Những góc nhìn Văn hoá

Bài giảng môn Kinh Thi tại lớp Hán học khóa I của Viện Văn học

Lớp Đại học Hán học khóa I của Viện Văn học khai giảng vào đầu quí 4 năm 1965. Thầy Nam Trần là một trong những vị đứng trên bục giảng truyền đạt kiến thức Hán học trực tiếp cho chúng tôi ngày ấy. Trong chương trình học, thầy giảng dạy hai bộ môn: Kinh ThiĐường Thi. Hơn 40 năm đã trôi qua, những kiến thức tiếp thụ được đã góp phần quan trọng trang bị cho anh chị em lớp kế cận chúng tôi nghiên cứu, sử dụng Hán học ngày nay.

Nhân dịp kỷ niệm tròn 100 năm sinh của thầy Nam Trần Nguyễn Học Sĩ kính yêu (1907 - 2007), chúng tôi lược thuật lại những điều đã lĩnh hội được qua lời giảng của thầy ở hai bộ môn Kinh ThiĐường Thi. Riêng về Kinh Thi, Viện Văn học còn mời Giáo sư Du Quốc Ân của trường Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc) sang giảng trực tiếp tại Viện cho chúng tôi vào tháng 4 - 1966.

Ở đây, chúng tôi gộp cả hai phần giảng về Kinh Thi của hai vị để trình bày cho phong phú hơn.

Trước hết, cần nhắc lại rằng ngày ấy trong hoàn cảnh sơ tán, thiếu thốn đủ thứ, mà bom đạn giặc vẫn không hề làm cho thầy trò chúng tôi hoang mang dao động. Những tri thức cổ mấy nghìn năm trước của nhân loại vẫn được các thầy truyền đạt rõ ràng, mạch lạc một cách hào hứng có hệ thống.

*

* *

Kinh Thi là một tổng tập thơ ca cổ nhất của Trung Quốc xưa, xuất hiện khoảng giữa thế kỷ VI trước công nguyên. Ban đầu sách này chỉ gọi là “thi”, chứ chưa gọi là “Kinh Thi”. Từ khi Khổng Tử đem Thi, Thư, Lễ, Nhạc dạy cho môn đệ, các nhà Nho đời sau mới gọi là “Kinh”. Đến đời Hán mới chính thức có tên “Kinh Thi”. Hán Vũ đế “bãi truất bách gia, độc tôn Nho giáo”, bài xích bách gia, chỉ đề cao Nho giáo. Đến lúc này, bộ tác phẩm văn học gồm 305 bài thơ đời Chu mới được mệnh danh là “Kinh Thi”.

Trừ một số rất ít bài có tính chất cá biệt, còn thì hầu hết các bài thơ trong Kinh Thi đều khó xác định bài nào sáng tác vào thời gian nào. Những tác phẩm được sáng tác muộn nhất cũng vào đầu đời Tây Hán, và sớm nhất vào giữa thời Xuân Thu. Nghĩa là từ thế kỷ XI đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên, cả thảy hơn 500 năm. Toàn bộ phần Chu tụng và phần Tiểu nhã sáng tác vào những năm đầu đời Tây Chu. Một số ít bài trong Đại nhã và phần lớn bài trong Tiểu nhã sáng tác vào những năm cuối thời Tây Chu tức là thời đại của Lệ Vương, U Vương. Một phần của Quốc phongTiểu nhã là những sáng tác thuộc đầu thời Tây Chu, phần chủ yếu là được sáng tác từ sau khi Bình Vương Thiên đô về phía Đông (Bình Vương đông Thiên, vào khoảng 770 TCN). Còn Vỗ tụngThương tụng đều là tác phẩm của các nhà thơ quí tộc thời Xuân Thu. Như vậy, xã hội Tây Chu là xã hội nô lệ. Từ Bình Vương đông Thiên trở đi, xã hội mới chuyển biến mạnh, cho mãi tới Xuân Thu - Chiến Quốc, mới bắt đầu vào chế độ phong kiến. Cho nên thời đại của Kinh Thi là thời đại chế độ nô lệ từ chỗ thịnh đến chỗ suy.

Trong 300 bài Kinh Thi, có ca dao của nhân dân, có sáng tác của quí tộc. Về thời gian kéo dài năm sáu trăm năm. Về khu vực, chỉ kể 15 quốc phong, cũng đã trải ra trên một vùng rộng lớn, từ lưu vực sông Hoàng Hà đến lưu vực sông Giang Hán của Trung Quốc, cụ thể gồm các tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam và Hồ Bắc.

Vào đời Chu, 300 bài thơ trong Kinh Thi đều được xem như những chương nhạc, vì tất cả đều được phối với các thứ đàn, sáo, có thể hát lên được. Ba loại Phong, Nhã, Tụng, trong Kinh Thi cúng dựa theo tính chất âm nhạc mà phân. Phong tức là một thứ âm nhạc mang màu sắc địa phương. Nhã, tức là thứ âm nhạc trên vùng đất cho vương triều nhà Chu trực tiếp cai quản. Nhã có nghĩa là chính triều nhà Chu trực tiếp cai quản. Các thái sư nhà Chu đã xem những điệu nhạc sản sinh ra trên vùng đất trực thuộc nhà vua là thứ “chính thức”. Còn Tụng thì có nghĩa là “hình dung”, là một thứ âm nhạc sử dụng khi cúng tế trong cung thất. Từ khi 300 bài thơ được phổ nhạc và chỉnh lý thành sách thì con cái quí tộc lấy đó làm tài liệu để học “lục thi” - phong, phú, tỉ, hứng, nhã, tụng - qua sự hướng dẫn của các vị thái sư.

