Văn hoá học đường

Nghiên cứu và giảng dạy Khoa học xã hội ở Đại học Sư phạm trong thời kì hội nhập quốc tế

 

1.Hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra cho khoa học xã hội và nhân văn

Khoa học xã hội và nhân văn có nhiệm vụ nghiên cứu các quy luật hình thành và phát triển của xã hội và con người, cùng mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Vì vậy, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa.

Khoa học xã hội và nhân văn trong các trường đại học Việt Nam, không chỉ có chức năng nghiên cứu cơ bản, toàn diện về xã hội và con người Việt Nam trong tương quan với tự nhiên và xã hội, giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế, nhằm cung cấp cung cấp những tri thức cơ bản và phương pháp nghiên cứu khoa học, cùng những nghiệp vụ chuyên ngành, đồng thời hình thành nhân cách đáp ứng yêu cầu của xã hội và thời đại, mà còn góp phần nâng cao trình độ dân trí, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, tăng cường quan hệ quốc tế, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ xây dựng và phát triển đất nước.

Bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của toàn cầu hóa đi kèm theo cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba cùng với thực trạng thập niên đầu thế kỉ đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với các cộng đồng trên thế giới. Toàn cầu hoá là sự hội nhập vào thế giới và tạo ra sự tùy thuộc vào nhau giữa các cộng đồng quốc gia trong khu vực và thế giới. Hoà bình, đối thoại, hợp tác và phát triển đang trở thành xu thế lớn phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Nhu cầu xây dựng hệ giá trị, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các quốc gia, dân tộc càng trở nên bức xúc. Khoa học và công nghệ có những bước tiến nhảy vọt khiến cho diện mạo xã hội của thế giới thay đổi nhanh chóng cả về không gian và thời gian lẫn chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế thế giới đang chuyển sang kinh tế tri thức. Các nước đang phát triển có cơ hội thu hẹp khoảng cách, đồng thời cũng đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn và bị phụ thuộc vào các nước phát triển. Tuy nhiên, các mâu thuẫn của thời đại vẫn không kém phần gay gắt. Các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố cùng những đại dịch có nguy cơ lan tràn tạo nên những nguy cơ đe dọa sự yên ồn của hành tinh... còn xảy ra ở nhiều nơi vời tính chất phức tạp ngày càng tăng. Trật tự thế giới mới đang có nhiều biến động khó lường. Môi trường sống đang bị khủng hoảng nặng nề, nguy cơ biến đổi khí hậu đang hiện hữu đe dọa cuộc sống của toàn hành tinh phá hủy nhiều thành quả lao động và cướp đi hàng vạn sinh linh…Những biến đổi của thế giới đã đặt ra bốn thử thành đối với nhân loại: Một là hòa bình với tư cách là điều kiện tiên quyết để giải quyết mọi vấn đề khác. Hai là nhân loại phải đối mặt với sự gia tăng bất bình đẳng đến chóng mặt, phân hóa giầu và nghèo, văn minh và lạc hậu, dân chủ và bạo lực. Ba là phát triển bền vững và quản lí lành mạnh môi trường của hành tinh và cuối cùng là hiệu ứng lan tỏa, cộng hưởng các vấn đề của hành tinh vượt khỏi tầm kiểm soát của biên giới các quốc gia.

Trong khi đó Việt Nam sau 25 năm đổi mới, đất nước có nhiều biến đổi sâu sắc: đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thế và lực của Việt Nam lớn mạnh lên nhiều, mở ra nhưng cơ hội mới cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Mặt khác, nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức: nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách chưa đồng bộ nên chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Hiệu lực quản lý của nhà nước thấp, cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hệ thống giáo dục có nhiều vấn đề bức xúc, môi trường bị tàn phá nghiêm trọng… Những đổi thay của tình hình trong nước và thế giới nêu trên đang đặt ra hàng loạt vấn đề mới, bức xúc, đòi hỏi khoa học xã hội và nhân văn nước ta phải đi sâu nghiên cứu, lý giải có căn cứ khoa học, nhằm góp phần phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Báo cáo Chính trị của BCH Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội IX đã chỉ rõ: “Khoa học xã hội và nhân văn hướng về việc giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng con người, phát huy những di sản văn hóa dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hoá mới của Việt Nam”.

