Khi đắc cử, Tổng thống Giôn-xơn đã tuyên bố: "Tôi quyết đành mỗi ngày, mỗi giờ của nhiệm kỳ dở của Giôn Ken-nơ-dy để đạt những mục tiêu mà ông đã đề ra"[1]. Với việc dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ (tháng 8-1964), Tổng thống Giôn-xơn đã được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết Đông Nam Á cho phép đưa quân sang Việt Nam nếu cần thiết, mở đầu một cách hợp pháp hành động leo thang chiến tranh. Nhằm cứu vãn thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", Tổng thống Hoa Kỳ đã khởi động chiến lược "chiến tranh cục bộ" đưa quân viễn chinh Mỹ và quân một số nước đồng minh tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Đồng thời, Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch vận động tìm kiếm hòa bình cho Việt Nam nhằm che đậy ý đồ can thiệp, xâm lược Việt Nam.
Ngay từ giữa năm 1964, Hoa Kỳ đã thể hiện "thiện chí" bằng việc thông qua Blair Seaborn, trưởng đoàn Canada trong Ủy ban Giám sát Quốc tế Hội nghị Genève 1954, truyền tải "những gợi ý hòa bình đầu tiên" đến Việt Nam dân chủ cộng hòa. Với sứ mệnh được ủy thác, Blair Seaborn luôn ý thức phải mang theo hành trang của mình "cây gậy và củ carốt" trong những lần tiếp xúc với đại diện của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Khi đến Hà Nội, Blair Seaborn được tiếp đón chu đáo nhưng vẫn không quên nhiệm vụ gửi đến phía Việt Nam thông điệp: Hoa Kỳ không muốn lật đổ chính quyền miền Bắc Việt Nam và sẽ viện trợ kinh tế cho miền Bắc trong gói hỗ trợ 1 tỷ đô la dành cho các nước châu Á nếu miền Bắc ngừng các hoạt động quân sự chống miền Nam Việt Nam. Nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình nên Hoa Kỳ sẽ không đủ kiên nhẫn đứng nhìn Bắc Việt Nam can thiệp quân sự vào Nam Việt Nam. Dùng bình phong "sứ giả hòa bình", Hoa Kỳ muốn khỏa lấp những tham vọng quân sự, âm mưu chia tách lâu dài hai miền Nam, Bắc và đánh lạc hướng dư luận việc can thiệp vào tình hình nội bộ Việt Nam.
Tối ngày 7-5-1965, hai tháng sau khi đơn vị thủy quân lục chiến đầu tiên của Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng, Tổng thống Giôn-xơn đưa ra lời tuyên bố về việc Hoa Kỳ sẵn sàng thương lượng không điều kiện với Việt Nam dân chủ cộng hòa trong bài diễn văn đọc tại trường đại học John Hopskin, Baltimore. Mục tiêu của Hoa Kỳ là bảo đảm cho nền độc lập của miền Nam Việt Nam để họ có thể tự quyết định số phận của mình mà không có sự can thiệp của miền Bắc Việt Nam. Trong lúc Tổng thống Hoa Kỳ đang bày tỏ những “nguyện vọng tha thiết” cho nền hòa bình Việt Nam thì ở miền Viễn Đông, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam vẫn không ngừng leo thang[2]. Ngay hôm sau, đáp lại "Tuyên bố Baltimore", Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đưa ra lập trường 4 điểm của Việt Nam dân chủ cộng hòa để giải quyết vấn đề Việt Nam với những nội dung cơ bản: "Chính phủ Mỹ phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam; phải thừa nhận Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; phải để nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình"[3]. Lập trường của hai bên lúc này vẫn là rất khác xa nhau. Hoa Kỳ không thừa nhận Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, cho rằng cần phải thảo luận thêm về những thành phần chính trị ở miền Nam Việt Nam và Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng không chấp nhận sự can thiệp của bất kì một thế lực ngoại xâm nào vào vấn đề của đất nước mình.