Khổng Tử dùng Kinh Thi để dạy học trò và cũng đính chính một số chỗ trong Kinh Thi. Vì mối quan hệ mật thiết giữa Khổng Tử với Kinh Thi mà các nhà Nho cùng học giả đời Hán đã gọi ông là người san định cuốn Kinh Thi.

Về tác giả của 300 bài Kinh Thi, có những sáng tác của dân gian, nhưng cũng có sáng tác của quí tộc. Trong Kinh Thi có một khối lượng lớn về dân ca là những sáng tác truyền khẩu được tập hợp lại, có thể đã được nhuận sắc ít nhiều, nhưng nội dung cơ bản vẫn giữ nguyên được bộ mặt thật của nó. Nó phản ánh chân thực mối quan hệ giai cấp trong xã hội lúc bấy giờ. “Cơ giả ca kỳ thực, lao gia ca kỳ sự”, người đói nói chuyện ăn, người khổ nói chuyện làm. Những người lao động nghèo sẵn sàng vạch trần tội ác của bọn bóc lột, tố các thân phận cùng cực của mình. Tất cả đều là những mâu thuẫn cơ bản tỏ rõ sự đấu tranh giai cấp gay gắt của xã hội đương thời.

Bài Phạt đànNgụy phong thể hiện tinh thần chống trả sự áp bức bóc lột, người lao động đã nhìn thấy chỗ bất hợp lý qua hành động bóc lột của giai cấp thống trị, và nghiêm khắc chỉ trích chúng:

"Bất giá bất sắt

Hồ thủ hòa tam bách triêm hề?

Bất thú bất liệp

Hồ chiêm nhĩ đình hữu huyền huyên hề?"

(Không trồng trọt, không gặt hái, sao lấy lúa 300 bó? Không săn bắn gì, sao ở sân có treo lợn lòi?).

Cuối bài thơ, tác giả thét lên:

"Bì quân tử hề,

Bất tố xan hề!"

(Hỡi các ngài tai to mặt lớn kia ơi, chớ có mà ngồi rồi ăn không!).

Trong Ngụy phong có bài Thạc thử:

"Thạc thử, thạc thử

Vô thực ngã thử.

Tam tuế quán nhữ

Mạc nhã khẳng cố.

Thệ tương khứ nhữ

Thích bì lạc thổ.

Lạc thổ lạc thổ

Viên đắc ngã sở."

(Chuột to chuột to, chó ăn lúa thử của ta. Ba năm nuôi dưỡng mày, mày không thèm đoái hoài đến ta. Thề sẽ bỏ mày, đi đến nơi lạc thổ kia. Hỡi lạc thổ lạc thổ, thế là được nơi ta yên ở!).

Nhưng tìm đâu cho thấy “lạc thổ”? Khắp nơi chỉ thấy lũ chuột lớn! Chẳng qua đây là một ảo tưởng, một ước vọng hão huyền mà thôi. Bài Hoàng điểu trong Tiểu nhã, những người nông dân nghèo chẳng đã từng bỏ xứ sở mà đi rồi lại quay về đó sao? Dẫu sao, những lời đó cũng có ý nghĩa của sự chống đối bắt đầu.

Trong Quốc phong còn có nhiều bài thơ tố cáo tình trạng phu phen tạp dịch nặng nề, như bài Thức vi trong Bội phong. Bài Bão vũ trong Đường phong nói đến hoàn cảnh những người lao động nghèo bị ép đi phu, ruộng đất bỏ hoang. Cha mẹ già không biết nương tựa vào đâu, chỉ còn cách chờ chết đói. Đó là sự lo lắng của bản thân người đi phu đối với gia đình. Còn thân quyến của họ cũng luôn luôn mong ngóng họ. Bài Quân tử vu dịch trong Vương phong đã nói lên tình cảm sâu sắc đó:

"Quân tử vu dịch

Bất tri kỳ kỳ.

Hạt chí tai?

Kê thê chi thời

Nhật chi tịch hỹ

Ngưu dương hạ lai

Quân tử vu dịch

Như chi hà vật ti?"

(Chàng đi phu phen, không biết lúc nào mãn hạn. Bây giờ là lúc nào đây? Gà đã lên chuồng, ngày đã tối vậy. Bò dê cũng xuống rồi, chàng còn đi phu phen, làm sao không nhớ được?).