Hình thức giáo dục cổ điển của thế kỉ XX đã không thích ứng được với những biến đổi mạnh mẽ của khoa học và thực tiễn đang diễn ra trong nước và quốc tế. Hệ thống giáo dục quốc dân trong đó có các trường đại học cũng có nhiều vấn đề thách thức hoặc bức xúc đặt ra cho khoa học xã hội và nhân văn phải nghiên cứu và giải quyết: Thứ nhất là chất lượng của đội ngũ giáo viên, đòi hỏi năng lực tiếp cận kiến thức khoa học cũng như năng lực của đội ngũ giáo viên ở mọi cấp. Chất lượng của giáo dục phụ thuộc vào chất lượng cống hiến của đội ngũ giáo viên và mối quan hệ của giáo viên với sinh viên cũng như gia đình của sinh viên. Hai là nội dung giáo dục trong tất cả các nghành học đều quan trọng, tuy nhiên cần quan tâm đặc biệt tới giáo dục công dân và các giá trị cần thiết để rèn luyện thái độ tránh nhiệm của người công dân tương lai. Ba là dạy cách quan sát kĩ lường và thực hành sáng tạo các kiến thức hiện đại đang trong quá trình phát triển. Cần ưu tiên các kiến thức khoa học cũng như hiểu biết về lịch sử xã hội, cho phép xây dựng các tri thức cơ bản soi đường cho văn hóa, đạo đức và ý thức công dân ở nhiều tư cách (địa phương, quốc gia, khu vực và thế giới). Bốn là quan niệm về bối cảnh giáo dục, cần quan tâm tới sự đóng góp của những khoa học mới – đặc biệt sinh học và công nghệ thông tin trong việc nghiên cứu và làm chủ quá trình nhận thức cũng như các phương thức tiếp nhận và truyền đạt kiến thức. Năm là cần xây dựng môi trường giáo dục nhân văn, trong đó những chủ thể của nhà trường phải được ưu tiên và quan tâm thật sự nhất là sinh viên và giáo viên chứ không phải là những khẩu hiệu hình thức. Sáu là cần phát triển các thể chế giáo dục hướng tới sự quản lí linh hoạt và ít phân thứ bậc hơn, làm cho các trường đại học trở thành “doanh nghiệp giáo dục” tự chủ hơn và phải đúng chuẩn mực giáo dục, để có thể giao tiếp và chuẩn bị tri thức và trách nhiệm tối đa cho những công dân của tương lai. Bên canh đó là sự can thiệp của chính quyền với mục đích xác định chiến lược cho hệ thống giáo dục và quản lí thống nhất nhằm phục vụ tốt nhất cho việc đào tạo nhân tài và nâng cao dân trí.

Với những thách thức trên của ngành giáo dục, cũng như những tiến bộ định hướng cho cả hệ thống thế giới và quốc gia, thì ngành giáo dục không thể không tổ chức lại hoạt động giáo dục và học tập. Vấn đề này lại liên quan đến ba yếu tố quan trọng khác. Một là vấn đề tài chính chi cho ngành giáo dục thường là đạt tới 6% GDP (tổng sản phẩm quốc nội). Đây là một tỉ lệ khá cao trong khi sự gia tăng về chi tiêu của y tế, chăm sóc sức khỏe, kéo dài tuổi thọ, hưu trí, an ninh, quân sự, môi trường… đều đang đè nặng trên vai nền kinh tế. Đây là một mâu thuẫn nan giải, mặc dù “giáo dục vẫn được coi là quốc sách”. Hai là tác động thúc đẩy việc tổ chức lại hoạt động giáo dục và các phương thức học tập phải là nhu cầu của gia đình và xã hội và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba đặt ra, thông qua việc gia tăng cường độ cạnh tranh kinh tế và chất lượng đào tạo. Kết quả là tạo ra lợi thế cho các nước nhờ có đội ngũ lao động chất lượng tốt hơn. Mặt khác trong quá trình tổ chức lại hoạt động giáo dục cần lấy con người làm mục tiêu, chứ không phải chạy theo lợi nhuận là mục đích. Ba là quản lí các cơ sở giáo dục cần được phát triển dưới ảnh hưởng của sự cạnh tranh giữa các cơ sở và hệ thống giáo dục. Nó có vẻ chuyển từ hình thức quản lí hành chính sang cách thức quản lí tự chủ, sao cho các cơ sở giáo dục giống nhu các doanh nghiệp thực sự về đào tạo, hoặc công cộng hoặc tư nhân hoặc không hướng về lợi nhuận, ở đó các kết quả được đánh giá bởi tiếp nhận của xã hội.

