Nhìn ra thế giới

Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Phần 3: Mở cửa và Duy tân - Thời đại Meiji)[7]

Tiết III: Bãi bỏ chế độ phân chia giai cấp và chỉnh sửa mức địa tô

3.1 Bãi bỏ chế độ phân chia giai cấp “tứ dân” sĩ nông công thương.

Tứ dân là bốn thành phần trong dân chúng: sĩ, nông, công, thương.Chắc không cần phải giải thích dài dòng về nó ở đây nữa.

Chỉ cần biết sĩ là võ sĩ (samurai), nông là người làm ruộng đánh cá, công là thợ thủ công và thương là người đi buôn.Dưới thời Edo, dân chúng chia làm 4 loại người như thế nhưng sĩ (samurai) có địa vị cao hơn 3 loại người kia và có quyền cai trị họ. Chế độ ấy có tên là mibunsei (thân phận chế). Ngoài tứ dân còn có gia đình thiên hoàng và quí tộc (gọi là kuge = công gia), cũng ở vị trí cai trị, tăng lữ các chùa và thần chức đền Shintô. Dưới đáy xã hội là hạng hinin (phi nhân) tức là cùng đinh, đối tượng của sự khinh bĩ và miệt thị.

Tân chính phủ đã hủy bỏ những sự phân biệt giai cấp như vậy.

Mọi người dân kể từ bấy giờ ngoài tên của mình còn được tự do dùng họ (myôji =miêu tự), một điều mà trước đây chỉ có giới samurai là được phép.

Ngay cả người Nhật bây giờ, nhiều khi cũng không nắm vững về việc người Nhật có tên họ từ lúc nào. Nhiều người vẫn tưởng là, trước thời Meiji, người thường dân Nhật Bản không có họ (myôji). Chính ra thì từ hậu bán thời Edo, người Nhật đã họ rồi. Duy việc đem ra dùng nó trong việc công thì bị mạc phủ cấm đoán.

Từ lúc bãi bỏ chế độ giai cấp, cô con gái ông lãnh chúa (daimyô) có thể kết hôn với cậu ba (thứ nam) con nhà nông dân. Việc kết hôn giữa tứ dân (sĩ nông công thương) ngày xưa cấm đoán thì nay đã trở thành tự do. Đồng thời, người dân cũng được tự do chọn lựa công việc và thay đổi chỗ làm. Nói chung, quan niệm mới là tứ dân bình đẳng (shimin byôdô).

Theo qui định của Bộ luật hộ tịch (Kosekihô = Hộ tịch pháp) ra đời năm 1871 (Meiji 4), việc biên soạn sổ hộ tịch thống nhất được thực hiện vào năm sau, Nhâm Thân, (bộ Jinshin koseki). Khốn nỗi, bộ luật nói trên đã khẳng định rằng phải có sự phân biệt giữa ba tộc. Ba tộc ấy là Kazaku (hoa tộc), Shizoku ( sĩ tộc) và Heimin (bình dân). Hoa tộc gồm các lãnh chúa và công khanh cao cấp. Sĩ tộc là giai cấp cựu phiên sĩ, mạc thần và võ sĩ. Nói chung là samurai. Bình dân gồm nông, công và thương.

Những kẻ gọi là Eta (uế đa) và Hinin (phi nhân) bị coi như ô uế và thấp hèn cũng được trở thành bình dân (heimin) theo tinh thần pháp lệnh Kaihôrei (Giải phóng lệnh) ra đời vào năm 1871. Thế nhưng trên thực tế việc kết hôn và tựu chức của họ vẫn là đối tượng của sự kỳ thị. Đáng tiếc hơn nữa là cho đến ngày nay, nó vẫn còn tồn tại như một vấn đề xã hội tiềm ẩn. 

Như thế, chính sách “tứ dân bình đẳng” của chính phủ buổi đầu chỉ có cái vỏ ngoài. Hai tầng lớp hoa tộc và sĩ tộc, dù ở trong xã hội mới, vẫn giữ địa vị trên trước so với người bình dân chẳng khác chi thời Edo. Việc duy chì rokusei (lộc chế) hay chế độ bổng lộc cho họ là một ví dụ.

Trước đây chúng ta đã từng đề cập tới câu chuyện là karoku (gia lộc) hay lương tiền của giới hoa tộc và sĩ tộc vẫn được duy trì như cũ sau cả thời “phế phiên trí huyện”, lúc mà các phiên xem như không còn tồn tại nữa. Không những thế, những người thuộc giai cấp sĩ tộc nếu có công đóng góp cho cuộc Duy Tân thì từ năm 1869 trở đi, lại được trả một món tiền lương đặc biệt khác gọi là Shôtenroku (thưởng điển lộc). 

Hai món tiền này (gia lộc và thưởng điển lộc) gộp chung dưới tên gọi là Chitsuroku (trật lộc). Chừng đó thôi đã chiếm hết 30% ngân sách quốc gia. Dù nhiều tiền như chính phủ đi nữa cũng không thể nào kiếm ra tiền mà trả mãi mãi. Nhà nước đứng trước nguy cơ phá sản. Hơn nữa, bây giờ chế độ phiên trấn không còn nữa, sĩ tộc thực ra chỉ ngồi chơi xơi nước (nghĩa là ngồi không lãnh bổng lộc) chứ đâu có việc gì làm.

