***
1.Dẫn nhập.
1.1. Như chúng ta đều biết truyện “cổ tích Việt” là một thể loại dân gian, ban đầu tồn tại bằng hình thức truyền miệng, sau đó mới được lưu lại dưới dạng văn bản. Ở Việt Nam, một số truyện dân gian tồn tại dưới hình thức truyền miệng từ xưa và bắt đầu được ghi chép lại bằng văn tự từ khoảng thế kỷ XV trở về sau. Vào thời kỳ đó, mặc dù người Việt đã có chữ Nôm để ghi lại tiếng Việt nhưng cho đến hiện nay người ta vẫn chưa tìm thấy một văn bản chữ Nôm nào thuộc thời gian ấy ghi lại truyện cổ dân gian. Những truyện được ghi chép lại mà ngày nay chúng ta có đều được thực hiện bằng chữ Hán. Chẳng hạn, khi giới thiệu tập Lĩnh nam chích quái người ta đã viết rằng “…những truyện chép ở trong Lĩnh nam chích quái vốn đã được truyền khẩu ở trong dân gian từ lâu đời rồi, về sau mới được các nhà nho dần dần sưu tập và viết lại” [V.Quỳnh - K. Phú, 1960, 11]. Trong tình trạng như vậy, có thẻ nói, vì phải ghi chép lại truyện lưu truyền trong dân gian bằng chữ Hán, các nhà nho xưa đã phần nào “Hán - Việt hoá” những câu chuyện dân gian của người Việt.
Trong lúc thực hiện việc ghi chép này, khi gặp những tên riêng Việt, về mặt nguyên tắc, các nhà nho sẽ thực hiện một quá trình “Hán - Việt hoá” (Sino - Viêtnamization) chúng. Điều này có nghĩa là, khi gặp những tên riêng Việt, để ghi chúng bằng chữ Hán, người ghi chép phải lựa chọn cách nào đó nhằm dùng chữ Hán chép lại những tên riêng ấy. Sự lựa chọn như vậy, có lẽ, chính là tìm cách chọn những chữ Hán ghi lại tên riêng đã có sao cho nó không làm sai lệch nội dung cảu chuyện cũng như tên gọi vốn đã có trong dân gian Việt.
Cho nên, chúng tôi cho rằng nếu tìm hiểu được cơ chế Hán - Việt hoá tên riêng của những truyện cổ dân gian có từ thế kỷ thứ XV như đã nói ở trên, việc làm ấy sẽ giúp chúng ta có thêm được tư liệu về cách thức Hán - Việt hoá tên riêng người Việt khi dùng chữ Hán ghi chép lại. Nhờ vậy, nó sẽ giúp ích chúng ta không chỉ trong việc hiểu biết sâu hơn về nội dung câu chuyện cổ dân gian của người Việt, mà còn qua đó làm sáng tỏ hơn một vài vấn đề thuộc về nguồn gốc ngôn ngữ - văn hoá của chúng. Mặt khác, tìm hiểu được cơ chế Hán - Việt hoá tên riêng trong truyện cổ dân gian, nó cũng sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nguyên tắc lựa chọn chữ Hán trong việc Hán - Việt hoá tên các địa danh cổ xưa (hay thuần) Việt, một hoạt động ngôn ngữ phổ biến và thú vị trong lịch sử nước ta hiện đang bị bỏ ngỏ.