Trước những "nỗ lực hòa bình không được đáp trả", Hoa Kỳ tiến hành chiến lược "trả đũa liên tục" một cách triệt để với Chiến dịch không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam với tên gọi Sấm Rền trong suốt 4 năm (từ tháng 3-1965 đến tháng 10-1968) với khối lượng bom nhiều hơn khối lượng bom thả ở châu Âu trong suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai. Hoa Kỳ đã tăng cường liên tục số lượng và cường độ, nhịp độ ném bom hòng bẻ gãy ý chí của quân dân Bắc Việt Nam để "đàm phán trên thế mạnh". Mỗi đợt "Sấm rền" kéo dài từ 1 đến 7 ngày, ban đầu giới hạn ở các vị trí quân sự quanh vĩ tuyến 17 và 19, sau đó lan dần đến quá vĩ tuyến 20 và mở rộng ra các mục tiêu dân sự. Mặc dù vậy, Tổng thống Giôn-xơn vẫn nhắc đi nhắc lại hành động này đã hết sức kiềm chế và là cần thiết nhằm bảo vệ miền Nam trước sự "xâm lược" của miền Bắc. Hoa Kỳ đã kết hợp triệt để hoạt động ngoại giao với hoạt động ném bom miền Bắc Việt Nam. Từ lời nói đến hành động của Giôn-xơn là một chặng đường gian nan, trong lúc "nguyện vọng hòa bình" của Giôn-xơn xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng thì miền Bắc Việt Nam từng ngày, từng giờ vẫn hứng chịu những loạt bom đạn ngày càng ác liệt hơn và "cứ mỗi lần Mỹ nói đến hòa bình là mỗi lần chúng đẩy mạnh chiến tranh xâm lược"[4].
Tô điểm thêm những nét hoa văn cho chiếc mặt nạ cũ kĩ, chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục sứ mệnh hòa bình thông qua việc cử Edmund Gullion, một nhà ngoại giao có kinh nghiệm và đã phục vụ ở Việt Nam những năm 50 của thế kỷ XX, liên lạc với Mai Văn Bộ - Tổng đại diện Việt Nam dân chủ cộng hòa ở Paris - với tư cách cá nhân. Trong cả 4 lần gặp gỡ, Gullion đều đề cập đến việc Hoa Kỳ có thể chấp nhận lập trường 4 điểm của Việt Nam dân chủ cộng hòa nhưng vẫn cần có dấu hiệu đáp trả thể hiện thiện chí của miền Bắc. Hoa Kỳ là một nước lớn, việc chấm dứt ném bom vô điều kiện theo những yêu cầu của miền Bắc Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến uy tín, tiếng nói trên trường quốc tế. Vì vậy, việc hai bên trao đổi những điều kiện "có đi, có lại" là cần thiết. Trước luận điệu của Hoa Kỳ, Việt Nam dân chủ cộng hòa kiên quyết giữ vững điều kiện tiên quyết để đàm phán là Hoa Kỳ phải nghiêm túc thực hiện lập trường 4 điểm. Quan điểm của hai bên phát triển theo hai đường thẳng song song nên kỳ vọng về một cuộc đàm phán chính thức vừa nhen nhóm đã bị dập tắt.
Tháng 11-1965, Giáo sư Giorgio La Pira - thị trưởng Florence, Italia - người từng tham gia nhiều hoạt động vì hòa bình, công lý và dân chủ xã hội, được chính quyền Giôn-xơn tin tưởng trao cho sứ mạng xây dựng cầu nối thương lượng hòa bình giữa Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa. La Pira cùng với nhà toán học Primicerio đến Hà Nội mang theo niềm tin về "cơ hội thương lượng" và trở về với khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam. Sau các cuộc tiếp xúc với đại diện Việt Nam dân chủ cộng hòa, La Pira dần nhận ra vai trò thực sự của mình và hiểu rằng Hoa Kỳ không thể nào chấp nhận đề nghị của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đối với Hoa Kỳ, việc rút quân khỏi Việt Nam, tôn trọng Hiệp định Genève 1954 đồng nghĩa với sự thất bại, Việt Nam chỉ có thể có một nền hòa bình theo kiểu Hoa Kỳ, bom đạn sẽ quyết định mọi thứ.
