ít người (Ở Đu, Pu Péo, Si La, Rơ Măm, Cống, Brâu, Bố Y, Mảng, Cờ Lao) trong phạm vi 6 tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu, Nghệ An, Kon Tum học tại các trường PTDTNT cấp huyện và cấp tỉnh được hưởng học bổng bằng 100% mức lương tối thiểu chung/HS/tháng và hưởng 12 tháng/năm (Quyết định số2123/QĐ-TTg ngày 22 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010 – 2015).
- Chế độ đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác tại trường PTDTNT được các địa phương thực hiện theo Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20/6/2006 của Chính phủ về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở các trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ngoài việc được hưởng các chế độ chính sách như nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường phổ thông công lập, còn được hưởng mức phụ cấp ưu đãi 70% mức lương hiện hưởng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); được hưởng hệ số phụ cấp trách nhiệm 0,3 so với mức lương tối thiểu chung. Ngoài ra, nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đang công tác tại trường PTDTNT thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp ưu đãi mức 70% mức lương hiện hưởng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); được hưởng phụ cấp thu hút (không quá 5 năm) bằng 70% mức lương hiện hưởng và phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). Nghị định số 116/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cơ bản được thực hiện đầy đủ, kịp thời.
Nhìn chung, với việc đẩy mạnh thực hiện Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục các chế độ, chính sách cho học sinh và nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở trường PTDTNT được thực hiện khá nghiêm túc ở các địa phương. Những chế độ, chính sách này cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu quản lý, giảng dạy và ổn định cuộc sống của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường PTDTNT, cũng như hỗ trợ học sinh trong quá trình học tập và sinh hoạt góp phần thực hiện có hiệu quả các hoạt động giáo dục của nhà trường.
1.5 Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất nói chung và thiết bị dạy học nói riêng
Năm học 2011-2012, các địa phương tiếp tục ưu tiên nguồn vốn để đầu tư xây dựng CSVC, thiết bị cho các trường PTDTNT theo hướng trường trung học đạt chuẩn quốc gia. Một số địa phương thành lập mới trường PTDTNT đã qui hoạch đầu tư xây dựng theo tiêu chuẩn về CSVC như tỉnh Thái Nguyên, Hậu Giang, Bình Phước, Sóc Trăng...Tính đến tháng 8/2012 đã có 56 trường PTDTNT (10 trường cấp tỉnh, 46 trường cấp huyện) được công nhận đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 19% so với tổng số trường trong hệ thống (tăng 6% so với năm 2010).
Công tác xã hội hóa đã được các địa phương đẩy mạnh để xây dựng CSVC cho trường PTDTNT. Điển hình là công trình trường PTDTNT Nước Oa huyện Bắc Trà My với tổng kinh phí đầu tư gần 13 tỷ đồng từ nguồn ngân sách Nhà nước trung ương, địa phương và hỗ trợ từ các doanh nghiệp; trường PTDTNT huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai mở liên cấp THCS và THPT đã được sự hỗ trợ trên 12 tỷ đồng của một doanh nghiệp; trường PTDTNT huyện Tương Dương tỉnh Nghệ An đã khởi công xây dựng giai đoạn 1 với số vốn 17 tỷ đồng do Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam tài trợ…
Các trường PTDTNT được bổ sung thiết bị dạy học phù hợp đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Các trang bị nhà ở học sinh nội trú, dụng cụ nhà bếp, nhà ăn cũng được các trường mua sắm mới bổ sung như: giường, chiếu, chăn màn, hệ thống nấu cơm bằng bếp gas, bàn ghế nhà ăn...