1.2. Truyện cổ dân gian “Sự tích trầu cau” là một truyện được Vũ Quỳnh - Kiều Phú biên khảo hay tập hợp lại trong “Lĩnh Nam chích quái”. Các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian đều cho rằng tập “Lĩnh Nam chích quái” được lưu lại từ thế kỷ XV. Trong lời giới thiệu cuốn sách này, người ta đã viết “…cuối thế kỷ XV, Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã dựa vào các tài liệu đời trước, sửa chữa, sắp xếp lại và hoàn thành sách đó với 2 quyển 23 truyện” [V.Quỳnh - K.Phú, 1960, 10]. Điều này cũng có nghĩa là truyên cổ dân gian “Sự tích trầu cau” được Hán - Việt hoá chậm nhất là thế kỷ XV, cùng vào thời gian với nhiều truyện cổ dân gian Việt khác. Việc các nhà khảo cứu văn hoá dân gian xác nhận thời gian Hán - Việt hoá truyện cổ tích này cho phép cho chúng ta có cơ sở để ghi nhận rằng việc Hán - Việt hoá tên riêng trong truyện đã hoàn thành trong khoảng thế kỷ thứ XV. Xét trong mối tương quan với quá trình phát triển lịch sử tiếng Việt [T.T.Dõi, 2007], thời gian này là giai đoạn tiếng Việt chuyển từ Việt - Mường chung sang giai đoạn tiếng Việt cổ.
Như mọi người đều biết, trong truyện cổ dân gian “Sự tích trầu cau” có tên riêng của 04 nhân vật chính. Đó là tên của hai anh em họ Cao gồm Cao Tân (高檳) và Cao Lang (高 榔); là tên của hai cha con họ Luu (劉 hay 畱) gồm người cha Lưu Huyền (劉 玄) và người con gái Lưu thị (劉 連 hay 畱 氏) (1). Theo nội dung cốt truyện, Cao Tân (高檳) là anh, khi chết hoá thành đá vôi; còn Cao Lang (高 榔) là em, khi chết biến thành cau; riêng Lưu thị (劉 連 hay 畱 氏 ), được hiểu là người con gái họ Luu (劉 hay 畱), khi chết biến thành cây trầu. Như vậy, căn cứ vào nội dung câu chuyện và tên riếng nhân vật, chúng ta thấy có những mối liên hệ hữu cơ giữa tân (檳) - vôi, lang (榔) - cau và lưu (劉 hay 畱) - trầu. Nhìn ở bình diện ngôn ngữ học lịch sử, theo chúng tôi, mối liên hệ giữa tên riêng của nhân vật và chữ Hán dùng để ghi lại tên riêng như trên không hoàn toàn ngẫu nhiên mà có tính lý do. Nói một cách khác, khi Hán - Việt hoá tên riêng trong truyện cổ dân gian như truyện “Sự tích trầu cau”, các nhà nho thế kỷ XV trở về trước đã có lý do để lựa chọn chữ Hán (âm Hán - Việt) trong việc ghi tên nhân vật chính của cốt truyện. Theo chúng tôi, những phân tích sau đây về ngữ âm lịch sử tiếng Việt sẽ cho chúng ta thấy rõ lý do của sự lựa chọn ấy.
2. Vấn đề Hán - Việt hoá tên riêng trong truyện “Sự tích trầu cau”.
2.1. Trước hết chúng ta thứ xem xét tình trạng Hán - Việt hoá tên người con gái được ghi là Lưu thị (劉 連 hay 畱 氏, người con gái họ Lưu). Theo câu chuyện, sau khi người chồng (Cao Tân) và em trai của chồng (Cao Lang) bỏ nhà ra đi không về, Lưu thị đã lên đường đi tìm hai người. Tìm mãi không thấy, vì thương xót, nàng gục chết ở nơi hai người đã chết và hoá thành cây trầu leo quanh tảng đá vôi và cây cau. Như vậy, chữ Hán có âm Hán - Việt luu được dùng để chỉ tên người con gái khi chết được gọi là (hay đã hoá thành) trầu.
Nghiên cứu ngữ âm Hán - Việt của Nguyễn Tài Cẩn cho biết, âm lưu Hán - Việt hiện nay có âm đầu l bắt nguồn từ thanh mẫu lai và “Từ đầu thế kỷ X đến nay, phụ âm này giữ nguyên, bất bién” [N. T. Cẩn, 1979, 207]; còn về vần ưu (và âu) thì bắt nguồn từ vận bộ vưu và hầu của nhiếp lưu, vào thời Thiết vận vẫn có giá trị là âm tiết mở. Nhưng theo ông, từ cuối đời Đường, tức từ giữa thế kỷ thứ VII trở về sau, hai vận bộ này đã có âm cuối -w. Do vậy, cả vần âu và ưu Hán - Việt hiện nay “bắt nguồn từ khi …đã có âm trị əw, iəw” [N. T. Cẩn, 1979, 240]. Như vậy, nếu căn cứ vào ngữ âm Hán - Việt hiện nay, âm lưu đã bắt nguồn từ vận bộ có giá trị ngữ âm hoặc là [u] hoặc là [əw] hay hoặc là [iəw]. Vậy là, âm Hán - Việt lưu có dạng thức ngữ âm xưa giả định là [*lu] hoặc [*ləw].