Nhân dịp lễ Noel cuối năm 1965, Hoa Kỳ quyết định ngừng ném bom 37 ngày và đưa ra lập trường 14 điểm về việc giải quyết vấn đề Việt Nam làm đối trọng với lập trường 4 điểm của Việt Nam dân chủ cộng hòa và 5 điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đồng thời, Hoa Kỳ phát động một chiến dịch ngoại giao rầm rộ kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của thế giới và tiến hành các cuộc tiếp xúc bí mật với các đại diện của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cũng trong lúc này, tại miền Nam Việt Nam, chính quyền Giôn-xơn đã tăng tổng số lính Mỹ lên 184.314 quân và 20.500 quân các nước đồng minh[5]. Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam (MACV) liên tiếp mở các cuộc hành quân “tìm và diệt”[6] nhằm thúc đẩy "nền hòa bình cho Việt Nam". Trước hành động của Hoa Kỳ, trong thư gửi đến các vị đứng đầu của gần 70 quốc gia[7], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần luận điệu giả dối này: "thực chất 14 điểm của Mỹ là Mỹ cố bám lấy miền Nam Việt Nam, cố duy trì chính quyền bù nhìn do Mỹ nặn ra ở miền Nam Việt Nam, cố chia cắt lâu dài nước Việt Nam" và khẳng định "nhân dân Việt Nam quyết không bao giờ khuất phục trước sự đe dọa của đế quốc Mỹ"[8]. Nhận được thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Canada - thành viên Ủy ban giám sát quốc tế Hội nghị Genève 1954 - hy vọng việc phát huy vai trò trung gian của mình có thể tạo ra bước đệm trên con đường đi tới hòa bình ở Việt Nam. Sau khi thảo luận với Hoa Kỳ, chính phủ Canada cử Ronning, một nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm, sang Việt Nam dân chủ cộng hòa tìm lời giải cho bài toán đàm phán hòa bình. Qua 2 lần tiếp xúc với đại diện Việt Nam dân chủ cộng hòa, Ronning không ngừng tìm mọi lý lẽ để giải thích cho sự có mặt của Hoa Kỳ tại Việt Nam, cho những hành động mang tính chất “gìn giữ hòa bình quốc tế”. Trong khi các cuộc tiếp xúc đang diễn ra, chính phủ Canada yêu cầu Hoa Kỳ không nên leo thang ném bom để tạo thuận lợi cho Ronning tìm ra “nút thắt” của vấn đề. Dường như không quan tâm đến cuộc tiếp xúc giữa Canada và Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 29-6-1966, mười ngày sau khi Ronning về nước, Hoa Kỳ tăng cường ném bom miền Bắc Việt Nam. Những cố gắng của Canada trở nên vô ích.
Mùa hè năm 1966, Hoa Kỳ mở màn chiến dịch “Bông cúc vạn thọ” (Marigold), thông qua Đại sứ Lewan Dowski, Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy ban giám sát quốc tế Hội nghị Genève 1954, và đại sứ G.D’Orlandi, trưởng đoàn ngoại giao Italia ở Sài Gòn để bố trí cuộc gặp giữa Đại sứ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Đại sứ Hoa Kỳ tại thủ đô Varsava (Ba Lan). Địa điểm cuộc gặp đã thống nhất nhưng phía Hoa Kỳ không đến, trách nhiệm cuộc đổ vỡ được quy cho Ba Lan - nước đã hứa sẽ tổ chức cuộc gặp gỡ hai bên.