Còn có những bài người dân lao động nghèo vạch mặt, mỉa mai, châm biếm cuộc sống hoang dâm vô sỉ của bọn thống trị đương thời, như bài Tân đài trong Bội phong, Nam sơn (Tề phong), Chu lâm (Trần phong), ... Tân đài châm biếm Vệ tuyên công xằng bậy với con dâu, Nam sơn chế diễu anh em Tề Tương công thông dâm với nhau, Chu lâm mỉa mai việc Trần Linh công qua lại với Hạ Cơ. Thời Xuân Thu, những chuyện xấu xa như vậy của bọn thống trị còn nhiều lắm. Nhiều nhà thơ dân gian đã ghét cay ghét đắng và họ không tha bất cứ một hiện tượng nào.

Chúng ta cần thấy một ưu điểm lớn nữa của dân ca trong Kinh Thi. Đó là những bài thơ đưa người con gái lên địa vị chủ yếu và lấy việc yêu đương hôn nhân làm đề tài. Nhiều bài thơ trong Quốc phong thuộc về tình yêu, phản ánh đủ các thứ trắc trở trong đời sống yêu đương. Có những bài miêu tả niềm sung sướng của những đôi trai gái trong trắng ngây thơ, yêu nhau một cách hồn nhiên không tính toán, như bài Trần vĩ Trịnh phong. Có bài nói lên tâm trạng khấp khởi, hồi hộp của một người tình nào đó trước một cuộc hẹn hò gặp gỡ vụng thầm. Hay một mẩu tâm trạng vui vui khi nhận được quà tặng của người yêu. Tình nữ trong Bội phong là một ví dụ. Có bài nói lên sự say sưa của những đôi trai gái nhất kiến chung tình, như Dã hữu man thảoTrịnh phong. Có bài nói lên nỗi xót xa khi hai người con trai con gái chưa đến được với nhau như Quan thưHán quảngChu nam. Cũng có những cuộc tình duyên dang dở như Giảo đồngTrịnh phong, những cuộc gặp gỡ sau bao xa cách, những mừng tủi tủi như Phong vũTrịnh phong. Đó là những bài thơ hồn nhiên tươi tắn, chân thành cởi mở, biểu hiện những tình cảm thật thà chất phác của người dân lao động. Tư tưởng tình cảm của họ được phản ánh trong những bài thơ ấy trong sáng và lành mạnh. Xin dẫn một chương ở bài Hán quảng trong Chu nam:

"Nam hữu kiều mộc,

Bất khả hưu tức (tư).

Hán hữu du nữ

Bất khả cầu tư.

Hán chi quảng hĩ

Bất khả vịnh tư

Giang chi vĩnh hĩ

Bất khả phương tư.

Kiều kiều thác tân

Ngôn nghệ kỳ sở.

Chi tử vu qui

Ngôn mạt kỳ mã.

Hán chi quảng hĩ

Bát khả vịnh tư,

Giang chi vĩnh hĩ

Bất khả phương tư."

(Phương Nam có cây cao, không thể ngồi nghỉ mát dưới đó. Sông Hán có người con gái đẹp, không thể cầu hôn được. Sông Hán rộng, không thể bơi sang. Sông Trường Giang dài, không thể thả bè sang. Đã đẵn củi thì đẵn cành cao nhất. Người con gái đẹp kia đi lấy chồng, ta sẽ xin đi cho ngựa ta ăn. Sông Hán rộng, không thể bơi sang. Sông Trường Giang dài, không thể thả bè sang).

Bài Xuất kỳ đông môn trong Trịnh phong cũng vậy:

"Xuất kỳ đông môn

Hữu nữ như vân.

Tuy tắc như vân

Phi ngã tư tồn.

Cảo y ky cân

Liêu lạc ngã vân."

(Ngoài cửa thành đông, con gái đông như mây. Tuy là như vậy, nhưng đều không phải là người của ta mong nhớ. Áo trắng khăn thâm, cũng đủ làm vui được tâm hồn ta.

Trịnh phong cũng có bài thơ viết rất chân thực và cởi mở, đó là bài Đông môn chi thiền:

"Đông môn chi thiền

Như lư tại bản

Kỳ thất tắc di

Kỳ nhân thậm viễn.

Đông môn chi lật

Hữu tiễn gia thất

Khởi bất nhĩ tư

Tử tất ngã tức."

Dưới chân con đê ngoài cửa thành đông, có hai gia đình ở sát cạnh nhau. Cô con gái nhà này yêu cậu con trai nhà kia, lúc nào cũng tơ tưởng tới cậu ta, nhưng không dám chủ động đến tìm, lại trách là sao cậu ta không chịu tới chỗ mình! Rõ ràng tác giả đã vạch ra được những ý nghĩ thầm kín ở một cô gái.

Tuy nhiên tình yêu nam nữ trong Quốc phong không phải dễ dàng, tự do như thế. Kinh Thi nhiều lần nhắc tới câu “Lấy vợ như thế nào? Không mai mối thì không được!” (Thú thê như chi hà, phỉ mối bất đắc). Ngày xưa “không được sự đồng ý của bố mẹ và lời qua lại của mai mối” (bất đắc phụ mẫu chi mệnh, môi chước chi ngôn) thì sự việc không xong. Ở bài Bách chu, một cô gái bị bà mẹ cấm đoán không cho đi lại với người yêu, đến nỗi lấy cái chết để thề nguyền. Cô gái trong Thương trọng tửTrịnh phong trái lại, van người yêu chớ lai vãng nhà mình, vì mối tình giữa họ chưa được cha mẹ cô đồng ý:

"Thượng trọng tử hề,

Vô du ngã lý,

Vô chiết ngã thụ kỷ!

