Những góc nhìn Văn hoá

Đọc sách KHÁI LUẬN VĂN TỰ HỌC CHỮ NÔM của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng

Khái luận văn tự học chữ Nôm của Nguyễn Quang Hồng (NXB Giáo dục, 2008) là một chuyên luận khoa học về chữ Nôm, có độ dày đáng kể: 540 tr., khổ 16x24cm. Sách trình bày thanh nhã, ít lỗi chế bản, 60 tranh ảnh phụ bản vừa đủ để làm thư giãn đôi mắt người đọc, cũng là một hình thức trang trí cho cuốn sách đạt giá trị mĩ thuật.

1. Tiền đề phương pháp luận

Đặc trưng căn bản và tiên quyết của cuốn sách chính là tiền đề phương pháp luận lấy văn tự học làm bản vị. Điều này được nhắc tới ngay ở nhan đề sách, và được tái khẳng định trong Lời dẫn: “Cuốn sách này là công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực văn tự học, một lĩnh vực nghiên cứu đi song song với ngôn ngữ học và cùng với ngôn ngữ học làm thành hai nội dung nòng cốt cho khoa học ngữ văn, ở Phương Đông cũng như ở Phương Tây” (tr. 11). Đây là điểm cốt yếu và khác biệt của cuốn sách, bởi các chuyên khảo về chữ Nôm trước đây thường đặt vấn đề ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt lên trên vấn đề văn tự học khi tiếp cận kho tàng văn hiến chữ Nôm. Việc trả lại bản chất văn tự học cho hướng tiếp cận nghiên cứu chữ Nôm còn giúp cho cuốn sách, xét từ khía cạnh lịch sử văn hiến, khắc phục được nhược điểm cố hữu trong việc nghiên cứu chữ Nôm là thường quá chú trọng tới những văn hiến có niên đại sớm, mà xao lãng những văn hiến có niên đại muộn (khoảng từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX). Đi xa hơn nữa, cuốn sách đã kết hợp phương pháp văn tự học ấy với phương pháp và tri thức từ các chuyên ngành liên quan (văn bản học, ngôn ngữ học, xã hội học, văn hóa học…) để tạo nên một âm hưởng liên ngành mà trong đó văn tự học là nét chủ đạo.

2. Tư duy nghiên cứu có hệ thống và mang đậm tính lí luận

Từ tiền đề phương pháp luận trên, cuốn sách đã triển khai nghiên cứu một cách hệ thống và mang đậm tính lí luận. Từ lâu nay, giới nghiên cứu Hán Nôm cũng đã không còn xa lạ với “phong cách” nghiên cứu ấy của tác giả Nguyễn Quang Hồng qua hàng loạt chuyên luận và bài viết của ông (xin miễn nêu cụ thể các công trình này, tốt nhất xin xem các trang 527-528 của phần Tài liệu tham khảo). Trong tình trạng việc nghiên cứu Hán Nôm phần nhiều còn dừng lại ở mức độ miêu tả sự kiện, thì những nghiên cứu mang tính lí luận chuyên ngành của Nguyễn Quang Hồng lại hướng tới phân tích, giải thích sự kiện, và đó chính là điểm sáng nổi trội mà một lối tư duy thông thường nào đó hoàn toàn có thể phán rằng “những cái ấy ai chẳng biết!”. Nhưng để khái quát hóa “những cái ai chẳng biết” vốn lẻ tẻ và rời rạc ấy thành một hệ thống mang tính lí luận như những gì mà tác giả đã thực hiện trong các công trình của mình (tất nhiên không loại trừ cuốn sách này) thì lại không phải là điều dễ dàng mà ai cũng làm được, hạn chế ấy hẳn phải có nguyên nhân từ cả hứng thú và năng lực nghiên cứu.

3. Triển khai vấn đề nghiên cứu một cách đa diện và chỉnh thể

Những độc giả thực sự của cuốn sách sẽ không khó nhận ra tính hệ thống và tính lí luận nói trên qua trình tự triển khai vấn đề trong cuốn sách.