Khi nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt, không khó khăn gì để chúng ta nhận thấy rằng âm trầu hiện nay có dạng thức ngữ âm thời Việt - Mường chung (Thế kỷ XIII - XV) là [*plu/blu] hay [*pləw] hoặc [*pliəw]. Theo đó, phụ âm đầu tr hiện nay tương ứng với tổ hợp *pl/bl, còn vần âu tương ứng với vần *u hoặc *âu xưa. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này khi so sánh từ trầu tiếng Việt với phưong ngữ, với từ điển của A. de Rhôdes và với những ngôn ngữ có họ hàng trong nhóm Việt - Mường. Bởi vì, tương ứng ngữ âm của phần vần [u] ~ âu hay âm đầu [pl/bl] ~ tr mà chúng ta vừa nói là một tương ứng ngữ âm có tính quy luật, một chứng cớ để ngữ âm học lịch sử xác lập sự chuyển đổi của một hiện tượng ngữ âm nào đó. Như vậy, mối liên hệ giữa vần âu và âm đầu tr trong từ trầu hiện nay với vần u và tổ hợp pl/bl giai đoạn Việt - Mường chung là một khả năng có thực. Những ví dụ minh hoạ dưới đây sẽ xác nhận điều đó(2):
TV
|
BTB
|
RA
|
TM
|
TR
|
AR
|
(lá) trầu
|
trù
|
blàu
|
tlù (NVK)
|
plù (NPP)
|
ulɜw
|
(con) trâu
|
tru
|
tlâu
|
tlu (NVK)
|
klu (NPP)
|
tariɜk
|
(con) gấu
|
cụ
|
gấu
|
củ (NVK)
|
cakụ (NPP)
|
cikù:’
|
cậu
|
cụ
|
cạu
|
cũ (NVK)
|
kụ (NPP)
|
kù:’
|
(vỏ) trấu
|
trú
|
tlấu
|
tlẩu (NVK)
|
taláp
|
ithiəp
|
sâu
|
su
|
sâu
|
khu (NVK)
|
ʈu
|
cirù
|
(con) dâu
|
du
|
dâu
|
du (NVK)
|
uju (NPP)
|
mpɨ:’
|
Khi so sánh dạng thức Hán - Việt lưu với dạng thức thuần Việt trầu, chúng ta nhận thấy cả hai đều có thể dẫn xuất từ một từ có phần vần xưa là u, hiện còn được luu giữ trong tiếng Việt Bắc Trung Bộ, trong tiếng Mường, thậm chí trong cả tiếng Rục lẫn tiếng Arem là những ngôn ngữ cổ xưa thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, nhánh Môn - Khmer họ Nam Á. Còn việc từ Hán - Việt lưu có âm đầu l cũng có thể được lý giải là do âm đầu trong từ trầu xưa là tổ hợp phụ âm có một thành phần là âm bên l. Như vậy có thể nói rằng, sự phân tích ở trên đã cho thấy dạng thức Hán - Việt lưu nhiều khả năng là cách Hán - Việt hoá lối nói thuần Việt blù trước đây. Hay nói một cách khác, các nhà nho ghi lại tên riêng của cô gái có họ là trầu bằng một từ Hán - Việt lưu (劉 hay 畱). Có thể nói, đây là cách ghi không chỉ đảm bảo sự chính xác về ngữ âm tiếng Việt vào khoảng trước thế kỷ XV mà còn rất trung thành về ý nghĩa của tên gọi.
