Thơ chữ Tàu mà chuyển sang chữ Pháp có những tánh cách ấy, thì âm vận quốc văn để dịch thơ Tàu chắc cũng không làm sao có những tính cách khá hơn thế đặng.
Dịch thơ Tàu là một môn rất khó. Nhưng chẳng phải không có lắm người mó tay đến. Trong đa số ấy, người ta, than ôi! Chỉ tìm được rất hiếm thiên tài. Mà Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là một. Tưởng đèn kê đèn. Ngoài bao nhiêu tập thơ do ông sáng tác, sự nghiệp văn chương ông ngày nay tưởng chỉ nên bằng vào công trình dịch thuật của ông mà đánh giá thôi.
Ông dịch có khi công phu lắm; mà có khi cũng chỉ trong thoáng chốc thôi. Bài đề từ Liêu Trai chí dị của Vương Ngư Dương:
Nói láo mà chơi, nghe láo chơi!
Giàn dưa lún phún hạt mưa rơi.
Chuyện đời hẳn chắc không buồnnhắc,
Thơ thẩn nghe ma đọc mấy lời.
Nguyên văn:
Cô vọng ngôn chi, cô thính chi?
Đậu bằng qua giá vũ như ty.
Liêu ưng ướm tác nhân gian ngữ,
Ai thính thu phần quỷ xướng thi.
Bài ấy, ông dịch được rất nhanh. Ông bảo với Nguyễn Tuân và Nguyễn Xuân Huy: “Tôi đã dịch bài này trên xe điện đấy, các ông ạ. Thế này: Hôm ấy là ngày in đến những trang cuối cùng của cuốn Liêu Trai rồi. Bài thơ này, tôi phải đưa in ngay. Thế mà lúc bước chân lên xe điện để lên nhà in chưa có một chữ nào cả. Nhưng lên xe cũng không nghĩ đến dịch. Thấy có mấy người nhà quê, tôi còn ngồi nói mấy câu chuyện phiếm. Rồi bỗng không biết sao, tự nhiên thi tứ nẩy đến. Tôi ngồi nhẩm dịch. Mà chỉ có một quãng chừng độ từ Chợ Hôm đến Bờ Hồ thì đã xong. Đến nhà in chỉ còn việc chép ra!... Phần nhiều những thơ văn tôi đều dịch dễ dàng như thế cả. Mà cái hứng nó đến không biết lúc nào…”(3).
Tuy bảo thế, chớ đôi khi Tản Đà cũng không dịch được dễ dàng như ông tưởng đâu. Trong quyển Đài gương truyện, dịch bài Đề vách của nàng Đào Anh là người đàn bà góa nước Lỗ, Tản Đà gặp câu “Tử giả bất khả vương” mà ông dịch là “Kẻ chết đi khôn để mà khuây”. Nàng Đào Anh viết câu này có ý muốn mượn con chim hoàng hộc để ví mình: hai chữ tử giả vừa chỉ chim mà cũng để nói đến người. Nên dịch là kẻ chết thời mất hẳn nghĩa chim đi. Vì thế, có một khuyết điểm! Và từ đó đến ngày chết, kể ra trên hai mươi năm, Tản Đà tiên sinh vẫn không tìm được chữ nào hay hơn để dịch tử giả. Thuở sanh tiền, ông thường bảo: “chữ kẻ” trong khi ấy viết gượng, mà từ đấy đến nay 20 năm, vẫn không sao kiếm được chữ khác”.
Ngoài những lúc gặp hứng dịch được dễ dàng, mà những lúc ấy bao giờ cũng hiếm! Tản Đà thường gặp nhiều bài thơ Đường dịch được rất lâu; vì đừng nói gặp nhiều chữ khó chi cho mất công, gặp nội một hai chữ như tử giả thì cũng đủ chết dịch giả rồi! Chúng ta được biết Tản Đà dịch bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Lý Bạch đến mười hôm, và thiên Trường hận ca của Bạch Cư Dị đến hai tháng trời!