Như vậy thực tiễn đặt ra cho ngành giáo dục và xu hướng đổi mới của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đáp ứng cho việc bảo vệ, xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế, đòi hỏi khoa học xã hội và nhân văn trong các trường đại học không thể không đổi mới nghiên cứu lí giải, tư vấn và dự báo xu hướng phát triển của ngành trong sự phát triển chung của đất nước và quốc tế, trên cơ sở những luận cứ khoa học, nhằm xây dựng con người Việt Nam hiện đại có phẩm chất đạo đức, có trách nhiệm công dân, biết lao động và sáng tạo, thiết thực phục vụ cho việc phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội bền vững, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trong khu vực và thế giới.

 2. Nhiệm vụ nghiên cứu và giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn trong trường đại học  

Trên cơ sở yêu cầu đổi mới của thời đại, để góp phần đổi mới nâng cao vị thế và chức năng của ngành giáo dục, trong đó có giáo dục đại học, đặc biệt giáo dục đại học sư phạm – ngành học trực tiếp đào tạo ra những thầy cô giáo để rồi lại tiếp tục đào tạo con người, những công dân tốt của xã hội, khoa học xã hội và nhân văn trong các trường đại học cần tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề chủ yếu sau đây:

2.1 Về mặt lí luận

Cần nghiên cứu những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu hoá.Nghiên cứu và dự báo xu thế phát triển chủ yếu của thế giới và khu vực những thập niên thế kỷ XXI, tìm ra những cơ hội và lợi thế đồng thời phòng ngừa các bất lợi, rủi ro, tập trung mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục nghiên cứu các chủ thể mới trong quan hệ quốc tế... có ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược phát triển của Việt Nam nhằm định rõ vị thế, vai trò, bước đi, chính sách hội nhập của Việt Nam vào các thể chế khu vực và toàn cầu..

Nghiên cứu vai trò của cuộc cách mạng khoa học lần thứ ba đối với sự phát triển của kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI, chú trọng sự tác động này tới xã hội và ảnh hưởng đến tiến trình phát triển của Việt Nam. Kết hợp hiệu quả và phát huy sức mạnh tổng hợp của khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh của đất nước.

Cần tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn của đất nước, con người, xã hội Việt Nam đồng thời thích ứng với những thay đổi của tình hình thế giới, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc, lựa chọn những bài học kinh nghiệm của các nước, đồng thời tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, một cách toàn diện và sâu sắc.     

Nghiên cứu làm rõ bản chất của nền kính tế thị trường định hướng XHCN, cùng với vấn đề đổi mới cơ cấu thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Nghiên cứu con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN ở nước ta sự biến đổi của cơ cấu xã hội và quản lý sự phát triển xã hội ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Nghiên cứu nhằm đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta, cải cách bộ máy hành chính Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyển XHCN của dân, do dân và vì dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tạo lập và phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những vấn đề lý thuyết của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nhằm làm sáng tỏ nội dung những vấn đề cơ bản, những quy luật của sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nghiên cứu quy luật phát triển của khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam, trong đó cần quan tâm tới khoa học giáo dục. Tổng kết và đánh giá sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong thế kỷ XX và thập niên đầu thế kỉ XXI, định hướng phát triển trong những thập niên tới của thế kỷ XXI, nhằm lý giải những vấn đề thực tiễn, nâng cao năng lực dự báo, khả năng phát hiện bản chất các vấn đề theo yêu cầu của phát triển của đất nước cũng như của thời đại đặt ra, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng và trình độ nghiên cứu lý luận.