Trong tiếng Việt hiện nay, người ta cũng có thể bắt gặp những mối liên hệ ngữ âm tương tự như vừa phân tích ở trên. Chẳng hạn, người Việt có biến thể cách nói ưu (sầu) ~ u (sầu) ~ âu (sầu) như nhau. Hay như mối liên hệ giữa từ Hán - Việt lưu ( 畱 hay 劉) với từ thuần Việt trầu hay giầu hoặc dầu còn thể hiện trong địa danh: ở Từ Sơn Bắc Ninh có làng Phù Lưu, tên Nôm là làng Trầu hay Giầu; ở Ứng Hoà Hà Tây (trước đây) có làng Phù Lưu, tên Nôm là Kẻ Dầu/Giầu, ở Quảng Xương Thanh Hoá có làng Trầu cũng với tên Hán - Việt là Phù Lưu v.v. Rõ ràng, mối liên hệ giữa luu Hán - Việt và trầu/giầu/dầu thuần Việt trong những địa danh tên làng ở miền Bắc Việt Nam như vừa nói trên không phải là một sự liên quan ngẫu nhiên mà có lý do ngữ âm lịch sử của nó.
2.2. Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu tình trạng Hán - Việt hoá tên người con trai thứ hai Cao Lang (高榔, anh Lang họ Cao), nhân vật trong câu truyện mà khi chết đã biến thành một loại cây gọi là cau (vì thế cũng có thể gọi là anh Cau).
Chúng ta đều biết rằng trong tiếng Việt hiện nay có hai từ khác nhau để chỉ loại cây có tên gọi là cau. Đó là từ cau và từ nang. Trong tiếng Việt, hai tên gọi này hoàn toàn đồng nghĩa. Đối với từ cau thì chúng ta không cần giải thích gì thêm; nhưng đối với từ nang thì nó có nghĩa là “cau” khi người Việt chúng ta chấp nhận hai cách nói khác nhau nhưng đều có nghĩa như nhau là “mo cau” hay “mo nang”. Như vậy, trong tiếng Việt, về cơ bản, người ta chấp nhận cau và nang dường như là hai từ đồng nghĩa hoàn toàn.
Trong nhiều ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và Đông Nam Á, có ngôn ngữ gọi cây này bằng âm cau nhưng cũng có ngôn ngữ gọi cây này bằng âm nang hay lang. Chúng ta có thể nêu lên ví dụ. Chẳng hạn trong nhóm Việt - Mường, tiếng Rục là [kaw], tiếng Mường là cau (NVK), tiếng Mã Liềng là [kăw], tiếng Arem là [kăw] v.v. Nhưng một thổ ngữ tiếng Mã Liềng khác (ở bản Khạ Phọng) lại là [panaŋ]; trong một số ngôn ngữ Môn - Khmer, tiếng Mnông là nang, tiếng Kơ Ho là pơnàng; tiếng Chăm thuộc họ Nam Đảo là panưng; các ngôn ngữ Thái - Kadai như tiếng Tày - Nùng là làng, tiếng Thái là lãng v.v. Trong tình hình sử dụng tên gọi loại cây này ở các ngôn ngữ bà con hay láng giềng của tiếng Việt như vậy, việc tiếng Việt đồng thời sử dụng cả dạng thức cau và nang như đã thấy ở trên là có thể giải thích được lý do.
Như vậy, khi mà chúng ta thấy trong tiếng Việt loại cây có tên là cau cũng có thể gọi là nang được chấp nhận đối với người Việt thì cũng có nghĩa âm tiết Hán - Việt lang (榔), về nguyên tắc, có thể dùng để chỉ nghĩa “ cây nang” hay cây cau”(3) Rõ ràng, chúng ta có lý do để nói rằng âm tiết Hán - Việt lang trong tên riêng Cao Lang (高 榔) có thể được hiểu theo nghĩa “anh chàng họ Cao, tên Cau/Nang”. Điều này có nghĩa là, tên riêng của nhân vật thứ hai trong câu truyện khi được Hán - Việt hoá cũng đã dẫn xuất từ một dạng thức ngữ âm nang hay lang hoàn toàn thuần Việt có nghĩa là cau. Nói khác đi, âm tiết Hán - Việt dùng để ghi tên riêng nhân vật này không chỉ đảm bảo sự chính xác về ngữ âm tiếng Việt mà còn rất trung thành về ý nghĩa của tên gọi, giống như cách xử lý ở trường hợp ghi lại tên nhân vật là người con gái họ Lưu đã phân tích ở trên.