Thế mà lúc dịch xong thiên Trường hận, Tản Đà còn tuyên bố chưa được hài lòng. Nghệ sĩ đối với nghệ thuật mình bao giờ cũng cầu toàn trách bị. Đó là một phẩm tánh đáng khen. Tản Đà không bằng lòng mình. Nhưng chúng tôi bằng lòng dịch giả thiên Trường hận của Bạch Lạc Thiện lắm. Vì đã từng đọc qua bản dịch thiên ấy của Vũ Đình Liên trên báo Thanh Nghị, của Võ Oanh trên Văn học tuần san, chúng tôi được dịp so sánh nghệ thuật dịch thơ Tàu của hai dịch giả ấy với Tản Đà. Bản dịch của Tản Đà ăn đứt bản dịch của hai vị. Chúng tôi nhận thấy nhiều chỗ Tản Đà chẳng những đã lột được hết ý thơ, mà còn diễn được cả các sanh lực tiềm tàng của lời thơ trong nguyên tác. Như dùng có một chữ ầm mà dịch gọn được hai chữ động địa trong câu:
Ngư Dương bề cổ động địa lai
(Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến)
Trong nguyên tác, trước câu thơ ấy, Bạch Cư Dị tả những say đắm của Đường Minh Hoàng và những yến tiệc linh đình trong cung, bằng một lối văn du dương. Đến câu này, họ Bạch muốn dùng nó làm một câu chuyển để sang ý khác, thế nên lời thơ ông có chỗ mạnh mẽ đột khởi lạ thường. Đọc lên hai chữ động địa trong nguyên tác hay chữ ầm ở bản dịch, ta đều có cảm giác giống nhau: tưởng như nghe thấy một hồi trống giặc long trời lở đất giữa Hoàng Kim thời đại!
Lời thơ dịch của Tản Đà chẳng những mạnh mẽ đột khởi như chữ ầm thôi đâu, mà lắm lúc cũng mềm mại, uyển chuyển, đọc nghe mới êm đềm làm sao! Và gợi cho ta bao cảm giác mơ màng như khi nhìn cảnh hoa rơi, ngắm chiếc lá rụng:
Xuân phong đào lý hoa khai dạ,
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì.
(Xuân đào, lý gió đêm đua nở,
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng!)
Hai câu thơ dịch này, ngoài cái hay lột ý được nguyên tác, còn đặng thêm một đặc điểm nữa: là âm thanh nó rất điều hòa, tiết tấu nó rất có vần điệu.
Bên cạnh Tản Đà, chúng tôi còn để ý đến nghệ thuật dịch thơ của một thi sĩ trẻ tuổi vừa bạc mạng: J. leiba Thanh Tùng Tử. Lối thơ dịch của ông lưu loát và cho người đọc cái cảm tưởng như được đọc một thi phẩm do ông sáng tác chớ không phải của ông phiên dịch. Chẳng muốn phân tách lôi thôi về nghệ thuật ông dịch thơ, chúng tôi xin trích lục dưới đây vài bản dịch thơ của ông lượm lặt trong các báo:
I
Thiếp phát sơ phúc ngạch,
Chiết hoa môn tiền kịch.
Lang kỵ trúc mã lai,
Nhiễu sàng lộng thanh mai.
(Trường can hành của Lý Bạch)
(Tóc em vừa chấm trán,
Trước cửa hái hoa chơi.
Anh cưỡi ngựa tre lại,
Quanh giường ném quả mai)
II
Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự?
Khả liên Phi Yến ỷ tân trang!
(Một cành sương lả đẫm mùi hương,
Mưa gió non Vu luống đoạn trường.
Cung Hán được bao người mặt ngọc?
Phấn son Phi Yến nét yêu đương)
(Thanh bình điệu của Lý Bạch)
III
Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia
Thượng nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
(Bạc Tần hòa của Đỗ Mục)
(Nước mơ bóng khói, cát trăng lồng,
Thuyền dạo sông Hoài ghé quán không.
Hận nước gái buôn đâu biết nhỉ!
Hậu đình khúc hát vẳng bên sông)
IV
Hoài thủy giang đầu nguyệt sắc tân,
Giang lưu, điểu vọng bích thiên trầm.
Không ức lục triều cố sự,
Nhưng hoài ngọc lũy phù vân.