Trong Chương 1 (Văn tự học và các hệ chữ viết cổ truyền ở Việt Nam, tr. 15-70), tác giả cung cấp một cái nhìn rộng lớn về bối cảnh văn tự thế giới và khu vực, rồi thu hẹp dần đến việc giới thiệu các hệ văn tự cổ truyền ở Việt Nam (chữ Chăm, chữ Thái, chữ Nôm Dao, chữ Nôm Ngạn, chữ Nôm Tày). Đó là những tri thức nền tảng không thể thiếu để đi vào những nghiên cứu chuyên sâu về chữ Nôm ở các chương.

Chương 2 (Ngọn nguồn và sự hình thành chữ Nôm, tr. 71-144) đã bàn sâu về các tiền đề cho sự xuất hiện của chữ Nôm (Việt), về mối quan hệ của chữ Nôm với văn tự và ngôn ngữ Hán, với tiếng Việt và âm Hán Việt. Sau khi dượt qua tất cả những văn hiến Nôm sớm nhất hiện biết, tác giả tập trung phân tích cứ liệu chủ yếu về sự hình thành chữ Nôm: bản giải âm Phật thuyết Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Bản giải âm này là một mảnh đất đã có quá nhiều người cày xới, nhưng tác giả vẫn tìm được hướng đi riêng, đó là góc nhìn cấu trúc âm tiết tiếng Việt, một chuyên môn sâu từ lâu của ông, nếu ta biết rằng từ năm 1994 ông đã công bố cuốn chuyên luận Âm tiết và loại hình ngôn ngữ được học giả Cao Xuân Hạo đánh giá cao. Từ góc nhìn cấu trúc âm tiết đó, cộng với việc xử lí tư liệu một cách hệ thống, tỉ mỉ và độc lập với những tư liệu đã xử lí về bản giải âm này trước đây (như khẳng định tại tr. 132), tác giả đi đến kết luận: bản giải âm trên phản ánh một thứ tiếng Việt ở thời kì “sơ thủy”, mới tách khỏi nhóm Việt – Mường, “chưa có đủ 6 thanh điệu và chưa từ bỏ hẳn cấu trúc âm thanh của từ ngữ theo công thức Cv-CVC và CCVC” (tr. 131) (C = consonant = phụ âm, V = vowel = nguyên âm). Từ đó, tác giả đặt lại vấn đề niên đại của bản giải âm sớm hơn hẳn so với các giả thiết trước đây, khi ông cho rằng nó “được hoàn thành không thể muộn hơn thời nhà Lí (vào khoảng đầu thế kỉ XII, thậm chí còn có thể sớm hơn chút ít nữa)” (tr. 144). Đó cũng chính là niên đại để “chữ Nôm bắt đầu trở thành một hệ thống văn tự ghi lại tiếng Việt đương thời” (tr. 144).

Trong Chương 3 (Tổng quan về chữ Hán và chữ Nôm, tr. 145-210), sau khi đã minh định về thời điểm xuất hiện của chữ Nôm và khẳng định những ảnh hưởng không thể phủ nhận của chữ Hán và tiếng Hán đối với chữ Nôm (trong Chương 2), cuốn sách tập trung thảo luận về mối quan hệ giữa chữ Hán và chữ Nôm trong bối cảnh “Cộng đồng văn tự chữ Hán”. Trên cơ sở ghi nhận những dấu tích ảnh hưởng từ chữ Hán tới chữ Nôm, và khẳng định những giá trị sáng tạo riêng của chữ Nôm về mặt cấu trúc, tác giả đi đến xây dựng một Bảng phân loại tổng quát cho chữ Nôm Việt gồm 13 loại với các tiêu chí phân loại nhất quán theo cách lưỡng phân. Phương pháp lưỡng phân này đã từng được ông bà GS.TS. Nguyễn Tài Cẩn và N. Stankevich áp dụng từ năm 1976 (để chia thành 10 loại chữ Nôm). Nếu ta biết rằng tính đến thời điểm hiện nay đã có hơn 20 cách phân loại cấu trúc chữ Nôm của nhiều học giả trong và ngoài nước, thì khách quan mà nói, Bảng phân loại với 13 loại như trên là một bước tiến mới, hợp lí và nhất quán, mà cũng vừa phải về số kiểu loại (đã có những cách chia thành 24 loại!), có thể bao quát được hầu hết các chữ cụ thể.