2.3. Cuối cùng, chúng ta sẽ tìm hiểu mối liên hệ giữa tên riêng Cao Tân (高 檳) và từ có dạng thức ngữ âm là vôi trong tiếng Việt.
Việc so sánh từ vôi trong tiếng Việt hiện nay với các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường (những ngôn ngữ bà con gần với tiếng Việt) cho chúng ta biết rằng vào giai đoạn từ Việt cổ trở về trước, âm đầu của âm tiết phải là một âm tắc vô thanh [*p] hoặc hữu thanh [*b], còn âm cuối của nó là một âm bên lỏng [*l]. Kết quả nghiên cứu về ngữ âm lịch sử tiếng Việt đã có [N. T. Cẩn, 1995] sẽ xác nhận sự tái lập dạng thức ngữ âm Việt - Mường chung như vừa mô tả của từ vôi là một hiện thực. Chúng ta có thể quan sát quy luật ấy qua những ví dụ sau đây: tiếng Việt vôi, tiếng Mường pôl (NVK), tiếng Rục [kəpul], tiếng Arem [apʊ:l], tiếng Thà Vựng kpuul1 (MF), tiếng Mã Liềng [kupur], tiếng Sách [kapol] v.v.
Căn cứ vào dạng thức ngữ âm ở thời kỳ Việt - Mường chung của từ vôi vừa phân tích ở trên, chúng ta còn nhận thấy một biến đổi khác ở phần âm cuối trong tiếng Việt hiện nay. Đó là tình trạng âm cuối [*l] cổ xưa hoặc được chuyển thành bán nguyên âm [j], hoặc chuyển thành âm mũi [n] tuỳ theo từng phương ngữ. Điều này có nghĩa là, trong tiếng Việt có một tương ứng có quy luật giữa âm cuối [j] mà chữ viết quốc ngữ là i hay y và âm cuối [n] với chữ viết là n. Dường như cả hai dạng thức hiện đại này đều được dẫn xuất từ [*l]. Chúng ta có thể thấy điều đó qua những ví dụ sau đây: tiếng Việt Bắc Bộ (đầu) gối, (đi) cấy, củi (lửa), (gió) mây v.v.; tiếng Việt phương ngữ Bắc Trung Bộ (trốc) cún, (đi) cấn, củn (lửa), (gió) mân v.v.; còn trong tiếng Mường là cổl (lãi), (ti) cẩl, cúi (cúi), (xỏ) mầl, v.v.
Bây giờ chúng ta thử so sánh dạng thức Hán - Việt tân (trong Cao Tân) với dạng thức từ thuần Việt vôi. Việc phân tích những ví dụ dùng để minh hoạ cho những quy luật biến đổi ngữ âm vừa nói ở trên cho thấy phần vần của vôi và tân tuy không thật hoàn toàn như nhau, nhưng khá tương ứng với nhau. Sự khác nhau cần phải giải thích giữa dạng thức Hán - Việt và thuần Việt chính là phần âm đầu của âm tiết. Nếu như âm tiết Hán - Việt tân có âm đầu là t thì âm đầu của âm tiết vôi lại là v. Sự khác biệt này, thoạt nhìn có vẻ như không có liên quan gì với nhau, những về thực chất chúng ta vẫn nhận ra được những mối dây ngữ âm thể hiện sự liên hệ giữa chúng. Tình hình cụ thể là như sau.