Kim niên nguyệt,
Kim niên nhân,
Hà tằng nhất biệt thiên trùng ngoại,
Hoài thương, cô thuyền, bạch lãng ngân…
(Đầu bến sông Hoài bóng nguyệt soi,
Trời chim đáy nước, nước trôi xuôi,
Sáu triều việc cũ,
Mây nổi chơi vơi;
Dưới trăng ấy ta với người,
Biệt nhau rồi đấy muôn trùng thẳm,
Thuyền lẻ sông Hoài, sóng bạc trôi…)
Bài II và III, tác giả quyển Đường thi của Tân Dân xuất bản, Ngô Tất Tố cũng có dịch. Nhưng bản dịch của Ngô quân không bì được hai bản dịch kia của Thanh Tùng Tử!
Dịch thơ Tây
Trong làng dịch thơ Tây, chúng tôi được biết Băng Dương năm xưa dịch nhiều thơ Tây của Musset, Hugo cho đăng trên báo Đàn bà mới; Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, tác giả bản dịch bài Premier regret (Mối hận đầu tiên) của Lamartine, bản dịch mà chúng tôi cho là hay nhất đối với thi phẩm ấy của Lamartine; Khúc Vân Hòa, người dịch bài Le Lac (Cái hồ) của Lamartine; Á Nam Trần Tuấn Khải, người dịch bài Le poète et la douleur (Thi nhân và đau khổ) của Musset, và Tường Vân...
Có lẽ còn nhiều người dịch thơ Tây nữa mà chúng tôi chưa có dịp thưởng thức tài nghệ. Nhưng chúng tôi xin chuộc lỗi sơ sót của mình bằng cách, ở đây giới thiệu thêm về Tường Vân - nhà dịch thơ Tây rất đáng để ý. Và xin trích lục một bản dịch của Tường Vân - một bản dịch mà Nguyễn Triệu Luật cho là một bản Việt hóa Pháp ngữ:
Từ giã Tổ quốc!
Sóng gió đùng đùng!
Từ giã Tổ quốc!
Mênh mông…
Từ giã nhà cửa, giàn nho quả chín.
Trường cũ hoa vàng;
Từ giã Tổ quốc!
Trời mây, ngàn cây, nội cỏ, mơ màng.
Từ giã Tổ quốc!
Mênh mang…
Từ giã Tổ quốc!
Sóng gió tung hoành!
Từ giã Tổ quốc!
Xanh xanh…
Từ giã người yêu, trán nhìn trong suốt,
Góc trời tối tăm, gió thổi lạnh buốt.
Từ giã Tổ quốc!
Lý Nga, Ái Hoa,
Từ giã Tổ quốc.
Xa xa,
Từ giã Tổ quốc!
Sóng đánh rập rềnh,
Từ giã Tổ quốc,
Lênh đênh…
Từ lớp sóng đen tới chốn vực sâu,
Bước đường tăm tối, mắt đã nhuộm sầu.
Từ giã Tổ quốc!
Lòng ta cầu khẩn.
Từ giã Tổ quốc!
Trời oan, bể hận…
Mấy chữ khó dịch nhất trong nguyên tác là chữ azur cuối cùng ở sáu tiết (strophe) của bài thơ. Năm chữ đầu, theo Nguyễn Triệu Luật thuộc về phần thể chất, được phô diễn rất đúng bằng mấy hình dung từ: mênh mông, mênh mang, xanh xanh, xa xa, lênh đênh. Đến chữ azur đóng bài, Nguyễn quân viết dịch giả mới phô diễn những ý thuộc phần tình cảm: trời oan, bể hận. Thật vậy, cái trời bể của kẻ “có đi không về” nó xanh xanh một màu trộn lẫn, nó mênh mông bát ngát không bờ nhưng nó đầy sầu ngập hận… Vì thế nên cái đầu bài “chỉ có một chữ azur mà thôi” tôi mới khuyên dịch giả dịch là “chân trời mặt bể lênh đênh” cho nó ngâm cái ý: Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào(Tản Đà tạp chí, số 13, ngày 16-10-1939)...
Một quan niệm dịch thơ
Trong bài Giá trị một bản dịch, bàn về quan niệm dịch văn xuôi, chúng tôi đã nhường lời cho một danh sĩ Pháp: Chateaubriand.