Trên cơ sở Bảng phân loại ấy, Chương 4 (Chữ Nôm: Cấu tạo và diễn biến, phần Một, tr. 211-303) và Chương 5 (cùng tên, phần Hai, tr. 305-389) cùng trình bày về một vấn đề chiếm dung lượng lớn trong cuốn sách, đó là vấn đề cấu tạo và diễn biến của chữ Nôm. Sự tỉ mỉ và công phu trong phần viết này dễ làm nản lòng những độc giả thiếu kiên trì, nhưng nếu chịu khó đọc trọn vẹn thì độc giả sẽ nhận thấy rằng, hai chương này đã được trình bày với một lượng tư liệu đồ sộ hơn nhiều so với các chuyên luận về chữ Nôm khác, và những tư liệu ấy lại được xử lí bằng một thái độ hết sức cẩn trọng và nghiêm ngặt, với một bộ máy khái niệm chuyên môn được minh định một cách rành mạch. Một điều đáng ghi nhận nữa là tác giả rất hạn chế sử dụng các kết quả khảo sát tư liệu (phiên âm và thống kê) đã công bố, mà muốn tự mình khảo sát và xử lí lại một cách thống nhất các tư liệu ấy, cộng với việc khảo sát và phân tích thêm nhiều mảng tư liệu mới để phục vụ nghiên cứu. Trong khi xử lí tư liệu, tác giả không quên sàng lọc qua con mắt văn bản học để đảm bảo tính khả tín về niên đại của văn tự. Từ đó, tác giả đã đi đến phác thảo Diễn trình phát triển hệ thống chữ Nôm theo cách nhìn lịch đại gồm 4 thời kì: (1). Thời kì sơ khai (thời Lí – Trần – Hồ, thế kỉ XII-XIV); (2). Thời kì hoàn thiện (thời Lê sơ đầu thế kỉ XV đến Lê Mạc cuối thế kỉ XVII); (3). Thời kì hưng thịnh (thời Lê mạt từ đầu thế kỉ XVIII đến hết triều Nguyễn, giữa thế kỉ XX); và (4). Thời kì bảo tồn và phát huy (từ giữa thế kỉ XX đến nay). Cách phân kì này đã thể hiện một cách nhìn biện chứng – lịch sử đầy lạc quan nhưng cũng rất khoa học về lịch sử diễn biến của chữ Nôm.

Chương 6 (Chữ Nôm trong đời sống xã hội, tr. 391-471) là một chương thú vị, nhìn nhận chữ Nôm từ bình diện chức năng xã hội và văn hóa. Tác giả đi vào bàn luận một cách có hệ thống về các môi trường hành chức chủ yếu của chữ Nôm: văn hóa dân gian, tín ngưỡng và tôn giáo, khoa học và giáo dục, chính trị và hành chính quốc gia, văn học và nghệ thuật. Những luận thuật này cho thấy tác giả đã thoát khỏi cái kiểu “lối cũ ta về” trong nghiên cứu chữ Nôm là hầu như chỉ nhìn nhận thứ văn tự này từ góc độ ngôn ngữ và văn chương. Cuối chương, tác giả còn trình bày về những vấn đề rất “nóng”, rất “thời sự” trong nghiên cứu chữ Nôm: Ba thứ chữ trong lịch sử ngữ văn Việt Nam; Chữ Hán chữ Nôm với thế hệ trẻ; Chữ Nôm với người Kinh ở Trung Quốc; Đưa chữ Nôm lên bàn phím máy tính. Tác giả Nguyễn Quang Hồng, với những mối giao lưu học thuật quốc tế rộng rãi của mình, chính là một trong những người có công đầu trong việc đưa chữ Nôm vào kho mã chuẩn Unicode để làm tiền đề cho việc đưa chữ Nôm lên bàn phím máy tính, một bước tiến đáng kể trong thực tiễn ngữ văn Việt Nam.