Khởi cảm ái chi,

Úy ngã phụ mĩ (mẫu).

Trọng khả hoài dã

Phụ mẫu chi ngôn,

Diệu khả úy dã!"

(Xin chàng trọng tử, chớ trèo qua tường nhà em, chớ làm gẫy cây kỷ nhà em! Em có dám tiếc những thứ ấy đâu, chỉ vì em sợ cha mẹ em mắng. Chẳng là người đáng yêu, nhưng lời nói của cha mẹ cũng là đáng sợ!).

Trong Kinh Thi, thơ châm biếm của quí tộc có thể xem là sự phản ánh những mâu thuẫn nội bộ giai cấp thống trị. Về mặt khách quan, tuy có lúc loại thơ này cũng đề cập tới nỗi khổ của nhân dân, như ở bài Chính nguyệt trong Tiểu nhã:

"Thử thử bỉ hữu ốc

Tốc tốc phương hữu cốc.

Dân kim chi vô lộc

Yêu yêu thị trốc,

Khả dĩ phú nhân,

Ai thử quỳnh độc!"

(Bọn tiểu nhân thấp thỏi kia đều có nhà mà ở, chúng có rất nhiều thóc lúa. Dân chúng ngày nay bất hạnh, tai họa lại giáng thêm xuống nữa. Kẻ giàu sang sướng biết bao, chỉ có những người dân cô độc, không quần không áo là xấu số!).

Do chỗ họ đều là hàng sĩ đại phu, thuộc nội bộ giai cấp thống trị, xuất phát từ lợi ích cá nhân mình, nên cũng có kẻ đặc biệt quan tâm đến vận mệnh quốc gia gắn liền với vận mệnh bản thân họ. Cho nên họ nói: “Ưu tâm thảm thảm, niệm quốc chi vi ngược” (nghĩ đến nước nhà đang dùng quá nhiều chính sách bạo ngược, mà lòng lo lắng không yên) (Chính nguyệt). Còn nói “Chiến chiến căng căng, như lâm thâm uyên, như lý bạc băng” (Run run sợ sợ, như đứng trên bờ vực sâu, như đạp lên trên băng mỏng) (Tiểu mân). Hoặc nói: “Kỳ hà năng thực, tái tư cập nịch” (Nếu anh cho rằng việc đó không giúp gì cho chính sự, thì rồi có lúc vua tôi các anh sẽ rơi vào tai nạn) (Tang chu). Lúc bấy giờ nào thiên tai, nào nhân họa, “cơ cận tồn trăn”, “dân tốt lưu vong”, vận mệnh quốc gia treo ở đầu sợi tóc! Vì đâu đưa đến nguy cơ đó? Có nhà thơ cho là vì một lũ “tham nhân bại hoại” (bài Tang thưĐại nhã, một lũ đương quyền thời bấy giờ. Bọn này hoành hành phá phách, làm càn làm bậy:

"Nhân hữu thổ điền,

Nhữ phản hữu chi.

Nhân hữu nhân dân,

Nhữ phúc đoạt chi.

Thử nghi vô tội,

Nhữ phản thu chi.

Bỉ nghi hữu tội,

Nhữ phúc thoát chi."

Người ta có ruộng, mày lại cướp làm sở hữu. Người ta có nhân dân, mày lại đoạt làm của riêng. Người này đáng lẽ không có tội, mày lại bắt bớ người ta. Kẻ kia đáng lẽ có tội, mày lại giải thoát cho nó) (Chiêm ngangĐại nhã).

Ngoài ra, còn một bọn “xảo ngôn như huỳnh” được bọn thống trị tin dùng (bài Xảo ngônTiểu nhã) và những mụ đàn bà “lưỡi dài”, hay làm mưa làm gió (bài Chiêm ngang), cái kiểu “Phụ hữu trường thiệt, duy lệ chi giai” (Mụ đàn bà dài lưỡi, là thang bậc của các thứ tội lệ). Vì vậy, nhà thơ đã ghét cay ghét đắng bọn chúng, nguyền rủa bọn chúng:

Thủ bỉ trấm nhân,

Đầu tí sài hồ.

Sài hồ bất thực,

Đầu tí hữu bắc,

Hữu bắc bất thụ,

Đầu tí hữu hiệu!

(Bắt kẻ dèm pha kia, đem vứt vào nơi chó sói, hùm beo. Hùm sói không ăn, thì vứt lên miền bắc hoang giá. Nếu miền bắc hoang giá không nhận, thì vứt lên cho trời!) - (Hạng bá - Tiểu nhã).

Qua đó có thể thấy giai đoạn từ cuối Tây Chu đến đầu Đông Chu (tức từ cuối đời Lệ Vương, U Vương cho đến Chu Bình Vương đông thiên), cũng là thời kỳ xã hội nô lệ chao đảo, mâu thuẫn và đấu tranh dồn dập nổ ra trên nhiều mặt. Một số người trong hàng ngũ giai cấp thống trị muốn đứng ra để cứu vãn nguy cơ đó, đã sáng tác không ít những bài thơ châm biếm, lớn tiếng hò hét, nhưng vẫn không ngăn nổi bước tiến của lịch sử. Rút cục, những bài thơ của họ nhiều lắm cũng chỉ cung cấp thêm chút ít nhận thức về lịch sử xã hội ngày xưa mà thôi.