Nghiên cứu sâu sắc và toàn diện nền văn hoá Việt Nam với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, sáng tạo những giá trị văn hoá mới của Việt Nam, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tích cực và chủ động hội nhập, đối thoại với các nền văn hóa trong khu vực và thế giới, tăng cường sức mạnh mềm văn hóa trong văn hóa đối ngoại Việt Nam.

Nghiên cứu cơ bản về con người và nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể xã hội, có trình độ học vấn, mang đậm tính nhân văn và các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của văn hoá nhân loại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế xã hội của công cuộc CNH, HĐH đất nước.

Nghiên cứu sự về bản chất và quy luật của phát triển bền vững. Đó là quá trình vận hành hài hòa giữa phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh công bằng xã hội và an toàn môi trường dưới ánh sáng điều tiết của văn hóa, nhằm đảm bảo thỏa mãn đời sống vật chất và tinh thần cho con người không chỉ ngày hôm nay mà còn cho thế hệ mai sau.

2.2 Về mặt thực tiễn          

Cần tiến hành điều tra cơ bản, tổng hợp liên ngành trên những khu vực trong cả nước và quốc tế từ các lĩnh lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, giáo dục… nhằm tổng kết thực tiễn, làm cơ sở cho công tác nghiên cứu lý luận, cung cấp luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và giáo dục trong cả nước, các ngành và từng vùng trọng điểm.

Tổ chức biên soạn những công trình, giáo trình, tài liệu trọng điểm thuộc các lĩnh vực lịch sử, văn hoá, văn học, ngôn ngữ, dân tộc, tôn giáo... nhằm phục vụ kịp thời yêu cầu của giáo dục trong các trường đại học và các nhu cầu cấp bách của xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người của thời đại mới.

Những nhiệm vụ trên đây sẽ được hiện thực hóa trong các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học ở các cấp Nhà nước, Bộ GD&ĐT, cấp trường, cấp viện. Kết quả nghiên cứu trong từng thời gian sẽ tập hợp thành các kiến nghị gửi tới các cơ quan của Đảng và Nhà nước, góp phần làm cơ sở, luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước trong đó có chính sách về giáo dục, đồng thời những kết quả nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn sẽ công bố rộng rãi trên các Tạp chí khoa học, trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên và học viên trong nhà trường và ngoài xã hội.

Mặc dù có những nỗ lực nhất định song nghiên cứu xã hội và nhân văn trong trường đại học biến đổi còn chậm chạp, giáo điều, giản đơn một mặt do điều kiện nghiên cứu khó khăn, mặt khác do bản thân chương trình giáo dục đại học hay thay đổi. Một lí do khác cũng đáng quan tâm là hoạt động tự nghiên cứu nâng cao tay nghề chưa được đáp ứng xứng đáng, để những người hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nói riêng có thể tiếp tục tái sản xuất sức lao động đầu tư cho nghiên cứu.

Về nghiệp vụ sư phạm, cần phối hợp nhuần nhuyễn giữa những vấn đề lí luận của khoa học xã hội và nhân văn và khoa học giáo dục trong bài giảng của từng phân môn chuyên ngành trong quá trình lên lớp, nhằm hướng tới việc hình thành toàn diện nhân cách người công dân tương lai. Nhiều giáo viên đã tận tậm say mê nghiên cứu, đem lại những giờ học thật hấp dẫn và nhiều ấn tượng tốt đẹp của các thế hệ sinh viên đối với những người thầy vừa đạo đức, nhiệt tình, vừa nhân ái nâng đỡ, dìu dắt thế hệ trẻ. Tuy nhiên, nhiều chỗ do giáo viên chưa được tập trung, cố gắng nghiên cứu khoa học, vì vậy nhiều chỗ vận dụng kiến thức liên ngành còn khiên cưỡng, dẫn đến bài giảng không có sức thuyết phục, chẳng hấp dẫn, tạo ra tâm lí chán học, học lệch một số môn chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn hoặc chỉ chạy theo những môn học phải thi tốt nghiệp hoặc thi đại học. Điều này đã được các phương tiện truyền thông đề cập đến thường xuyên.