Sau Chương 6 là phần mà tác giả gọi là Phụ chương (Những phác thảo chữ Việt bên lề chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, tr. 473-510) trình bày về “những ý tưởng và dự thảo của tiền nhân (vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX) về mấy hệ thống chữ Việt đặc biệt: hoặc vẫn dựa vào chữ Hán để đọc theo nghĩa và theo âm, hoặc vẫn lấy nét bút lông và khuôn hình ô vuông để phiên âm viết chữ” (tr. 473). Đó là: (1). Ý tưởng về chữ Việt của Nguyễn Trường Tộ; (2). Quốc âm tân tự của Nam Thành cư sĩ; (3). An Nam quốc ngữ tân thứcChữ quốc ngữ cổ (khuyết danh); (4). Chữ Việt: Quốc ngữ lối chữ Nho của Nguyễn Khắc Toản. Sau khi phân tích sâu về những tư liệu này từ điểm nhìn ngữ văn học, tác giả cho rằng qua đó chúng ta có thể “cảm nhận được nỗi trăn trở của tiền nhân và tinh thần độc lập, sáng tạo của họ trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn tự, nhằm ngữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như hướng tới những mục đích thực tiễn rất đa dạng trong cuộc sống xã hội Việt Nam đương thời” (tr. 501).

Mục Tư liệu Hán Nôm (tr. 503-518) đã liệt kê kiêm phân tích sơ bộ về 92 đơn vị tư liệu nguyên bản chữ Hán Nôm (chủ yếu là chữ Nôm) trải đều trên các trục đồng đại và lịch đại cũng như các trục thể loại và chủ đề tác phẩm, thể hiện tương đối đầy đủ diện mạo của nền văn hiến chữ Nôm. Đây chính là nguồn tư liệu chủ yếu của cuốn sách. Mục Tài liệu tham khảo (tr. 519-535) gồm 207 đơn vị tài liệu tham khảo đa ngữ, bao quát gần như toàn bộ lịch sử nghiên cứu trực tiếp và gián tiếp về chữ Nôm ở trong nước và quốc tế. Đây thực sự là một chỉ dẫn tốt cho những ai muốn tiếp tục đi sâu nghiên cứu chữ Nôm.

Cách thức triển khai nghiên cứu như lược thuật trên đây đã thể hiện tính đa diện và chỉnh thể trong khi tác giả tiếp cận và giải quyết vấn đề nghiên cứu mà mình đặt ra.

4. Nói thêm về một số cái mới trong cách trình bày

Trong rất nhiều điều mới mẻ của cuốn sách, có một số cái mới rất đáng chú ý trong cách trình bày của tác giả.

Thứ nhất, đối với toàn bộ các trích dẫn văn Nôm trong sách (có dẫn nguồn đến từng trang tư liệu), ngoài phần phiên âm chữ Quốc ngữ như thông lệ, cuốn sách luôn in kèm nguyên tự chữ Nôm của toàn bộ các đoạn phiên âm bằng các font vi tính (chủ yếu là font Chu Nom Minh U của bộ gõ VietHanNom và font Nom Na Tong của bộ gõ Hanokey). Các chữ Nôm vi tính này đã được tác giả kì công mô tả theo đúng với nguyên dạng trong văn bản gốc – một yêu cầu bắt buộc trong khoa nghiên cứu văn tự học. Điều mới mẻ này chưa từng có trong các công trình nghiên cứu trước, nó vừa đảm bảo tính trung thực khoa học trong trích dẫn, lại vừa khiến cho cuốn sách có giá trị thẩm mĩ, khắc phục được nhược điểm “dùng chữ viết tay” lem nhem như vẫn thường thấy.

Thứ hai, soát từ đầu đến cuối cuốn sách, ta không thấy có một chú thích nào, dù là ở chân trang, cuối chương, hay cuối sách. Nhưng tác giả đã khéo léo đan cài các chú thích vào ngay trong chính văn theo dạng chữ nhỏ đặt trong ngoặc vuông […], điều này vừa khiến cho cuốn sách “tránh được những ghi chú chi chít dưới các trang viết, e làm đứt mạch đọc và dễ gây rối trí độc giả” (tr. 13), lại vừa đảm bảo tính khoa học trong việc dẫn nguồn tài liệu.

Thứ ba, cuối mỗi đơn vị trong danh mục 207 đơn vị Tài liệu tham khảo đều ghi rõ trong ngoặc vuông số thứ tự chương mục mà ở đó tài liệu ấy trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan. Đây là điều hiếm thấy ở Việt Nam, nhưng đã thành quen thuộc đối với tác giả, vì ngay từ công trình Âm tiết và loại hình ngôn ngữ (1994, tái bản 2001) ông đã làm như vậy. Lại một lần nữa, tính trung thực trong dẫn liệu khoa học được tuân thủ nghiêm ngặt, điều đó cũng giúp độc giả tiện bề tra cứu.

