Thứ nhất, Đặng Thân trình bày thế này không phải là một cách đánh đố, nhưng tôi để ý đến mấy cái gạch nối ở đây. Cũng có thể anh ấy viết mấy chữ “dị nghị luận” mà không cần dùng mấy cái gạch nối này… Nhưng tất cả đang diễn ra như một quá trình, mà hậu hiện đại luôn luôn là một quá trình, hậu hiện đại không biết đến sự yên tĩnh. Quyển sách này là một sự không yên tĩnh. Không yên tĩnh ngay từ bây giờ. Tôi dám chắc rằng người đọc và các nhà phê bình sau này còn bàn nhau chán xem nó thuộc thể loại gì. Đương nhiên nó là nghị luận. Nhưng khi thì tôi nhìn thấy đó như một tùy bút khoa học; khi tôi nhìn thấy nó như một tiệp ký; khi tôi nhìn thấy nó như một phê bình tùy hứng và ngẫu hứng. Vậy thì cái việc xóa nhòa ranh giới nghị luận giữa các tiểu loại trong phê bình văn học là cái đang thách đố của Đặng Thân. Và Đặng Thân bây giờ có giải thích cho tôi tôi cũng không nghe, vì xin lỗi Đặng Thân, “tác giả đã chết”. Bây giờ là tiếng nói của người đọc. Roland Barthes có một câu nổi tiếng là “Tác giả đã chết.” Tức là khi anh viết xong tác phẩm ấy, đứa con ấy đã thuộc về người đọc, không còn thuộc về anh nữa. Cho nên tôi vừa tin vào tác giả tôi vừa không tin… Tôi chỉ biết anh Đặng Thân trên quyển sách này.
Thứ hai, cho đến bây giờ tôi vẫn chưa định được danh nó là gì. Tôi có một cảm giác thế. Con người có một điều rất lạ là yêu ai thì thấy nó cứ mờ mờ, ghét ai thì nhớ rất rõ mặt người ấy… Khi yêu thực ra rất nhòe mờ. Khi ghét chân dung của kẻ đáng ghét cực kỳ rõ. Nguyễn Du viết về Kiều thì nó cứ mờ mờ, viết về Hoạn Thư thì nhát nào ra nhát đấy... Tôi có cảm nhận về tác phẩm này ở chỗ này: khi tôi đọc 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân thì tôi chia sẻ ý của nhà phê bình Lã Nguyên là nó có lời diễn, vai diễn, văn bản kể và văn bản lời bàn, hai cái đó hợp thành một cấu trúc văn bản. Ở quyển sách này Đặng Thân cũng như thế, ông ấy tạo ra rất nhiều văn bản sống trên một văn bản. Cái này tôi chia sẻ với nhà phê bình Đỗ Lai Thúy, rất tinh, ở chỗ là Đặng Thân viết những mắt lưới trong quyển sách này. Không có những lý giải tuyến tính, không có những lý giải trong một ngành nghề nghệ thuật nhất định mà ông ấy có thể nói về triết, ông ấy có thể nói về văn, có thể nói về khảo cổ, có thể nói về lịch sử… tạo ra những mắt lưới. Và nếu người đọc không biết lần những mắt lưới thì dễ bị, như câu chuyện cảnh sát giao thông bây giờ quăng lưới để bắt xe. Và trước Đặng Thân một chút là “giăng lưới” để Nguyễn Huy Thiệp “bắt chim”. Không biết là Nguyễn Huy Thiệp và Đặng Thân giăng mắt lưới để bắt cái gì, thì có giời mới biết được. Tôi chỉ thấy trong quyển này nói rất nhiều bướm và Trang Tử. Có lẽ là giăng lưới bắt… Trang Tử chăng?
Ý ấy sẽ dẫn đến ý thứ ba của tôi: Đặng Thân lý giải những câu chuyện của mình không chỉ bởi mỹ học của cái thanh, mà bằng mỹ học của cái tục. Ơ hay! Tôi nhìn thấy dân số Việt Nam sắp tới 90 triệu rồi, đâu đứng thứ 13 hay 16 thế giới. Như vậy tốc độ đẻ của Việt Nam cực kỳ nhanh, thế mà người Việt Nam vẫn bịt mũi trước những gì nói đến tục. Tại sao đẻ nhanh thế? Như vậy là ban ngày thì ông cứ nói về cái thanh còn đêm thì ông cứ lần mò cái tục. Vâng, ca dao rất quái: Ban ngày quan lớn như thần / Ban đêm quan lớn lần mần… linh tinh. Tôi muốn nhại một chút bằng ngôn ngữ của tôi, nhà phê bình. Như vậy nhại không chỉ có trong sáng tác, mà nhại có ngay trong ngôn ngữ phê bình. Đặng Thân chơi nhại trong môn phê bình. Đó là điểm thứ ba.
Điểm thứ tư tôi sẽ nói rất gọn. Trong quyển sách này, trong kết luận của tôi (gần như cuối cùng thôi bởi vì chắc tôi còn nghĩ về nó) thì tôi thấy một điều này: anh Đặng Thân khi nói về mỹ học của cái thanh và cái tục, thế là anh ấy cũng nói đến cái lấn chồng giữa trung tâm và ngoại vi. Hóa ra có những lúc mình nhớ về một ký ức không phải là mình nhớ đến cái thanh, mà lắm lúc mình nhớ đến cái tục. Cái tục trở thành một mật mã giữa một người này với một người khác, giữa một nhóm người này với một nhóm người khác. Cho nên, cái thời chúng ta đang sống là thời của tiểu thuyết. Ngày xưa tiểu thuyết thuộc thể loại hạ đẳng, bây giờ nó trở thành nhân vật chính trên sân khấu. Cho nên những cái này, những cái hôm nay nó là mầm, là nụ; những cái hôm nay dẫu chưa thật hoàn mỹ, ngày mai biết đâu nó lại thành chủ thể trong một sân khấu khác. Cho nên, tôi và các anh, các chị, các bạn ở đây, chúng ta là một chặng trên hành trình của quá trình ấy.
Tôi nghĩ tôi đã đọc Đặng Thân như thế.