Các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ thông qua các nước trung gian lần lượt thất bại vì nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chính yếu là Hoa Kỳ không có thiện chí về cuộc hòa đàm. Có lẽ Hoa Kỳ đang mải miết với hoạt động tìm kiếm hoà bình nên đã "vô tình lãng quên" nhân dân Việt Nam cần một nền độc lập thực sự hơn là “những chiếc bánh vẽ”. Trên chiến trường mặc dù tổn thất nặng và không đạt được mục tiêu trong các chiến dịch "tìm diệt" mùa khô 1965-1966, Hoa Kỳ vẫn chiếm ưu thế về sức mạnh quân sự so với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vì vậy, "thương lượng không điều kiện" rõ ràng đơn thuần chỉ là một khái niệm.
Ngày 28-1-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã trả lời câu hỏi của nhà báo Wilfred Burchett (Australia) về đề nghị "nói chuyện trực tiếp" của Hoa Kỳ: “Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ mới có thể nói chuyện được”[9]. Lập trường ngoại giao mới là bước lùi tạm thời, hạ thấp yêu cầu nhưng vẫn giữ nguyên tắc cốt lõi trong lập trường 4 điểm, nhằm mở ra cơ hội đàm phán cho cả 2 bên. Hoa Kỳ cần phải thể hiện thiện chí hòa bình thật sự bằng hành động thực tế là xuống thang chiến tranh thì mới có thể trao đổi những vấn đề khác được. Quả thật, nước cờ này đã tác động mạnh mẽ đến dư luận quốc tế, đến nội tình Hoa Kỳ. Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mc Namara, người được giới chiến lược phương Tây đánh giá là "bộ óc điện tử", từng chủ trương đưa lực lượng quân sự vào miền Nam và đánh phá miền Bắc Việt Nam, lại tỏ ra dao động. Ông đã kiến nghị với Tổng thống Giôn-xơn ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam, không tiếp tục gửi quân sang miền Nam Việt Nam và để cho lực lượng quân sự miền Nam Việt Nam tự giải quyết công việc của mình. Ngược lại, tướng Oét-mo-len (Westmoreland), Tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, cho rằng hoàn toàn có thể quét sạch quân Bắc Việt Nam khỏi miền Nam Việt Nam và đề nghị tăng cường thêm lực lượng cho miền Nam. Sự tranh cãi giữa phái bồ câu và diều hâu chưa ngã ngũ nhưng những chuyển biến trên chiến trường Việt Nam, tình hình Hoa Kỳ và thế giới đã đẩy Giôn-xơn nghiêng dần về phía chủ hòa và ông phải thú nhận: "Tất cả những người nào trên thế giới được Hoa Kỳ vận động hoặc tự chủ động làm, dù là người Ba Lan, người Ý, người Thụy Điển, người Ấn Độ, ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc hay các nhà báo nào đó đều có tư tưởng cho rằng điều mà Việt Nam đề nghị là duy nhất đúng chứ không phải điều mà Hoa Kỳ đề nghị là đúng"[10].
Ngày 8-2-1967, tổng thống Giôn-xơn đã gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh với lời đề nghị: chính phủ Hoa Kỳ có thể chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam và tăng quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam nếu miền Bắc đình chỉ việc thâm nhập vào miền Nam. Nội dung thư vẫn là "có điều kiện" trước khi "đàm phán không điều kiện". Trả lời thư Tổng thống Hoa Kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại lập trường 4 điểm và một lần nữa đưa ra điều kiện cần cho cuộc đàm phán: "chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ mới có thể nói chuyện và bàn các vấn đề có liên quan đến hai bên"[11]. Việt Nam dân chủ cộng hòa trước sau vẫn kiên quyết giữ vững chủ quyền, độc lập, chống lại mọi sự can thiệp bên ngoài nhằm chia cắt đất nước, không chấp nhận sức ép "đàm phán dưới bom" của chính phủ Hoa Kỳ. Ngày 14-2-1967, một ngày trước khi nhận được thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Giôn-xơn ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc sau 1 tuần ngừng ném bom. Rõ ràng, sự phản hồi của Việt Nam dân chủ cộng hòa không phải là mối quan tâm quá lớn đối với quyết định của Hoa Kỳ.