5. Vài lời tạm kết

Theo tâm sự của tác giả trong Lời dẫn, sau hơn 20 năm chuẩn bị thu thập tư liệu và nghiền ngẫm vấn đề, bản thảo sơ bộ của cuốn sách được hoàn thành trong khoảng hơn một năm, từ đầu Thu 2006 đến cuối Thu 2007. Độc giả hãy thử tưởng tượng về hình ảnh một nhà nghiên cứu suýt soát tuổi “thất thập cổ lai hi” (tác giả sinh năm 1939, theo lời giới thiệu về tác giả, tr. 538) của một ngành nghiên cứu vẫn bị sáo niệm (stereotype) xã hội coi là “cổ hủ” – ngành Hán Nôm – đã “ngồi trước bàn máy tính để soạn thảo chuyên luận này” (tr. 13), tự tay “gò và gõ” toàn bộ bản thảo, từ những thao tác phức tạp đến ít phức tạp hơn, để cho cuốn sách này (vốn có thể làm nản lòng bất kì nhân viên chế bản vi tính nào!) khi tới tay độc giả đã có được một diện mạo vừa mang giá trị khoa học, lại vừa có tính thẩm mĩ cao như thế.

Cuốn sách là một thành tựu nghiên cứu có bề dày và chiều sâu, có nhiều điều mới mẻ dựa trên cơ sở tích lũy và tổng kết tri thức khắp suốt xưa nay. Cuốn sách khép lại sau 540 trang viết, nhưng ẩn hiện đây đó trong từng phần từng mục là những khơi mở cho các hướng nghiên cứu tiếp theo. Vì vậy, cuốn sách có giá trị “kế vãng khai lai” (nối tiếp cái cũ, gợi mở cái mới), xứng đáng là một “tập đại thành” trong nghiên cứu chữ Nôm hiện nay.

Với những giá trị ấy, cuốn Khái luận văn tự học chữ Nôm của GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng, ở những mức độ khác nhau, có giá trị tham khảo chung cho các nhà nghiên cứu cũng như mọi đối tượng độc giả yêu quý văn hiến và văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, tôi trân trọng đề nghị đưa cuốn sách này vào chương trình giảng dạy của ngành ngữ văn học nói chung và ngành nghiên cứu Hán Nôm nói riêng ở các cấp bậc học Đại học, Cao học và Nghiên cứu sinh tại Việt Nam.

Hà Nội, 18/5/2009


Nguồn: Nguyễn Tuấn Cường (2009), Đọc Khái luận văn tự học chữ Nôm của GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng”, Tạp chí Hán Nôm, số 4, tr. 74-78.


Ghi thêm của tác giả bài viết (NTC):

1.  Ở đây đăng lại theo đúng nguyên văn.

2.Ở trang 2 của Tạp chí trên, trong phần dịch Mục lục tạp chí sang tiếng Anh, nhan đề bài viết được dịch là: "Reading An Exposition of the Study of Nôm Characters Written by Prof. Doctor Nguyễn Quang Hồng". Theo tác giả bài viết, nên dịch nhan đề bài viết là: "A Review of An Introduction to Chu Nom Grammatology Written by Prof. Doctor Nguyễn Quang Hồng", bởi tại trang 537 của cuốn sách (phần Tóm tắt (Summary) bằng tiếng Anh) đã dịch tên sách là An Introduction to Chu Nom Grammatology.

3. Ở trang 84 của Tạp chí trên, trong phần dịch Mục lục tạp chí sang tiếng Trung Quốc, nhan đề bài viết được dịch là: "讀阮光红-科學博士、教授撰《漢喃文字學概論》一書", dịch như thế thì nhan đề cuốn sách đã bị hiểu nhầm thành "Khái luận văn tự học Hán Nôm". Tác giả bài viết xin đính chính lại tên bài viết bằng tiếng Trung Quốc là: "讀阮光红-科學博士、教授撰《喃字文字學概論》一書"

4. Mời xem thêm bài điểm sách của GS.TS Trần Đình Sử

Được đăng bởi Nguyen Tuan Cuong 阮俊强 vào lúc 10/14/2012 02:05:00 SA

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574248

Hôm nay

2163

Hôm qua

2322

Tuần này

21794

Tháng này

221305

Tháng qua

130677

Tất cả

114574248