Về phương pháp sáng tác, Kinh Thi thể hiện phương pháp sáng tác hiện thực. Điều đó thể hiện khá rõ ở nhiều bài trong Quốc phong. Ví dụ ở bài Thất nguyệt, tác giả miêu tả tỉ mỉ những việc làm khẩn trương, vất vả của người nông dân quanh năm, cùng cuộc sống bi thảm của họ để so sánh với sự hưởng thụ của bọn chủ nô. Điều đó đã bóc trần được thực tế bóc lột tàn nhẫn của xã hội nô lệ làm cho người ta vô cùng căm giận. Ngoài trăm công nghìn việc đồng áng, người nông dân còn phải hái dâu nuôi tằm, dệt vải may áo, săn bắn, nấu rượu, làm nhà, đục băng... Nhưng họ không miêu tả cuộc sống một cách bàng quan, mà trong tự sự còn có trữ tình. Những tiếng gào: “Ta ngã phụ tử”, “Ta ngã nông phu” (Cha con ta ôi! Nông phu ta ôi!) đã làm cho đọc cảm thấy như máu và nước mắt của người nông dân đang còn ướt đẫm bài thơ. Có thể nói bài Thất nguyệt là tác phẩm hiện thực xuất sắc của Kinh Thi.

Ở phần Quốc phong, những bài như Hoàng điểu trong Tần phong, tác giả lấy đề tài bọn thống trị dùng người tuẫn táng với tất cả sự thương xót và đồng tình sâu sắc với người bị nạn của tác giả để chống lại việc làm man rợ ấy. Tâm sự mâu thuẫn mà người phụ nữ trong Thương trọng tử kể lại cũng làm cho ta thấy được nỗi khổ đau của cái xiềng xích tinh thần mà xã hội có giai cấp đã khoác lên cho người phụ nữ.

Phần lớn những bài thơ trữ tình trong Kinh Thi đều biểu đạt rất thành công hoạt động nội tâm của nhân vật chính, do đó đã thể hiện được hình tượng nhân vật một cách rất sinh động và chân thực. Đây cũng là điểm nổi bật trong nghệ thuật của Kinh Thi. Chẳng hạn bài Manh, thông qua sự tố cáo trực tiếp của nhân vật nữ, ta thấy được những nỗi ly hợp buồn vui trào lên như nước triều dâng. Người con gái ấy lúc thì: “Hu ta cưu hề, vô thực tang thầm! Hu ta nữ hề, vô dữ sĩ đam!” (Ôi con chim cưu, chớ ăn quả dâu! Ôi người con gái, chớ có say mê con trai!). Có lúc lại: “Tịnh ngôn tư chi, cung tự điêu hĩ” (Lắng lại suy nghĩ, mình thấy xót xa nỗi mình). Để rồi một lúc khác lại kể lể ngọn nguồn: “Cập nhĩ giai lão, lão sử ngã oán” (Cùng anh sống đến già, về già lại làm ta oán hận). “Tổng giác chi yến, ngôn tiếu yên yên, tín thế đán đán, bất tư kỳ phản. Phản thị bất tư, diệc dĩ yên tai” (Khi còn để tóc trái đào thì ăn ở với nhau vui vẻ chan hòa, lời thề ước với nhau còn rành rành, không nghĩ đến chuyện trắc trở sau này. Thôi cũng đành vậy biết làm sao bây giờ). Vừa ăn năn, vừa uất hận, vừa bực tức vừa dứt khoát, đặc điểm tính cách của người đàn bà ấy đã hiện lên một cách sinh động. Bài Cốc phong tuy cùng một chủ đề, nhưng khi người đàn bà bỏ nhà ra đi thì lại “hành đạo trì trì, trung tâm hữu vi” (chân bước dùng dằng, trong dạ áy náy), đi không nỡ, cuối cùng không thể đi được. Nỗi đau trong lòng cô khó mà hình dung được: “Thùng vị đồ khổ, kỳ cam như tể” (Ai bảo rau đồ là đắng, nó còn ngọt hơn rau tể). Sau một hồi khóc than trách móc, người vợ vẫn còn hy vọng ở người chồng phụ bạc: “Bất niệm tích giả, y dư lai ky” (Anh không nhớ ngày xưa vất vả cực nhọc, khi đó chỉ có tôi là được anh yêu thôi) đến lúc này vẫn muốn dùng tình xưa nghĩa cũ để lay động lòng chồng, điều đó đã thể hiện được nét dịu dàng đôn hậu, nhưng cũng yếu đuối hồ đồ của nhân vật chính trong câu chuyện.

Co gái trong bài Kiển thườngTrịnh phong đã nói với người bạn trai rằng:

"Tử huệ tư ngã,

Kiển thường thiệp Trăn.

Tử bất tư ngã.

Khởi vô tha nhân?

Cuồng đồng chi cuồng dã thư!"