Tiến thêm một bước trong “dự án hòa bình”, chính phủ Hoa Kỳ thông qua 2 giáo sư người Pháp là Raymond Aubrac và Herbert Marcovitch thực hiện "Kế hoạch Pensylvania" gửi đến Việt Nam lời khẳng định rằng sẽ ngừng ném bom nếu không bị lợi dụng để đi đến những cuộc thảo luận có kết quả. Giôn-xơn cho rằng khoảng trống của đợt ngừng ném bom để hội đàm sẽ tạo thời cơ tốt cho Việt Nam dân chủ cộng hòa tăng cường các hoạt động quân sự vào miền Nam Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam dân chủ cộng hòa cần chứng minh việc này sẽ không bị lợi dụng và đương nhiên điều Việt Nam dân chủ cộng hòa phải làm là ngừng các hoạt động đưa lực lượng vào miền Nam. Yêu cầu thương lượng lần này cũng chỉ là "bình mới, rượu cũ". Dù rằng Raymond Aubrac và Herbert Marcovich bị chính phủ Hoa Kỳ lừa dối nhưng nhân dân Việt Nam vẫn trân trọng những đóng góp của 2 ông trong việc tạo ra cầu nối giữa Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa qua Mai Văn Bộ - Tổng đại diện Việt Nam ở Paris, chuẩn bị cho cuộc hội đàm chính thức về sau.
Ngày 29-9-1967, trước sức ép dư luận, tổng thống Mỹ Giôn-xơn buộc phải công khai hóa "Kế hoạch Pensylvania" thành "Công thức San Antonio" về điều kiện nói chuyện với Việt Nam dân chủ cộng hòa. "Công thức San Antonio" vẫn thể hiện rõ một ý đồ muốn thương lượng có điều kiện theo cách có đi có lại, nhưng rõ ràng đã có phần mềm dẻo hơn. Hoa Kỳ chỉ yêu cầu Việt Nam dân chủ cộng hòa không tăng thêm các hoạt động quân sự chống lại Việt Nam dân chủ cộng hòa thay vì phải "chấm dứt" hoàn toàn như lúc trước. Từ tuyên bố Baltimore đến Công thức San Antonio, Hoa Kỳ thể hiện sự chuyển biến rõ rệt về chủ trương, sách lược, sự nhượng bộ từng bước, tiến tới thực hiện một cách nghiêm chỉnh tuyên bố hòa đàm. Nắm lấy cơ hội và thế chủ động, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã "mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta".
Cuối năm 1967, Hoa Kỳ ngày càng lún sâu trong vũng lầy chiến tranh Việt Nam: hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 thất bại, phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ lên cao, thâm hụt ngân sách, chiến phí không ngừng tăng cao, khả năng giành chiến thắng ở Việt Nam là bài toán chưa có lời giải... Trước tình hình này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và can thiệp Việt Nam thì sẽ nói chuyện với Hoa Kỳ. Từ "có thể nói chuyện" đến "sẽ nói chuyện" là bước tiến mới trong quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ. Nhưng thời điểm cụ thể là khi nào? Trả lời cho câu hỏi này là cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam, đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn ở cả trung ương và địa phương. Nhiều trận đánh gây chấn động lớn như trận đánh tòa đại sứ Hoa Kỳ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn... Miền Nam rung chuyển, cả nước Mỹ bàng hoàng, nhân dân thế giới sững sờ trước sức mạnh Việt Nam. Đòn tiến công Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của chính phủ Hoa Kỳ và đập tan hy vọng về khả năng trúng cử nhiệm kỳ tổng thống mới của Giôn-xơn, trực tiếp đưa Hoa Kỳ đến bàn Hội nghị Paris. Những "nỗ lực hòa bình" không đi đến đích buộc Giôn-xơn phải tuyên bố: đơn phương ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở lại, sẵn sàng đàm phán hòa bình vào bất kỳ lúc nào và bất kỳ đâu, đồng thời không tái tranh cử. Không để Hoa Kỳ chờ đợi lâu, ngày 3-4-1968, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa chính thức tuyên bố sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Hoa Kỳ, mặc dù những yêu cầu trong lập trường 4 điểm chưa được đáp ứng hoàn toàn.
