CẢM TƯỞNG VÀ HY VỌNG ĐỐI VỚI SÁCH BIÊN DỊCH Ở XỨ TA
CẢM TƯỞNG VÀ HY VỌNG ĐỐI VỚI SÁCH BIÊN DỊCH Ở XỨ TA
Phải nhìn nhận ngay không năm nào bằng năm 1943, các sách biên dịch xuất hiện rất nhiều – nhất là về hai loại lịch sử và triết học.
Có người lên mặt “ta đây” vừa độ lượng vừa nghiêm khắc bảo: sách triết học, lịch sử của ta xuất bản trong năm vừa qua tuy có tánh cách phổ thông, nhưng sự truyền bá không có thống hệ trật tự gì cả.
Thử hỏi sự truyền bá cho có thống hệ, có dễ thực hành được do một nhà xuất bản hay một tờ báo không?
Công việc ấy mới xem hình như bé nhỏ dung dị, nhưng kỳ thật cần đến tài sức của một học hội gồm nhiều học giả nhiệt thành và được cấp dưỡng một cách đầy đủ.
Xứ ta hiện đã được bao nhiêu học giả?
Và có học giả nào được cấp dưỡng để khỏi băn khoăn về sinh kế chưa?
Hai câu hỏi ấy tôi tưởng khó trả lời lắm. Và có trả lời được, ta cũng không khỏi rất buồn tủi!...
Có một học hội, người ta định sẽ làm một bộ bách khoa, một bộ từ điển, một bộ Việt Nam văn học sử… Toàn những công trình nghe qua cũng phát khiếp. Nhưng rốt cuộc, người ta chưa làm nên được một công việc nào cả. Người ta than rằng công việc ở bàn giấy mỗi ngày bề bộn lắm, mà không đi làm lại không có cái để ăn! Thấy kẻ này kẻ kia ra sách… thỉnh thoảng người ta cũng đọc, rồi người ta bĩu môi khinh rẻ: làm thế thà đừng làm còn hơn. Thà đừng làm còn hơn! Và người ta rất tự cao với sự “thà đừng làm còn hơn”. Nếu có ai hỏi gắt người ta lại bảo: hiện có nhiều tác phẩm đã viết xong tại nhà, nhưng còn đợi nhiều năm sửa chữa, chưa thể cho ra được!
Sửa chữa lâu năm chừng nào càng quí chừng nấy. Nhưng nếu đợi đến một hai trăm năm sửa chữa thì lòng khao khát ham biết của độc giả hiện thời chắc phải tàn rụi dưới nấm mồ!
Nhưng người ta quên rằng: học giỏi tiếng ngoại quốc là một việc, mà làm việc cho quốc văn lại là một việc khác.
Hiện tinh thần sáng tạo của văn sĩ, triết gia Việt Nam còn ốm yếu lắm. Công việc biên dịch là cần trong lúc cấp bách này!
Tôi có một ông bạn vong niên, tài học rất uẩn súc quảng bác. Nhưng hơn nửa đời người, ông chưa làm nên được sự nghiệp văn học gì. Có bạn quá yêu trách thiện ông. Ông cứ thành thật cung khai rằng: “Thật ra tôi không thể viết được gì cả; động cầm bút là tôi thấy khó viết làm sao!” nội cái đức thành thật khả kính ấy, cũng đủ cho ta trọng rồi. Cần gì phải hí ngôn lộng ngữ?
Tôi lại còn một ông bạn nữa. Hễ thấy một cuốn sách nào biên dịch ra đời, ông ta càu nhàu ngay: “Đưa ra làm gì sách ấy; những quyển như sách ấy ở thơ viện đã chẳng nhiều lắm rồi sao?”...
Nhưng sách ở thơ viện có phải viết bằng quốc văn đâu! Và độc giả Việt Nam chẳng phải người nào cũng được ăn học như ông bạn tôi để có thể đọc được chữ Tây!
Tóm lại, khi mình đố kỵ ai, thì thế nào mình chẳng tìm được đôi lời để “bóng gió” người ấy.
Công việc truyền bá cho có hệ thống, ta nên đặt vào phạm vi của viễn tượng!
Ngay từ bây giờ ta nên tỏ một độ lượng thành thật trước các công việc dẫn gió bốn phương vào đô thành văn học Việt Nam.
Công việc “dẫn gió…” ấy có ba cách: dịch nguyên văn, phỏng dịch và biên dịch.
Dịch nguyên văn, ta có thể thi hành với các tác phẩm của danh sĩ Pháp – Hoa.
Phỏng dịch, ta có thể dùng truyền bá tác phẩm của các danh sĩ Nga, Đức, Anh, Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Thụy Điển, v.v...
Biên dịch, ta có thể dùng một cách khôn ngoan để giới thiệu với quốc dân những học thuyết đại danh trên thế giới.
Khoan vội bảo học giả Việt Nam tự lực tạo ra một học thuyết! Vì lời khuyên bảo ấy nông nổi và vu vơ lắm.
Khoan vội đòi hỏi sự truyền bá cho có hệ thống. Vì như ta đã biết, sự ấy chưa thể thực hiện được.
Khen, đã đành là chỉ để khuyến khích trong nhứt thời. Kẻ tự đắc, vì thế có thể hư hỏng được. Nhưng chê vẫn chưa phải là giúp ích, nếu chê một cách đố kỵ, trong khi chính mình cũng tự nhận không tránh khỏi những điều mình chê.
Chỉ có những kẻ đầu óc to bằng con kiến mới thích người ta khen mình. Và chỉ có những kẻ rất tầm thường mới sợ người ta chê mình.
Khen, chê tuy là sự thường nhưng khen chê một cách thành thật thì đáng yêu kính, mà khen chê một cách thiếu lương tâm thì thật đáng thương hại!
Tri tân, số 129, tháng 2-1944.
In lại trong Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam.
NXB Thanh niên, H., 2009.
2208
2322
21839
221350
130677
114574293