Nay bàn về quan niệm dịch thơ muốn có chỗ tương đối, chúng tôi xin nhường lời cho một danh sĩ nước nhà: Tản Đà. Quan niệm dịch thơ của Tản Đà là quan niệm dịch thơ Tàu. Nhưng thiết tưởng, dịch thơ Tây hay thơ Tàu cũng vậy, đều phải biết qua các bí quyết đại khái. Trước khi làm sự dịch, Tản Đà bảo, tôi cần phải tốn công xem xét bài nguyên văn, cho được nhận thấy rõ ý nghĩa, nếu có câu nào chữ nào không rõ nghĩa thời phải tra sách, tra từ điển, rồi lại nhận suốt lại một lượt. Ngâm đi đọc lại bài nguyên văn, từng chữ từng câu, thật thấy được ý thái tinh thần của tác giả, khi đó mới dám nói đến dịch.
Bắt đầu vào việc dịch, lấy bổn thân của mình đứng địa vị tác giả, tựa như mình định viết một bài văn như thế mà dựa theo bản thảo là nguyên văn. Lúc thật bắt đầu dịch, nghĩ thử mấy câu, không thấy lanh lợi như ý thời hãy tạm bỏ để lúc khác. Trong cái thời gian tạm bỏ đó, dư xét những câu, những chữ nào khó dịch thời liệu tính dần trước; trừ phi lúc nói chuyện gì với ai hoặc lúc thật ngủ đi không biết, ít có một thời khắc nào không lưu tâm. Cứ vậy ung dung, ngẫm được một giây phút với hứng thú, như cơn gió thoảng tới, khiến cho trong bài đó không phải dùng đủ sức mà tự nhiên dịch được một hai câu khiến cho trong bài đó đủ sức mà tự nhiên dịch được một hai câu. Một hai câu ấy nếu nhận thấy vừa lòng thời thừa thế nghĩ luôn trên dưới các câu khác. Khi được đến chừng bảy tám câu, tạm nghỉ sức mà tự lấy mình đứng sang địa vị một độc giả để quan sát. Lúc đó nhẩm đi nhẩm lại, như thể ngâm mà không lên tiếng, xét kỹ những chữ nào không ổn, thời phải kiếm chữ khác để thay đổi. Trong bảy tám câu đó chừng bốn năm câu nghe được thấy xuôi tai thời khi ấy sợ quên, mới lấy giấy bút để biên chép. Công việc dịch đến lúc ấy như kẻ đồ tể bắt con heo để giết, mà đã thòng lọng được một chân, thời từ đó về sau, dù con heo kia to đến đâu, cũng không lấy làm khó. Sau đó chỉ bình tâm tĩnh trí mà làm việc như thể cạo lông lợn, muốn cạo chỗ nào trước, tùy tình.
Trong việc dịch, đến chỗ nào khó – mà thường là chỗ hay của nguyên văn thời phải dùng sức hơn, khi đó phải dùng cách tưởng tượng. Trong bài Trường hận đây, nguyên văn như những câu:
Ngư Dương bề cổ động địa lai,
Kinh phá Nghê thường vũ y khúc.
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh,
Thiên thăng vạn kỵ tây nam hành.
“Muốn cho được nhận thấy tinh thần của nguyên tác, phải giở chỗ bài văn đó, ngồi trông mắt xuống mấy câu ấy, mà nhận ra cho thấy các cái quang cảnh An Lộc Sơn đem quân vào Trường An, mà Đường Minh hoàng phải chạy. Như những câu:
Thiên trường địa cửu hữu thời tận,
Thử hận miên miên vô tận kỳ.
Thời lại lấy mình làm tác giả tỉnh xét cái hơi văn đến lúc gác bút là như sao?...
Do sự nhận nghĩa đó mà những câu văn dịch của mình chiếu sang các chữ bên nguyên tác, phảng phất thấy như bóng theo hình. Vậy mới có thể nhận là được.
Đến khi xong hết toàn bài lấy mình đứng địa vị các độc giả rất nghiêm khắc, như thể người chủ soát tế vật; nếu thật không thấy có sai sót nữa thời chỉnh sửa để in, lúc ấy chỉ như ông Lý chỉnh tề khăn áo bưng mâm gà ra trước sân đình vậy!”...
Tri Tân, số 56, tháng 7-1942.
In lại trong Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam.
NXB Thanh niên, H., 2009.
(1) Bản quốc văn của Phạm Quỳnh – Nguyên tác với trang 236, quyển En Chine, do Fayard xuất bản năm 1942.
(3) Tản Đà tạp chí– số đặc biệt về Tản Đà, trang 71.