Về cơ bản, cơ sở vật chất của các trường PTDTNT đã đáp ứng được yêu cầu của các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Tuy nhiên, việc xây dựng trường PTDTNT đạt chuẩn quốc gia còn gặp những khó khăn như: Nhiều trường PTDTNT thiếu quỹ đất, CSVC xuống cấp trầm trọng trong khi kinh phí đầu tư nhỏ giọt, nhiều hạng mục chưa được đầu tư theo quy định…
Thực hiện Quyết định số 1640/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án củng cố và phát triển hệ thống trường PTDTNT giai đoạn 2011 – 2015, ngày 20/3/2012 tại Hà Nội, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị triển khai Quyết định số 1640/QĐ-TTg. Sau Hội nghị Bộ GD&ĐT đã ban hành công văn hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện Đề án (Công văn số 2182/BGDĐT-GDDT ngày 12/4/2012 hướng dẫn phân bổ kinh phí CTMTQG GDĐT năm 2012 cho các địa phương thực hiện Đề án gần 900 tỷ đồng, bao gồm các hoạt động hỗ trợ đầu tư xây dựng các hạng mục công trình cho các trường PTDTNT theo hướng trường trung học đạt chuẩn, tổ chức bồi dưỡng tập huấn cho cán bộ quản lý, giáo viên các trường PTDTNT cấp tỉnh và huyện.
Đánh giá chung về những kết quả nổi bật của hệ thống trường PTDTNT trong năm học 2011 - 2012
- Mạng lưới, qui mô trường PTDTNT ở các địa phương đã được điều chỉnh theo Quyết định số 49/2008/QĐ-BGDĐT ngày 25/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường PTDTNT và Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo, bước đầu đáp ứng nhu cầu tạo nguồn đào tạo cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các địa phương. Công tác quản lý hệ thống trường PTDTNT theo quy định tại Quyết định số 49/2008/QĐ-BGDĐT ngày 25/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo đã được triển khai và dần đi vào ổn định. Hệ thống các trường PTDTNT cơ bản đáp ứng về qui mô tạo nguồn đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số cho các địa phương, tiếp tục duy trì và thực hiện tốt các cuộc vận động và phong trào thi đua của ngành , gắn việc thực hiện phong trò thi đua xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực với xây dựng trường PTDTNT đạt chuẩn quốc gia, tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong việc xây dựng cảnh quan môi trường sư phạm, kr cương nền nếp của các trường PTDTNT.
- Công tác tuyển sinh trường PTDTNT có sự đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng đầu vào, số trường tổ chức thi tuyển ngày càng tăng, đội ngũ cán bộ giáo viên được tăng cường, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ngày dần hoàn thiện, chế độ chính sách được thực hiện khá nghiêm túc...Tổ chức thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục đầy đủ, nghiêm túc tích cực đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá phù hợp với năng lực điều kiện của HS DTTS. Việc ứng dụng CNTT&TT trong dạy học và quản lý ở các trường PTDTNT được tăng cường và đi vào nâng cao chất lượng, hiệu quả.
- Chất lượng giáo dục của trường PTDTNT ngày càng được nâng cao, giáo dục đạo đức, giáo dục toàn diện học sinh dân tộc được đẩy mạnh, trong năm học có nhiều trường PTDTNT đạt kết quả 100% học sinh đỗ tốt nghiệp THPT, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường ĐH, CĐ, TCCN ngày càng nhiều là những kết quả đáng ghi nhận.
- Công tác quản lý, chỉ đạo hệ thống trường PTDTNT dần đi vào nền nếp ổn định. Công tác thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động của trường PTDTNT được tăng cường, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục của các trường PTDTNT.
- Các điều kiện đáp ứng việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của các trường PTDTNT được tăng cường. Số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên nhân viên trường PTDTNT được bố trí đủ theo qui định, cơ sở vật chất nói chung và thiết bị dạy học nói riêng được đầu tư ngày càng hoàn thiện, chế độ chính sách cho người, người học được thực hiện nghiêm túc.
- Công tác liên thông đào tạo trong hệ thống đã có những tiến bộ rõ rệt. Số HS tốt nghiệp THCS và THPT của các trường PTDTNT được tiếp tục đào tạo tăng qua từng năm học. Học sinh các trường PTDTNT thi đỗ thẳng vào đại học, cao đẳng ngày càng tăng.
II. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết
- Việc phát triển mạng lưới và qui mô trường PTDTNT phát triển chưa đồng đều giữa các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số, chưa có sự chuẩn bị tốt về các điều kiện để nuôi dưỡng, dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Một số địa phương chưa có kế hoạch xây dựng trường PTDTNT đạt chuẩn quốc gia. Nhiều tỉnh chưa thực hiện chuyển giao trường PTDTNT huyện về Sở GD&ĐT quản lí. Một số địa phương (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Gia Lai...) chưa có mạng lưới trường PTDTNT hoàn chỉnh, việc tạo nguồn đào tạo cán bộ người DTTS ở các địa phương này còn gặp nhiều khó khăn.
- Chất lượng tuyển sinh vào trường PTDTNT ở một số địa phương còn thấp đặc biệt đối với các địa phương đang thực hiện phương thức xét tuyển. Chất lượng giáo dục ở nhiều trường PTDTNT còn thấp và chưa đồng đều trong hệ thống. Kết quả học tập của HS DTTS ở một số trường PTDTNT còn thấp so với yêu cầu, tỷ lệ HS có học lực yếu, kém trong trường PTDTNT còn cao (cấp THCS là 6%, cấp THPT là 8,8%).
- Một số trường PTDTNT chưa có các giải pháp cụ thể trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Còn có tư tưởng chủ quan, hời hợt trong việc đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở một bộ phận giáo viên chưa hiệu quả, còn nặng về lạm dụng công nghệ thông tin.
- Một số trường PTDTNT còn buông lỏng công tác quản lý và tổ chức nội trú, việc tổ chức các hoạt động nội trú chưa đi vào chiều sâu dẫn đến chất lượng giáo dục chưa cao. Tỷ lệ HS không ở nội trú còn cao ở một số trường PTDTNT ở vùng ĐBSCL (Kiên Giang có số HS PTDTNT cấp THCS ở nội trú chỉ chiếm 56% trong tổng số, An Giang PTDTNT tỉnh chỉ có 22% HS ở nội trú…). Năng lực của một số cán bộ quản lý trường PTDTNT còn hạn chế, đặc biệt là việc quản lý các hoạt động giáo dục đặc thù trong nhà trường. Một số trường PTDTNT chưa có kế hoạch, giải pháp cụ thể trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Đổi mới PPDH chưa phù hợp với đối tượng HS DTTS, chưa đồng bộ và triệt để. Việc ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học ở nhiều trường PTDTNT chưa thiết thực và hiệu quả. Một số chính sách, chế độ đối với trường PTDTNT chậm được nghiên cứu, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển hệ thống trường PTDTNT. Công tác thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động giáo dục của trường PTDTNT thiếu thường xuyên, hiệu quả chưa cao.
- Công tác liên thông đào tạo trong hệ thống PTDTNT chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ HS tốt nghiệp cấp THCS trường PTDTNT được vào học cấp THPT PTDTNT chưa cao, số học sinh PTDTNT sau tốt nghiệp THCS và THPT không đi học tiếp vẫn còn chiếm tỉ lệ đáng kể dẫn đến lãng phí sự đầu tư của Nhà nước.
- Định mức biên chế GV/lớp ở trường PTDTNT chưa phù hợp chưa đảm bảo để giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ ở một số trường chuyên biệt là dạy học 2 buổi/ngày và tham gia quản lý, giáo dục HS nội trú. Chưa có quy định cụ thể về biên chế đối với cán bộ, giáo viên làm các công việc đặc thù trong nhà trường như: tư vấn học đường, quản lý nội trú…Chưa có quy định cụ thể về cơ chế, chính sách để thực hiện các nội dung giáo dục đặc thù trong trường PTDTNT (tổ chức giáo dục văn hóa dân tộc, tổ chức dạy nghề truyền thống…Đội ngũ nhân viên chăm sóc, nuôi dưỡng HS nội trú đa số làm việc theo hợp đồng nên chưa yên tâm công tác. Chính sách chế độ đối với nhân viên công tác trong các trường PTDTNT chưa phù hợp với đặc thù công việc.