Nhưng cuộc hòa đàm chưa bắt đầu lại lâm vào bế tắc, đó là vấn đề lựa chọn địa điểm họp. Nhiều nơi được đưa ra như: Gèneve, New Delhi, Jakarta, Tokyo, Vienne, Rome... nhưng đều bị hai bên bác bỏ. Sau hàng loạt những bất đồng, Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ đã thống nhất chọn Paris-thủ đô nước cộng hòa Pháp làm địa điểm tiếp xúc. Cuộc đàm phán song phương chính thức bắt đầu với phiên họp đầu tiên vào ngày 13-5-1968. Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy làm trưởng đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hariman là trưởng đoàn đại biểu chính phủ Hoa Kỳ. Các cuộc thảo luận vẫn xoay quanh vấn đề trung tâm: Hoa Kỳ xâm lược Việt Nam và Việt Nam dân chủ cộng hòa xâm lược miền Nam Việt Nam. Việt Nam dân chủ cộng hòa chủ trương tiếp xúc và hội đàm chính thức với tiếp xúc riêng ở hậu trường để thăm dò, tranh thủ dư luận, chưa đưa ra điều kiện mặc cả với Hoa Kỳ. Những thỏa thuận không sớm đi đến thống nhất vì nguyên nhân đến từ cả hai bên. Phía Việt Nam dân chủ cộng hòa đang chờ đợi kết quả cuộc tấn công quân sự đợt 3, vì đánh - đàm phải phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau, cộng với sự trục trặc giữa Hà Nội và Đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa ở Paris buộc đồng chí Lê Đức Thọ phải cấp tốc về Hà Nội trình bày với Bộ Chính trị và việc bàn chi tiết những vấn đề cụ thể cũng mất thời gian. Về phía Hoa Kỳ, chính quyền Sài Gòn tìm cách cản trở cuộc hội đàm vì lo sợ cho số phận mình khi Nhà Trắng rút quân. Giôn-xơn và Nguyễn Văn Thiệu đã gặp nhau tại Hội nghị Honolulu (tháng 7-1968) để bàn bạc nhưng không đạt được thỏa thuận. Lầu Năm Góc buộc phải bỏ ngoài tai những lời đề nghị của Thiệu để đi đến những quyết định nhanh chóng đạt được thỏa thuận ngừng ném bom và rút quân về nước.
Cuối tháng 9-1968, tình hình có nhiều chuyển biến tạo điều kiện cho các bên nhanh chóng thống nhất về những vấn đề chủ yếu. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đợt 3 của quân và dân miền Nam kết thúc, do mất đi tính chất bất ngờ, bí mật nên lực lượng ta thương vong lớn, phải chuyển sang thế củng cố, giữ gìn lực lượng. Quân Mỹ trên chiến trường Việt Nam tổn thất nặng nề, buộc thay đổi từ biện pháp chiến lược "tìm và diệt" sang chủ trương "quét và giữ". Tại Hoa Kỳ, cuộc bầu cử Tổng thống đang bước vào giai đoạn quyết định. Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy Đảng Dân chủ của Giôn-xơn mất dần tín nhiệm so với Đảng Cộng hòa. Vì vậy, chính quyền Giôn-xơn tìm cách thúc đẩy nhanh quá trình đàm phán để giành lại lá phiếu cho ứng viên Phó Tổng thống Humphrey. Bản thân Tổng thống Giôn-xơn cũng cần có một "mốc son" để ghi dấu vào "nỗ lực tìm kiếm hòa bình" của ông trước khi mãn nhiệm vì "Bất cứ một Tổng thống nào, đặc biệt vào lúc gần cuối nhiệm kỳ đều phải quan tâm đến sự phán xét của lịch sử đối với những công việc mà ông ta đã hoàn thành với tư cách là Tổng thống"[12]. Sau một thời gian tranh luận, thành phần tham dự hội đàm được cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ nhất trí. Theo đó, Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận sự có mặt của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên bàn đàm phán, đổi lại Việt Nam dân chủ cộng hòa phải đồng ý với sự hiện diện của đại diện phía Việt Nam cộng hòa. Sau những cuộc tranh luận căng thẳng, hai bên đã thống nhất về cuộc đàm phán chính thức giữa bốn 4 bên: Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hoa Kỳ, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Việt Nam cộng hòa.