Về tổ chức cần tôn trọng chủ thể tiếp nhận trong nhà trường là các sinh viên, đa dạng hóa các hình thức giáo dục, tạo điều kiện tối đa phương tiện học tập hiện đại để sinh viên tự hoàn thiện tri thức và nhân cách dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tuy nhiên trong những môi trường sư phạm đây đó còn để diễn ra những vấn đề chưa mang tính nhân văn. Trường lớp, thiết bị về sinh chưa đủ tiêu chuẩn, nóng, bẩn và bụi, cảnh quan thiên nhiên trong trường không được coi trọng, đặc biệt nhiều cơ sở đào tạo chạy theo mục đích kinh doanh kiếm lợi nhuận nhiều hơn là thực hiện nhiệm vụ đào tạo con người. bản thân sinh viên vốn là một chủ thể đầu tiên và quan trọng của giáo dục nhà trường, nhưng nhiều quyền lợi của họ không được đặt thành mục tiêu hoạt động và phục vụ của hệ thống các cơ quan chức năng trong nhà trường. Cơ chế hoạt động của các bộ phận nhiều chỗ cũng tùy tiện, thậm chí dẫm chân vào nhau cũng không loại trù cả những mục đích lợi nhuận mà hạ thấp chất lượng giáo dục. Việc quản lí của nhà trường, quản lí cán bộ và quản lí sinh viên còn nhiều chỗ lỏng lẻo nên có chỗ có nơi những hành vi tiêu cực của xã hội tràn vào trong nhà trường, nhà báo quốc tế đánh giá tham nhũng của ngành giáo dục là “tham những vặt”, hành vi tham những có tự nguyện của phía gia đình học sinh, (không loại trừ cả tham những lớn). Vấn đề bạo lực học đường diễn ra thường xuyên như một sự cảnh báo về suy thoái đạo đức trong nhà trường. Học sinh thanh toán nhau chỉ vì những cãi nhau, và cái nhìn không thân thiện, thậm chí tội ác ghê sợ do các sinh viên, những kẻ có học máu lạnh gây ra khiến cả xã hội bức xúc lên án. Tất nhiên những tệ nạn này có nhiều nguyên nhân, tuy nhiên với chức năng là nơi đào tạo nhân cách công dân thì nhà trường và hệ thống giáo dục phải chịu trách nhiệm đầu tiên.

Tất cả những thực trạng trên đòi hỏi các nhà khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu, lí giải đúng bản chất của các vấn về và đưa ra được những dự báo cũng như những giải pháp tích cực cho nhà trường, ngành giáo dục và Nhà Nước.

3. Các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở các trường đại học, các viện trực thuộc Bộ GD&ĐT một mặt cần nghiên cứu sâu các chuyên ngành khác nhau của khoa học xã hội và nhân văn phục vụ trực tiếp cho công tác giảng dạy, đào tạo con người của tương lai, đồng thời các nhà khoa học cũng cần trước hết tự mình phải là con người nhân văn, mặt khác bằng lí luận và thực hành góp phần làm cho môi trường giáo dục nói riêng và xã hội nói chung mang tính nhân văn. Vì vậy những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn trong trường đại học cần quan tâm tới những vấn đề về lí luận và thực tiễn sau:

3.1 Trước hết cần đổi mới tư duy về giáo dục.

Một mặt do tri thức về khoa học tự nhiên và xã hội ngày nay bùng nổ tới mức mênh mông và đa dang, đặc biệt những gì gắn với khoa học và công nghệ, vì vậy chương trình giáo dục phải lựa chọn và đưa các tri thức mới vào. Các phương pháp dạy học và cách đánh giá kiến thức cổ điển còn xa rời thực tế xã hội và nguyện vọng nhân dân, nhất là với thị trường lao động ngày cành đòi hỏi cao cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy cần làm phong phú quan niệm về tri thức, chuyển từ ý niệm tri thức qua tích lũy sang ý niệm về sự hiểu biết có ‎ý thức về các phương pháp và mục tiêu của tri thức, không những cần phải học mà còn phải học cách học, học về tư duy.