- Học bổng của HS PTDTNT còn thấp so với mặt bằng giá cả, gây khó khăn cho các trường, trong việc tổ chức bữa ăn cho các em, một số quy định về trang cấp hiện vật cho HS chưa phù hợp (Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 29/5/2009 của Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo Hướng dẫn một số chế độ tài chính đối với HS các trường PTDTNT và các trường Dự bị đại học dân tộc). Chưa có chính sách khuyến khích HS DTTS, đặc biệt là HS PTDTNT học giỏi và thi đỗ thẳng vào các trường đại học, cao đẳng.
- CSVC của nhiều trường PTDTNT chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển qui mô và nâng cao chất lượng giáo dục. Trong nhiều năm qua, do sức ép về tạo nguồn đào tạo nhân lực DTTS, quy mô của nhiều trường PTDTNT đã vượt quá điều kiện CSVC của nhà trường, dẫn đến tình trạng thiếu phòng nội trú, phòng học, phòng chức năng, sân chơi, bãi tập, công trình phụ trợ (nhà vệ sinh, hệ thống cấp thoát nước…), đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học, nuôi dưỡng học sinh và các hoạt động giáo dục của nhà trường. Các hạng mục công trình của đa số trường PTDTNT do xây dựng đã lâu nên xuống cấp, nhiều hạng mục công trình tạm thời, không đủ tiêu chuẩn theo quy định.
- Một số HS DTTS ở các trường PTDTNT còn tâm lý ỷ lại, ích kỉ, tư tưởng tự cho mình có quyền được hưởng về mọi chính sách…vì vậy không chịu cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện, tu dưỡng bản thân.
- Một số địa phương chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển và nâng cao chất lượng các trường PTDTNT. Việc quy hoạch đào tạo cán bộ DTTS của các địa phương chưa cụ thể, nên công tác tuyển sinh và đào tạo của trường PTDTNT nhiều khi còn bị động, lúng túng. Một số địa phương phát triển nóng vội về quy mô trường PTDTNT trong khi chưa có sự chuẩn bị tốt về các điều kiện đáp ứng, vì vậy chất lượng giáo dục chưa cao. Một số địa phương chưa thực hiện việc phân cấp quản lý trường PTDTNT theo quy định.
- Với những khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội chậm phát triển, chất lượng giáo dục vùng dân tộc, miền núi (Tấy Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ) còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước ở tất cả các cấp học, vì vậy đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng tuyển sinh và giáo dục của các trường PTDTNT. Cơ hội tìm kiếm việc làm sau khi ra trường có nhiều khó khăn, thu nhập thấp đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu, động cơ, hứng thú của HS DTTS khi đến học ở trường PTDTNT. Nguồn lực đầu tư cho giáo dục nói chung, giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển mô hình trường PTDTNT cấp THCS ở các địa phương, từ đó đề xuất định hướng phát triển mô hình trường PTDTNT cấp huyện (THCS) trong thời gian tới.
- Tích cực trao đổi, chia sẻ phổ biến kinh nghiệm quản lý, dạy học, chăm sóc và giáo dục HS DTTS thông qua Tập san giáo dục dân tộc, thông qua Website của các trường PTDTNT và Website chung cho cả hệ thống trường PTDTNT trong cả nước.
- Mặc dù công tác tuyển sinh được các địa phương triển khai đúng quy trình, quy định, song do điều kiện địa lý, địa bàn phức tạp cho nên một số thôn, bản thông tin tuyển sinh đến với người dân quá chậm, có nơi hết hạn nộp hồ sơ người dân mới biết. Về lâu dài, vẫn phải tìm cách nâng cao chất lượng GD cho vùng dân tộc mà giải pháp tương đối khả thi và hiệu quả là giảm bớt thời gian đi lại, tăng thời gian học ở trường cho các em, nghĩa là tăng tỉ lệ HS được ở nội trú. Giải được bài toán nội trú đồng nghĩa với việc giải bài toán chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc.