Ngày 1-11-1968, Hoa Kỳ buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng quyết định muộn màng đã không cứu vãn được tình hình đã trở nên tồi tệ. Mục tiêu giành chiếc ghế Tổng thống cho ứng viên Humphrey của Đảng Dân chủ đã thất bại chỉ với tỉ lệ chênh lệnh chỉ là 0,6% (500.000 phiếu). Với Giôn-xơn, thắng lợi đáng kể nhất trong thời gian cầm quyền có lẽ là đã đạt được giải pháp thương lượng hòa bình khi đưa các bên liên quan ngồi vào bàn đàm phán chính thức tiến tới chấm dứt một cuộc chiến tranh hao tiền, tốn của.
Các cuộc tiếp xúc và hội đàm giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Giôn-xơn đã góp phần đưa Việt Nam và Hoa Kỳ đến gặp nhau chính thức tại bàn đàm phán ở Paris để giải quyết những vấn đề liên quan đến vận mệnh dân tộc Việt Nam. Những lời hứa hẹn và hành động của chính quyền Giôn-xơn không nhất quán làm cho nhân dân Hoa Kỳ và thế giới càng nhận thức rõ hơn về "dự án hòa bình" và "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Về phía Việt Nam, quân dân Việt Nam đã kiên trì, anh dũng vượt qua mọi khó khăn, thử thách từng bước đánh bại mọi âm mưu “thương lượng trên thế mạnh” và các bước leo thang chiến tranh của Mỹ, buộc chính phủ Mỹ chấp nhận bước vào đàm phán vô điều kiện để tìm giải pháp cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
[1] Lưu Văn Lợi,
Những chuyện ngoại giao nổi tiếng, NXB Công an nhân dân, 2004, tr.77.
[2] Ngày 10-4-1965, với Bị vong lục 328 – NSAM, Lầu 5 góc đã triển khai kế hoạch tăng cường một bộ phận quân chiến đấu Mỹ và hỏa lực hải quân, không quân sang miền Nam Việt Nam, đánh dấu sự thay đổi về chiến lược của Hoa Kỳ từ chỗ cố vấn, hậu thuẫn đến tham chiến trực tiếp, mở đầu chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Mỹ hóa cuộc chiến tranh Việt Nam
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.231.
[4] Nguyễn Duy Trinh, Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr.34.
[5] Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) - , Tập 4 - Cuộc đụng đầu lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.26-27.
[6] Hành quân Kẻ cướp (Maurauder) đánh vào Hậu Nghĩa, Long An; Hành quân Kẻ nghiền nát (Masher), Cánh trắng I & II (White – Wing I & II) đánh vào Bình Định, Hành quân Đại bàng đôi (Double Aighle) đánh vào Quảng Ngãi…
[7] Gồm có các nước xã hội chủ nghĩa, các nước liên quan tới Hiệp định Genève năm 1954 về Việt Nam, các nước dân tộc chủ nghĩa và nhiều nước khác quan tâm đến tình hình Việt Nam.
[8] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, .2000, tr.31, 32.
[9] Mai Văn Bộ, Hà Nội – Paris, Hồi ký ngoại giao, Nxb Văn nghệ, TP.HCM, 1993, tr.86.
[10] Bộ Ngoại giao, Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.221.
[11] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.231.