Việc tiếp thu và đồng hóa kiến thức khoa học và công nghệ luôn đổi mới đòi hỏi một khả năng thích nghi và một ý muốn hiểu biết mà hệ thống giáo dục phải thúc đẩy. Từ đây việc tích lũy thông tin ít quan trọng hơn việc phát triển khả năng học hỏi. Vì vậy hệ thống giáo dục cần thực hiện sự cân bằng giữa kiến thức lí thuyết được tích lũy và sự vận dụng những kiến thức này trong bối cảnh cụ thể. Sự phân biệt việc học tích lũy kiến thức với việc thực hành nghề nghiệp đã trở nên khó thực hiện trong một xã hội mà những phát minh khoa học cùng những ứng dụng của nó diễn ra ngày cành nhanh chóng vượt xa cả một đời người và một đời hành nghề. Chính điều này đã cho thấy nhà trường phải là nơi đào tạo đa ngành, không chỉ truyền thụ những kiến thức văn học và khoa học tối thiểu mà còn phải là nơi chuẩn bị một cuộc sống dân sự, văn hóa, xã hội và gia đình cho công dân tương lai, trang bị cho sinh viên những khả năng sáng tạo, thay đổi chuyên môn trong cuộc đời và biết thích ứng hoặc đương đầu với những biến đổi của kinh tế, xã hội trong thời đại mới.  

Mặt khác tri thức ngày nay còn được thức nhận bởi tính phức tạp của các vấn đề và tính tổng thể đa diện của các sự kiện, có khả năng tạo ra những liên hệ giữa các trật tự khác nhau của thực tiễn và tri thức. Vì vậy cuộc cải cách giáo dục nào cũng phải đề cập đến trước hết là cải cách tư duy. Tuy nhiên giữa cải cách tư duy và cải cách thiết chế luôn là một vòng tương tác gắn bó. Mặc dù vậy, cải cách tư duy vẫn là chìa khóa cho sự tham gia vào nền dân chủ thông qua việc tiếp thu tri thức dựa trên truyền bá kiến thức cho mọi người suốt cuộc đời. Từ yêu cầu trên, cần phải coi trong việc ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy thành thạo về các công nghệ mới và những yêu cầu mới của xã hội.

3.2 Xử lí tốt mối quan hệ mới giữa thày và trò trong thời đại mới

Hệ thống giáo dục cũ luôn thực hiện chức năng tái sản xuất và giữ gìn hơn là sáng tạo. Nhưng nhà trường lại phải là nơi sáng tạo. Yêu cầu của nền giáo dục mới đòi hỏi vượt lên hình thức giáo dục cũ, học tập dồn vào một thời gian (thời tuổi trẻ), cùng một không gian (nhà trường) được giao cho một người thầy hoặc một loạt thầy kế tiếp giảng dạy. Hình thức này đã tạo ra một nền giáo dục không khoảng cách      

Nhà trường mới vừa duy trì chức năng truyền bá kiến thức vừa còn đào tạo tư cách công dân. Ở đây không chỉ là hình thành “mạng lưới thông tin” mà còn có cả “mạng lưới xã hội”, nhà trường –gia đình – xã hội. Từ nay trường học sẽ nằm trên giao điểm của một tổng thể khổng lồ các phương tiện thông tin, giao tiếp và học tập. Thay đổi diện mạo của nhà trường và đa dạng hóa các chức năng của nó liên quan trực tiếp đến vai trò của người thầy giáo. Thầy giáo trong nhà trường mới không chỉ là người truyền thụ kiến thức chuyên ngành đơn độc mà vai trò của thầy giáo sẽ trở nên đa dạng và phong phú hơn, bao gồm việc làm chủ các lĩnh vực kiến thức và phương pháp truyền thụ kiến thức, sự hiểu biết về học sinh cùng với khả năng nhận biết và quản lí môi trường học tập. So với trước kia, vai trò người thầy giáo không chỉ thu hẹp trong việc truyền đạt kiến thức đơn thuần.