- Tiếp tục khảo sát, nghiên cứu, đề xuất, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện các chính sách hỗ trợ CBQLGD, GV, HS DTTS và cơ sở giáo dục ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Đề xuất với Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành chế độ chính sách cho HS DTTS cấp THPT ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; chính sách cho HS DTTS thi đỗ thẳng vào đại học, cao đẳng hệ chính quy. Nhanh chóng hoàn thiện thủ tục để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều quy định tại Nghị định số 61/2006/NĐ-CP; Đề nghị điều chỉnh một số điều khoản trong Nghị định 61/2006/NĐ-CP ngày 20-6-2006: Cán bộ, giáo viên các khoa Dự bị đại học trong các trường đại học được hưởng chế độ phụ cấp như cán bộ giáo viên các trường Dự bị đại học; Giáo viên dạy tiếng dân tộc ở các vùng 1, 2 được hưởng phụ cấp như giáo viên dạy tiếng dân tộc ở vùng 3.
- Hoàn thiện để ban hành Thông tư hướng dẫn về vị trí việc làm trong các trường chuyên biệt công lập theo Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 8/5/2012 của Chính phủ.
- Xây dựng và triển khai các chính sách, quy định phù hợp về tuyển sinh ĐH, CĐ, TCCN và dạy nghề đối với học sinh là người DTTS; về phát triển đội ngũ giáo viên các cấp, giảng viên đại học và cán bộ quản lý giáo dục; về tài chính và huy động nguồn lực đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất- kỹ thuật hạ tầng cho giáo dục và đào tạo; hỗ trợ các cơ sở nội trú dân nuôi và học sinh nội trú dân nuôi; chế độ phụ cấp ưu đãi cho cán bộ công tác ở Sở GD&ĐT và Phòng GD&ĐT...
- Xây dựng chính sách học bổng cho HSDTTS nghèo thi đỗ thẳng vào Cao đẳng và Đại học
- Bổ sung Thông tư Liên tịch số 43/2007/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 02-5-2007 của Bộ Tài chính và Bộ GD & ĐT (Hướng dẫn thực hiện Quyết định số 82/2006/QĐ-TTg ngày 14- 4-2006 của Thủ tướng Chính phủ) quy định chế độ học bổng đối với học sinh các khoa Dự bị đại học.
- Thay thế Thông tư liên tịch số 126/1998/TTLB-BTC- BGD&ĐT ngày 09/9/1998 " Hướng dẫn một số chế độ tài chính đối với học sinh các trường Phổ thông Dân tộc nội trú và các trường Dự bị đại học” để thay đổi các mức chi đã lạc hậu và không còn phù hợp.
- Thực hiện chính sách luân chuyển giáo viên để đảm bảo chất lượng giáo dục chung cũng như thực hiện công bằng trong đào tạo và sử dụng.
- Có chính sách ưu tiên, khuyến khích để thu hút giáo viên về giảng dạy tại các cơ sở đào tạo TCCN và dạy nghề ở miền núi, vùng dân tộc.
Năm học 2012 – 2013, là năm thứ 2 toàn ngành giáo dục tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và cuộc vận động "Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo" và phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp của các cấp, các ngành, các đoàn thể, các địa phương và với nỗ lực phấn đấu của hệ thống trường PTDTNT, chúng ta tin tưởng rằng hệ thống trường PTDTNT sẽ tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ, tạo động lực thúc đẩy các trường phổ thông dân tộc nội trú trở thành trường hàng đầu về chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc, miền núi; thực hiện tốt nhiệm vụ tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các dân tộc thiểu số, đồng thời đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao người DTTS, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế./.
213
2384
21974
225958
122920
114558415