Như đã từng phân tích, do âm tiết vôi hiện nay có âm đầu là âm xát [v], đồng thời chúng ta lại nhận thấy ở tiếng Rục chẳng hạn từ này là một dạng thức song tiết (disyllabic) hoặc bán song tiết (sesquisyllabic) nên có khả năng âm tiền thân của âm đầu Hán - Việt [ v ] ở giai đoạn lịch sử từ Việt - Mường chung trở về trước là âm tắc môi [ *p/*b ]. Nói như vậy cũng có nghĩa là âm thuần Việt vôi hiện nay cũng có thể có dạng thức xưa kia là *pôl hay *bôl. Mặt khác, âm đầu t trong từ Hán - Việt tân có khả năng dẫn xuất từ một âm tắc hữu thanh hay vô thanh *p hoặc *b. Bởi vì sự tương ứng giữa âm đầu [ t ] Hán - Việt với âm đầu [*p/*b] Hán - Việt cổ là có thực và không phải hiếm trong tiếng Việt. Cách nói Hán - Việt cổ bến tương ứng với Hán - Việt tân v.v là một ví dụ. Hay khi nghiên cứu nguồn gốc của âm đầu t Hán - Việt hiện nay, Nguyễn Tài Cẩn cũng đã chứng minh rằng ngoài việc dẫn xuất từ các thanh mẫu tinh, tùng v.v, âm đầu này còn dẫn xuất từ các thanh mẫu bang (có giá trị ngữ âm là [pj]) và tịnh (có giá trị ngữ âm là [bj]) [N.T. Cẩn, 1979, 186-191]. Cho nên nói rằng dạng thức ban đầu của âm đầu t Hán - Việt cũng có thể được tái lập lại là những âm môi p hay b hoàn toàn có thể chấp nhận được xét về ngữ âm Hán - Việt.
Như vậy, với tất cả những gì vừa phân tích ở trên, rõ ràng việc cho rằng tân là cách Hán - Việt hoá từ thuần Việt vôi là một khả năng hiện hữu, hoàn toàn có thể chấp nhận được.
3. Kết luận.
3.1. Những phân tích dựa trên việc xem xét mối tương ứng ngữ âm và ngữ nghía của ba từ thuần Việt trầu, nang (cau) và vôi với ba âm tiết Hán - Việt lưu, lang và tân dùng để chỉ tên riêng trong truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” cho phép chúng ta thấy rằng:
- Âm tiết Hán - Việt lưu (劉 hay 畱) dùng để chỉ họ người con gái (khi chết hoá thành cây trầu) có thể là do căn cứ vào dạng ngữ âm [*plù/blù] hoặc [*pləw/bləw] của tiếng Việt giai đoạn trước hoặc giai đoạn Việt - Mường chung trong lịch sử tiếng Việt. Dạng thức cổ này hiện nay chuyển thành trầu/giầu/dầu của chữ Quốc ngữ.
- Âm tiết Hán - Việt lang (榔), tên của người em (khi chết hoá thành cây cau), là cách Hán - Việt hoá dạng ngữ âm [*panaŋ/naŋ] của tiếng Việt giai đoạn trước hoặc Việt - Mường chung có nghĩa là “cau”. Dạng thức này vẫn duy trì cho đến hiện nay và chữ quốc ngữ ghi là nang/lang.
- Âm tiết Hán - Việt tân (檳), tên của người anh (khi chết hoá thành đá vôi) là cách Hán - Việt hoá dạng ngữ âm [*apʊ:l/kəpul] hay [*pol] của tiếng Việt giai đoạn trước hoặc Việt - Mường chung có nghĩa là “vôi”. Dạng thức này hiện nay được ghi bằng chữ quốc ngữ vôi.
3.2. Qua ba cách giả định nói trên, có thể nhận thấy rằng đối với tên riêng (và có thể là cả địa danh) thuần Việt khi được ghi lại bằng chữ Hán, người ta dường như lấy dạng thức ngữ âm thuần Việt làm cơ sở cho việc Hán - Việt hoá. Điều này có nghĩa là, dạng ngữ âm Hán - Việt được lựa chọn phải có mối tương ứng lịch sử với dạng ngữ âm thuần Việt thuộc vào khoảng thời gian thực hiện công việc Hán - Việt hoá. Và điều này cũng có nghĩa, xét ở khía cạnh ngữ âm lịch sử, cách ghi chép bằng chữ Hán tên riêng Việt phù hợp với giai đoạn lịch sử chậm nhất là vào thế kỷ thứ XV.