Vì vậy việc đào tạo giáo viên là một nhiệm vụ quan trọng có tính quyết định đối với việc đào tạo các thế hệ tương lai. Cần có những nỗ lực lớn của toàn xã hội, từ những quan hệ của Nhà nước và khu vực tư nhân, của gia đình, nhà trường và xã hội, đặc biệt liên quan đến việc làm chủ kĩ thuật mới, về xử lí và truyền đạt thông tin. Đã đến lúc cần đào tạo thường xuyên giáo viên, cán bộ giảng dạy và cập nhật những kiến thức cho họ nhằm tạo ra một không gian tương tác để có thể học tập suốt đời ở mọi cấp. Bên cạnh chức năng truyền thống là truyền thụ kiến thức và các giá trị, bồi dường thái độ và cách ứng xử tích cực, giờ đây cần bổ sung khả năng nắm bắt kịp thời thông tin về các tiến trình đang diễn ra và phản ứng nhanh chóng trước những nhu cầu mới của xã hội. Bởi lẽ vai trò và trách nhiệm của người thầy giáo được xã hội xác nhận ngày càng cao trong việc đào tạo ra thế hệ trẻ, những người công dân, những nhà chuyên môn luôn biết thích ứng sáng tạo đối với cấu trúc gia đình và xã hội đang bị biến đổi mạnh mẽ theo thời đại.

3.3 Trong thời đại mới, giáo dục cần được quan tâm cho mọi người và cho suốt đời. Điều này thể hiện tính dân chủ công bằng và nhân văn của xã hội. Ngoài việc học ở trường, giáo dục còn cần quan tâm tới những người lớn đặc biệt là phụ nữ bằng cách cung cấp cho họ cơ sở đào tạo cùng kĩ thuật và ngành nghề. Bên cạnh đó mọi hình thức tổ chức giáo dục cần đáp ứng một mặt khuyến khích mọi sáng kiến cá nhân tự bồi dưỡng kiến thức và phương pháp để nâng cao trình độ. Mặc khác cần bồi dưỡng cho các thế hệ sinh viên trình độ cơ bản để từ đó phát huy được năng lực bản thân, hiểu rõ cơ sở văn hóa, đạo đức và ý thức trách nhiệm công dân. Giáo dục đồng thời đào tạo con người và xây dựng xã hội. Trên quan điểm này, thì khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là giáo dục công dân cần có một vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục.

3.4 Cần biến trường đại học thành những trung tâm tiêu biểu về giáo dục cho mọi người và suốt cuộc đời. Trung tâm tiêu biểu của giáo dục trước hết phải là một môi trường văn hóa, bao gồm cảnh quan trường lớp, nhà làm việc, thư viện, sân vận động… đều đảm bảo sạch và đẹp. Quan trọng hơn là sự tôn trọng quan hệ ứng xử văn minh lịch sự giữa người với người: giữa thầy và trò, giữa phòng ban với chức năng phục vụ giáo dục và các chủ thể giáo dục là thày và trò…nhằm hướng tới thành công trong việc đào tạo con người cho quốc gia. Với tinh thần lấy con người làm trung tâm, giáo dục phải vì con người, trường đại học phải trở thành cơ sở đào tạo, tạo mọi điều kiện cho mọi người được học tập và học tập suốt cuộc đời.   

3.5 Trong thời đại hội nhập quốc tế, quá trình đào tạo cần coi trọng các quan hệ tương hỗ giữa địa phương và quốc tế, cá nhân và tập thể, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; coi trong quan hệ giữa các cá nhân trong trao đổi thông tin, giành một không gian đặc thù của địa phương trong lòng không gian khu vực và thế giới. Trong tương tác giữa các quan hệ này, mục đích giáo dục của thời đại mới được đặt ra là học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để cùng chung sống. Trong tính toàn cầu của giáo dục, một hệ thống giáo dục thế giới mở làm nền tảng cho một nền giáo dục mở, không biên giới, toàn cầu, nhân bản, không phân biệt và mang tính đạo đức. “Ngôi làng toàn cầu” sẽ không hình thành khi nó chưa có những công dân “Trái đất – Tổ quốc” biết đoàn kết và tôn trọng tư cách công dân quốc gia và các nền văn hóa địa phương. Chính vì vậy mà trong Hội nghị Thế giới về Giáo dục Đại học, ông chủ tịch Đại hội đồng UNESCO Eduacdo Poocteya trong diễn văn khai mạc có nói tới vai trò của trường đại học: “Giáo dục cao học có nghĩa là dạy lí thuyết và thực hành về mối quan hệ thông qua việc củng cố tính đa dạng văn hóa”.         