(Chàng yêu và nghĩ đến ta, thì xắn quần lội qua sông Trăn. Chàng không nghĩ đến ta, thì há rằng ta không có người khác sao? Chàng là thằng ngốc trong những thằng ngốc!).

Đây vốn là bài thơ trữ tình mang tính chất đùa cợt. Thông qua sự miêu tả nội tâm, ta thấy hiện ra trước mắt hình tượng một cô gái ngây thơ, hoạt bát, tinh nghịch, vô cùng sinh động.

Ngoài ra những bài như Quyển nhĩ trong Chu nam, Thái lộc trong Tiểu nhã đều là những bài nói lên nỗi mong nhớ của người vợ khi chồng xa vắng. Bài Thái lộc qua khắc họa nỗi lòng sầu muộn của một cô gái, đã nêu bật hình tượng người thiếu phụ một niềm trân trọng tình yêu:

"Chung triêu thái lộc

Bất doanh nhất cúc.

Dư phát khúc cúc,

Bạc ngôn qui mộc."

(Buổi sáng hái rau lộc, nhưng vẫn không đầy ôm. Đầu ta rối bù, về nhà tắm gội).

"Chung triêu thái lam,

Bất doanh nhất xiêm.

Ngũ nhật vi kỳ,

Lục nhật bất chiêm."

(Suốt buổi sáng hái rau lam, nhưng vẫn không đầy vạt áo. Chàng hẹn năm ngày sẽ gặp, nhưng nay đã sáu ngày rồi mà vẫn chưa thấy chàng về).

"Chi tử vu thú,

Ngôn lương kỳ cung.

Chi tử vu điếu,

Ngôn luân chi thằng."

(Chàng mà đi săn, ta sẽ theo chàng đi giữ cung tên. Chàng mà đi câu, ta sẽ theo chàng đi sửa dây câu).

Miêu tả cảnh vật mà khắc họa nhân vật trong thơ trữ tình cũng là một đặc điểm nghệ thuật của Kinh Thi. Cái hay của nghệ thuật thơ ca là cảnh và tình cùng hòa hợp với nhau. Tình cảnh hòa hợp lẫn nhau tức là trong tình có cảnh trong cảnh có tình tình và cảnh hòa với nhau làm một. Mặt khác, dùng phương pháp điểm xuyết cảnh vật, làm nổi bật cảnh vật để tăng thêm yếu tố trữ tình. Bài Thập mẫu chi gian trong Ngụy phong là thuộc trường hợp thứ nhất:

"Thập mẫu chi gian hề,

Tang giả nhàn nhàn hề,

Hành, dữ tử hoàn hề..."

(Trong đám ruộng dâu mười mẫu, người đi hái dâu đã xong việc, thảnh thơi. Họ rủ nhau: đi! tôi cùng các chị về đi!...).

Những bài thơ cảnh, tình chan hòa vào nhau như thế trong Kinh Thi vẫn còn nhiều. Như trong bài Đông sảnMân phong, Thái vĩTiểu nhã...

Bài Khiểm hàTần phong miêu tả một chàng trai vào một buổi sáng mùa thu đi tìm một người “ý trung nhân” (người yêu hoặc người bạn). Người ấy ở trên một cồn rộng có dòng nước uốn khúc lượn quanh, chàng trai nhìn thấy nhưng không sao đến được:

"Khiểm hà thương thưong,

Bạch lộ vi sương.

Sở vị y nhân

Tại thủy nhất phương.

Tố hồi tùng chi,

Đạo trở thả trường

Uyển tại thủy trung ương."

(Cây lau xanh tốt, sa trắng đã thành sương. Con người ấy ở bên kia dòng nước. Đi xuôi dòng nước để đến người ấy, thì rõ ràng người ấy ở trong nước).

Trong Kinh Thi có những bài tính nghệ thuật tương đối cao khi khắc họa hình tượng nhân vật, như bài Giản hềBội phong, khắc họa nên hình tượng một vũ sư có thân thể vạm vỡ:

"Giản hề giản hề, phương tương vạn vũ.

Nhật chi phương trung, tại tiền thượng xứ.

Thác nhân ngụ ngụ, công đình vạn vũ

Hữu lực như hổ chấp bí như tổ.

Tả thủ chấp thược, hữu thủ bình dược

Hách như ốc dã, công ngôn tích tước."

(Khỏe mạnh thay, vạm vỡ thay, chàng ấy sắp múa văn múa vũ.

Mặt trời đứng giữa trưa, chàng ấy ở hàng đầu.

Người đẹp to khỏe, đứng ra múa vạn ở trước sân nhà vua.

Sức lực anh ta như hổ, nắm dây cương như nắm giải lụa.

Tay trái cầm ống sáo, tay phải cầm lông chim trĩ,

Mặt đỏ như thoa son, vua Vệ Linh công khen ngợi và ban cho một chén rượu.

Bài Thạc nhân trong Vệ phong khắc họa nên cái đẹp của người phụ nữ cũng vô cùng sinh động:

"Thủ như nhu di

Phu như ngưng chi.

Lĩnh như tù tề

Xỉ như bổ tê

Tần thủ nga mi.