Như vậy, người ta có thể kể lại tóm tắt câu truyện “Sự tích trầu cau”, một truyện đân gian Việt mà không dùng âm Hán - Việt để gọi tên các nhân vật chính là như sau: “Ngày xưa, một nhà có hai người con trai giống nhau như đúc là Vôi và Nang. Lúc còn trẻ hai người rất thân thiết với nhau. Khi lớn lên, Vôi lấy vợ có tên là Trầu. Từ khi anh Vôi lấy vợ, không đối xử thân thiết với người em là Nang như xưa nữa. Buồn bực, Nang bỏ nhà ra đi. Đi mãi, đi mãi đến một bến nước thì gục chết và hoá thành một loại cây. Thương em, anh Vôi đi tìm nhưng tìm mãi vẫn không thấy. Đi đến bến nước nơi người em hoá thành cây, anh Vôi dựa vào gốc cây ấy ngồi khóc và sau đó cũng gục chết và biến thành hòn đá. Thương chồng thương em, người con gái tên Trầu đi tìm nhưng tìm mãi cũng không thấy. Khi đến bến nước nơi hai người đã chết, cô thương khóc thảm thiết rồi gục chết và biến thành một loại cây dây leo, leo quanh tảng đá và thân cây. Về sau, dân gian lấy lá dây leo, nhai với quả của cây thì thấy có mùi và vị thơm lạ. Khi nhổ nước nhai hai thứ đó vào đá thì có mầu đỏ hồng tươi. Thấy lạ, người ta tìm hiểu thì biết ba thứ đó là hiện thân của ba người có tình thương yêu nhau thắm thiết. Dân gian liền dùng ba thứ đó trong đám cưới, khi đón khách đến nhà chơi v.v. để thể hiện sự chung thuỷ, hiếu khách. Và trong dân gian người ta gọi tên ba thứ đó là cây nang (cau), lá trầu và vôi. Từ đó trong dân gian Việt có tục ăn trầu.”
Đối với chúng tôi, việc phân tích bản chất ngữ âm Hán - Việt Lưu (劉 hay 畱), Lang (榔) và Tân (檳) trong Lưu thị, Cao Lang và Cao Tân ở truyện “Sự tích trầu cau” do Vũ Quỳnh - Kiều Phú ghi chép ở thế kỷ XV là một sự thử nghiệm để tìm hiểu cơ chế Hán - Việt hoá tên thuần Việt trong lịch sử người Việt. Do đó, chúng tôi cũng hy vọng nhận được ý kiến trao đổi, góp ý của các học giả và các nhà nghiên cứu.
Chú thích:
1, Về cách viết chữ Hán tên các nhân vật còn lưu lại ngày nay, tình hình là như sau. Ở Thư viện Quốc gia, bản "Lĩnh Nam trích quái liệt truyện“(“ 嶺南摭恠列傳", tác giả Kiều Phú, Vũ Quỳnh viết tựa, bản chép tay, kí hiệu R.6), ờ tờ 16 chép “Cao thị tân lang truyện /高氏檳榔傳” (Truyện cây cau) chữ Hán của Cao Tân là 高檳, của Cao Lang là 高 榔, của Lưu Đạo Huyền (tức bố của Lưu thị) là 畱 道 玄, còn của Lưu thị là 畱氏; theo bản "Lĩnh Nam trích quái liệt truyện/ 嶺南摭恠列傳" Vũ Quỳnh viết tựa, Trần Thế Pháp biên tập, Vũ Quỳnh hiệu đính, Kiều Phú san định, bản chép tay, kí hiệu R.1607, tờ 17 chép: “Tân lang truyện / 檳榔傳” (Truyện cây cau), tên các nhân vật họ Lưu thị được ghi chữ Hán là刘連 (刘 “Lưu” là chữ giản thể của 劉). Còn ở Thư viện Viện Hán Nôm, sách "Lĩnh Nam trích quái” (biên soạn lại vào năm Chính Hoà thứ 18, năm 1697), kí hiệu A33, tờ 27b, chữ Hán của họ Lưu là 劉.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm tạ ThS Nguyễn Tuấn Cường và TS Lã Minh Hằng (Viện nghiên cứu Hán Nôm) đã kiểm tra và cung cấp cho tôi những thông tin nói trên về các chữ Hán.