3.6 Nội dung của giáo dục trong thời đại mới

Cho dù cách thức giảng dạy và sự phạm ở Đông hay Tây, thì giáo dục vẫn không mất đi thiên hướng nhân bản và đa dạng. Điều này đòi hỏi nhà trường phải có chương trình học phong phú, phong cách dạy đa dạng nhằm phát huy tối đa tiềm năng của mỗi cá nhân, cho phép họ trau dồi các đặc điểm mạnh nhất về nhân cách của mình.

Như vậy giáo dục trong thời đại mới một mặt phải thích hợp với mỗi cá nhân, mặt khác lại phải trang bị những giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức cho xã hội công dân. Về mặt này thì bộ môn triết học và lịch sử của khoa học xã hội và nhân văn có tầm quan trọng đặc biệt. Giá trị cơ bản mà nhân loại để lại cho thế hệ sau bằng giáo dục được phản ảnh trong hai môn học trên. Sự hiểu biết chung về hai môn học này không chỉ là kiến thức mà quan trọng hơn là công cụ của nhận thức về các vấn đề quan hệ giữa người với người. Nó là cơ sở để xác lập tầm nhìn dài hạn và đạo đức của tương lai. Thông qua việc dạy học, hai bộ môn này thầy giáo có thể tạo dựng trí tưởng tượng tập thể và những biểu hiện chung thể hiện bản sắc các nhóm văn hóa và học cả cách tư duy có phê phán, nếu không có nó thì khái niệm dân chủ, tự do chỉ còn là những ngôn từ trống rỗng. Khi giảng dạy môn lịch sử, không chỉ coi trọng lịch sử dân tộc, mà còn cần mở rộng hơn để bao quát cả lịch sử khu vực và thế giới.  

Nhà trường luôn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tính công dân. Nhiệm vụ truyền thống này của giáo dục lại càng cần thiết trong thời điểm xung đột sắc tộc, xung đột văn hóa đang diễn ra ác liệt ở nhiều nơi trên thế giới, các giá trị và đặc trưng văn hóa dường như không tìm thấy tiếng nói chung. Vì vậy nhân loại cần tái lập tư tưởng công dân có tính đến đặc trưng của các nhóm người khác nhau ở các vùng miền khu vực khác nhau: một tư cách công dân đồng thời bao hàm cả những nét riêng của địa phươngquoocs gia khu vực và thế giới. Chính vì vậy mà UNESCO nhân mạnh đến sự cần thiết cải cách các chương trình giáo dục, để các chương trình này hướng tới việc truyền bá một nền văn hóa hòa bình. Nền văn hóa này không hề làm mất đi bản sắc của các dân tộc của giáo dục, nó cổ vũ cho sự đa dạng văn hóa và kêu gọi đối thoại văn hóa, đối thoại giữa các xã hội tìm ra được sự thỏa thuận về mục tiêu cunh của học tập trong một thế giới vừa mang tính toàn cầu, vừa đa dang lại được thông tin nhanh chóng và tốt hơn.      

Những vấn đề trên đây nêu ra vừa có tính lí luận vừa có tính thực tiễn cùng với cả những dự báo phương hướng phát triển, nhiệm vụ đầy khó khăn của ngành giáo dục nói chung và đào tạo đại học nói riêng trong thời đại mới, đòi hỏi khoa học xã hội và nhân văn trong nhà trường nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất quy luật của các vấn đề đồng thời vận dụng chúng một cahs nhuần nhuyễn và sáng tạo trong những bài giảng của bộ môn chuyên ngành, nhằm hình thành nhân cách những thế hệ công dân tương lai có phẩm chất đạo đức, có năng lực sáng tạo thích ứng và đối mặt với những yêu cầu của đổi mới xã hội và thời đại, thiết thực phục vụ cho công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển nước Việt Nam dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh, chủ động tích cự hội nhập khu vực và thế giới.

 

Tư liệu tham khảo chính:

1.                  Trần Lê Bảo- Khu vực học và nhập môn Việt Nam học. NXBGD HN 2008.

2.                  Federico Mayo - Một thế giới mới - UNESCO Việt Nam - NXB ODILE JACOP 1999

  

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114446162

Hôm nay

293

Hôm qua

2284

Tuần này

21771

Tháng này

212421

Tháng qua

120141

Tất cả

114446162