Xảo tiếu thuyến hề,

Mỹ mục miện hề..."

(Tay ai như cọng cỏ gianh non, da như mỡ đọng, cổ như con nhộng dài. Hạt bầu tựa thể răng ai, đầu xinh mà lại mày ngài thêm kinh. Đôi con mắt đẹp long lanh, miệng cười tươi tắn cho tình càng say).

Phương pháp biểu hiện bằng tỉ hứng là đặc điểm của nghệ thuật truyền thống trong thơ ca Trung Quốc, nhất là ở những bài dân ca Kinh Thi. Ngoài “phong”, “nhã”, “tụng”, còn có “phú”, “tỉ”, “hứng”. Cứ theo mặt chữ mà xét, thì “phú”, “tỉ”, “hứng” là ba thủ pháp biểu hiện khác nhau trong sáng tác thơ. Chu Hy giải thích “phú”, “tỉ”, “hứng” như sau:

“Phú giả, phô trần kỳ sự nhi trực ngôn chi dã. Tỉ giả, dĩ hĩ vật tỉ thử dã. Hứng giả, tiên ngôn tha vật dĩ dẫn khởi sở vịnh chi từ dã”.

(Phú là trình bày sự việc và nói thẳng vậy. Tỉ là lấy vật kia để ví với vật này vậy. Hứng là đầu tiên nói vật khác để cuối cùng dẫn tới điều mình muốn nói).

Trong ba loại này thì “phú” là phương pháp thường dùng nhất. Còn “tỉ” và “hứng” là hai khái niệm có chỗ tương tự, nhưng vẫn có thể phân biệt được. “Tỉ” là “tỉ dụ”, chẳng hạn nhân dân lao động chửi giai cấp bóc lột, ví chúng với “thạc thử”, điều này rất dễ lý giải. “Hứng” cũng có tác dụng của “tỉ”, nhưng không trực tiếp. Như “đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa” với mấy câu liền sau đó “chi tử vu qui, nghi kỳ thất gia” vốn không có quan hệ trực tiếp. Thế nhưng, màu sắc tươi thắm rực rỡ của hoa đào lại làm nổi bật vẻ đẹp và sự trang sức của cô dâu, cũng như cái không khí náo nhiệt tươi vui khi cô ta về nhà chồng. Điều đó được liên tưởng đến một cách tự nhiên. Cho nên “tỉ” và “hứng” về một phương diện nhất định nào đó có sự giống nhau. “Hứng” với “tỉ” do đó vừa có chỗ khác nhau, lại vừa có liên hệ với nhau, chúng không hẳn là hai khái niệm khác nhau hoàn toàn. Bởi vậy ở Trung Quốc trước kia trên luận đàn thơ ca, hễ đề cập tới phương pháp biểu hiện là y như người ta đặt “tỉ” và “hứng” bên nhau. Như sách Văn tâm điêu long có thiên Tỉ hứng bàn về vấn đề “tỉ” và “hứng” của thơ ca. Đương nhiên trong “Kinh Thi cũng có trường hợp “hứng” chỉ dùng mở đầu bài thơ, như bài Hoàng điểuThần phong trong Tần phong chẳng hạn. Ở đây câu khởi hứng hình như không có quan hệ gì lắm với chính văn của bài thơ. Nhưng thật ra, “hoàng điểu” có thể ví với người lương thiện, còn “cức”, “tang”, “sở” đồng âm với “cấp”, với “tang” hoặc “thương”, với “sở” trong “khổ sở”. Hoàng điểu từ rừng rậm vụt bay ra, có nghĩa là chim lìa tổ cũ, cũng có thể tượng trưng cho cảnh tiễn biệt. Những câu có thể “hứng” trong Kinh Thi hầu như đều có liên quan với ý thơ cả. Nếu có chỗ nào không giải thích được hoặc giải thích không trọn vẹn, thì đấy là do thời đại quá xa nên ta chưa tìm hiểu nổi mà thôi. Nếu cần lý giải một cách chính xác những chỗ dị đồng giữa “tỉ” và “hứng”, thì có thể nói như sau: tỉ là so sánh trực tiếp, hứng là so sánh gián tiếp, tượng trưng. Còn như sự khác nhau về yính chất của chúng thì có lẽ không nên quá nhấn mạnh.

Thủ pháp tỉ hứng trong Kinh Thi rất linh hoạt và đa dạng. Đối tượng để tỉ hứng cũng rất nhiều. Phàm các hiện tượng tự nhiên như cây cỏ, chim muông, cầm thú, côn trùng, tôm cá... không có cái gì không nằm trong phạm vi sử dụng của nhà thơ, thật không thể nào nêu hết được, nhất là ở phần dân ca trong Quốc phong. Ví dụ bài Khải phongBội phong:

"Khải phong tự nam

Xuy bỉ cức tâm

Cức tâm yêu yêu

Mẫu thị cù lao."

(Ngọn gió hòa thổi từ phương nam tới, thổi vào lòng bụi táo gai. Lòng bụi táo non tươi mơn mởn, bà mẹ thật là vất vả).

“Khải phong” là gió nam, có thể làm cho vạn vật sinh trưởng. Ở đây tác giả đã ví làn gió nam ấm áp với tình yêu con của người mẹ.