2. Trong bài viết này, các ví dụ tiếng Việt (viết tắt là TV), tiếng Mường (viết tắt là TM) chúng tôi ghi theo cách ghi của chữ Quốc ngữ. Tư liệu lấy ở tài liệu nào, chúng tôi ghi theo cách ghi của tài liệu đó. Riêng tư liệu chúng tôi có được qua nghiên cứu điền dã, chúng tôi sẽ ghi theo cách phiên âm quốc tế (IPA) và chúng sẽ được đặt trong dấu ngoặc vuông [ ].
Tên công trình xuất xứ tài liệu và tên các ngôn ngữ, phương ngữ viết tắt là như sau: Rhodes A. de năm 1651 (RA); M. Ferlus năm 1979 (MF); Nguyễn Văn Khang chủ biên năm 2002 (NVK); Nguyễn Phú Phong - Trần Trí Dõi - M. Ferlus năm 1988 (NPP); A.N.SSSR năm 1987 (VX); tiếng Rục (TR); tiếng Arem (AR); tiếng Sách (TS); tiếng Mã Liềng (ML); tiếng Thà Vựng (ThV); phương ngữ bắc Trung Bộ (BTB) v.v.
Những dạng thức ngữ âm tái lập (tức giả định vào thời kỳ tiền ngôn ngữ) sẽ được chúng tôi đánh dấu * ở bên trái. Ví dụ, cách viết *âu có nghĩa đây là dạng thức tái lập vần âu của tiếng Việt ở thời kỳ tiền ngôn ngữ.
3. Ở đây, giữa tiếng Hán - Việt và tiếng thuần Việt có sự không tương đồng giữa âm đầu l và n. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, cách phát âm có sự lẫn lộn giữa âm đầu l với âm đầu n không phải là hiếm: Hà Nội ~ Hà Lội, đi lên ~ đi nên, phụ nữ ~ phụ lữ v.v. Vì thế có thể nghĩ rằng nang ~ lang có thể thuộc vào cách phát âm này (!?).
Hà Nội ngày 18 tháng 07 năm 2010.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
- A.N.SSSR (1987), Jazưk Mương, Iz. Nauka, Moscva, 1987, 517p
- Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội; Tái bản Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2000, 354 tr.
- (1985), Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
- (1991), Một vài nhận xét thêm rút ra từ cách đọc Cổ Hán Việt, Ngôn ngữ n04(84)/1991, tr 1 - 4.
- (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo), Nxb Giáo dục, Hà Nội 1995, 348 tr
- Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, NXb ĐHQG Hà Nội, 301 tr; tái bản năm 2000.
- (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội, Nxb Văn hoá Thông tin, 266 tr.
- (2005), Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2005, 268 tr; tái bản năm 2007, 271 tr.
- M. Ferlus (1979), Lexique Thavung - Francais, Cah. de ling. Asie Orientale no5 Mars 1979, p 71-94.
- Nguyễn Văn Khang chủ biên (2002), Từ điển Mường - Việt, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2002, 555 tr,
- Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Nxb Văn hoá Thông tin, 1181 tr.
- Nguyễn Phú Phong - Trần Trí Dõi - M. Ferlus (1988), Lexique Vietnamien - Rục - Francais, Universite de Paris VII, 1988.
.- Rhodes A. de (1651), Từ điển Annam - Lusitan - Latinh, Nxb Khoa học xã hội, 1991.
- Vũ Quỳnh - Kiều Phú (1960), Lĩnh nam chich quái, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1960, 139 tr.
Bài đã đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, 11(258) - 2010, tr1-8.
Bản tác giả gửi cho VHNA