Hay trong bài Cốc phongBội phong có đoạn:

"Tập tập cốc phong

Dĩ âm dĩ vũ.

Mẫn miễn đồng tâm

Bất nghi hữu nộ!"

(Gió ở hang núi thổi lên ào ào, làm ra mây mù làm ra mưa. Tôi cố gắng ăn ở cho vừa lòng anh, lẽ ra ông không nên giận dữ như vậy).

Trong bài Tiêu liêuĐường phong dùng cỏ cây để so sánh:

"Tiêu liêu chi thực

Phiên diễn doanh thăng.

Bỉ ký chi tử

Thạc đại vô bằng.

Tiêu liêu thư!

Viễn điều thư!"

(Cây tiêu sai quá, trồng được đầy một thăng. Con người ấy đẫy đà hơn mọi người. Cây tiêu sai quá, xa xa vẫn ngát mùi thơm).

Nhà thơ đã ví người đàn bà đông con với cây tiêu liêu sai quả. Trong thơ Đường có câu: “Lục diệp thành âm, tử mãn chi” (lá xanh xum xuê, con cháu đầy cành) cũng là ý ấy.

Dùng các thứ cầm thú chim muông để so sánh, như bài Quan thư: “Quan quan thư cưu” được dùng để ví với những chàng trai đi tìm người yêu. “Tiêu tiêu bão vũ” được dùng để ví với cuộc sống long đong của người hành dịch. Loại chim “bão” chân không có ngón sau, đậu trên cây không vững, nên cứ đập cánh phành phạch. Hình tượng này dùng để so sánh với việc vua sai túi bụi, người dân lao động phải phục dịch đến mệt nhoài.

Bài Lang bạtMân phong có câu: “Lang bạt kỳ hồ, tái tư kỳ vĩ” được dùng để ví với một cậu ấm bụng phệ.

Lấy tôm cá và côn trùng để so sánh như bài Tệ cẩuTề phong. Tác giả dùng hình tượng lờ rách nát không bắt được cá lớn để châm biếm Lỗ Hoàn công không ngăn được Văn Vương về Tề. Bài Chung tư trong Chu nam nói chung tư là loài động vật nhỏ như cào cào châu chấu, nên dùng để so sánh với con đàn cháu lũ.

Về đặc điểm ngôn ngữ, bình dị, sinh động, dể hiểu. Cú pháp biến hóa linh hoạt. Về cơ bản là bốn chữ một, nhưng có có những câu dài ngắn khác nhau, biến đổi từ một đến tám chữ. Trong cùng một bài, cú pháp cũng thay đổi luôn, như bài Phạt đàn, Thất nguyệt chẳng hạn.

Chương tiết láy đi láy lại là sự trùng chương điệp tiếp do âm nhạc qui định, vì nó liên quan đến hát. Nhưng mỗi bài thường có từ hai đến ba bốn chương, mỗi chương chỉ thay đổi mấy chữ, như bài Phù dĩ, Thái cát chẳng hạn. Chính trong những chương tiết láy đi láy lại ấy, nhờ nhiều lần ngâm ngợi, tình cảm nhà thơ trở nên dồi dào hơn, vần điệu của thơ, tính âm nhạc và tiết tấu của thơ cũng do đó được tăng thêm. Trong Kinh Thi thường có hiện tượng ở đầu hay cuối mỗi chương thường lặp lại một hoặc mấy câu, như ở bài Thất nguyệt, Đông sơn, Hán quảng,... đều có tác dụng như trên.

Trong Kinh Thi, cách gieo vần cũng đa dạng. Vần điệu biến hóa không chừng, nhưng rút lại, có ba cách chủ yếu:

  • Cách một câu lại gieo vần như ở bài Quan thư, Đào yêu,... Nhưng riêng bài Quan thư, câu thứ nhất chương đầu lại nhập vận.
  • Hiệp vận từ câu đầu đến câu cuối, như ở bài Thập mẫu chi gian, Thạc thử (chương đầu), Thất nguyệt (chương 5), Cửu vực (ba chương cuối).
  • Giữa chương đổi vần, hay ở hai câu cuối của một chương đổi vần, hay ở hai câu cuối của một chương đổi vần, như ở bài Mộc qua (Vương phong), Viên hữu đào (Ngụy phong), hoặc ở chương đầu các bài Thần phong, Cát lý (Ngụy phong).

Ngoài ra còn có những bài hiệp vận chẳng theo một qui tắc nào, như trong đầu bài Cát đàm (Chu nam). Có khi trong cùng một câu cùng hiệp vận, như ở chương 2 bài Bào hữu khổ diệp (Bội phong) với hai câu “Hữu nễ tế doanh, hữu díu trĩ minh”, từng chữ trong sáu câu đều ăn vần với từng chữ tương ứng trong câu trước.

Ngoài ra hình thức trên, còn có nhiều hình thức gieo vần khác, ở đây không thể và cũng không cần thiết liệt kê ra hết.

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2009; (tr. 232-252)

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574153

Hôm nay

268

Hôm qua

2322

Tuần này

21699

Tháng này

221210

Tháng qua

130677

Tất cả

114574153