Trước kia, công việc quan trọng nhất của một võ sĩ là chiến đấu hết mình và có khi liều thân vì chủ. Cho nên dầu không lãnh chức tước hay lo việc hành chánh trong phiên nhưng khi hữu sự, võ sĩ sẳn sàng lên đường tùng quân. Nhờ đó, họ có thể lãnh bổng lộc một cách đường hoàng vì có lý do chính đáng (nuôi quân ba năm dùng quân một giờ). Thế nhưng bây giờ việc binh bị đã có lính tráng trong dân lấy từ những cuộc trưng binh lo liệu, tài nghệ quân sự của sĩ tộc không còn có chỗ dùng nữa. Nói rõ hơn, sự tồn tại của sĩ tộc đã trở thành một gánh nặng cho tân chính phủ.

Do đó, dù biết rằng mình sẽ gặp sự chống đối mạnh mẽ của giới sĩ tộc, tân chính phủ bắt đầu rục rịch cải tổ hệ thống bổng lộc bằng cách tước hết mọi ưu đãi họ đã có được cho đến lúc đó. Tân chính phủ đề nghị với những ai hoàn lại ngạch trật cho nhà nước, sẽ được cấp một số vốn lớn để về làm ăn nhưng món tiền này chỉ chi trả có một lần (ichijikin = nhất thì kim, a lump sum, an one-time allowance). Bộ luật gọi là Chitsuroku hôkanhô (Trật lộc phụng hoàn pháp) này không có mấy ai nghe theo, có thể xem như là một thất bại. Chính vì vậy, chính phủ đành nhất quyết đình chỉ chế độ bổng lộc hiện hành. Việc đó, sách vở gọi là Chitsuroku shobun (trật lộc xử phân).

Dĩ nhiên, chính phủ không thể ngưng việc trả tiền mà không bù đắp lại bằng một bảo đảm gì khác. Vật chính phủ cấp cho giới sĩ tộc là một tờ giấy có tên Kinroku kôsai shôsho (Kim lộc công trái chứng thư). Đó là một giấy chứng nhận nhà nước thiếu họ một món tiền tương đương với từ 5 năm đến 14 năm bổng lộc. Kể từ năm 1882 (Meiji 15) chính phủ sẽ trả góp hàng năm (niên phú, phú có nghĩa là trả góp) một năm lương cho đến hết kỳ hạn.Bình quân thì một người trong hoa tộc lãnh độ 6 vạn 4 nghìn Yen, còn sĩ tộc chỉ lãnh vỏn vẹn có 500 Yen (theo giá trị tiền vào thời điểm ra tuyên bố tức năm 1876, Meiji 9). Độ chênh lệch giữa hai bên khá lớn. Một số thuộc giới sĩ tộc đã nhờ món tiền này mà có vốn kinh doanh. Thế nhưng phải nói là hơn phân nữa trong số họ không thành công trong việc buôn bán.

Nói thế cũng không phải muốn bảo là những ai không kinh doanh mà muốn đổi nghề để thành công chức nhà nước, thầy giáo, cảnh sát thì cuộc đời sẽ sáng sủa hơn đâu. Trên thực tế, số sĩ tộc có cơ hội trở thành công nhân viên chỉ có hơn 2 vạn người. Phần đông những kẻ còn lại đành ôm mớ công trái làm vốn liếng để bắt đầu nghiệp nông tang hay làm nghề thủ công, cố gắng làm sao cho có kế sinh nhai. Dù vậy, hiện thực tỏ ra khắt khe đối với họ, hơn phân nữa phải sống cuộc đời hết sức chật vật.

“Đi buôn kiểu sĩ tộc” (shizoku no shôhô) là thành ngữ đương thời để ám chỉ cách buôn bán của những kẻ “không biết buôn bán mà cũng ráng đi bưôn”. Thành ngữ đó dĩ nhiên đã sinh ra từ hoàn cảnh xã hội như vậy.

Lý do là số sĩ tộc cầm công trái trong tay làm vốn đi buôn kiếm ăn không phải là ít nhưng xưa nay họ thuộc giai cấp cai trị, không rành về thương mại, chẳng những mù tịt việc tính toán hơn thiệt mà cũng chưa quen lễ độ, không biết nhún nhường trước mặt khách hàng. Cho nên hơn phân nửa bọn họ đã làm ăn thất bại, lâm vào cảnh bế tắc và thành cái đích cho người đời cười cợt.

Chính phủ không đến nỗi ngoảnh mặt làm ngơ trước cảnh tượng bi đát này. Họ cũng đã tìm nhiều cách như cho sĩ tộc vay thêm vốn lúc họ mới bắt đầu làm ăn cũng như sử dụng sức lao động bằng cách mướn họ đi khai thác những vùng đất mới như Hokkaidô hay các vùng còn hoang vu khác. Chính sách này có tên là Shizoku jusan (Sĩ tộc thụ sản) tức tạo công ăn việc làm cho tầng lớp sĩ tộc.

Thế nhưng cố gắng đó chẳng khác nào muối bỏ biển. Nó chỉ có thể cứu giúp được một phần nhỏ của nhóm 150 vạn sĩ tộc ấy. Nên nhớ những người gọi là sĩ tộc đều là kẻ  từng xả thân chiến đấu chống lại mạc phủ trong chiến tranh Boshin và nhờ họ, tân chính phủ mới lấy được chính quyền.

“Công lao lớn như thế, sao chính phủ này lại coi chúng mình không ra gì?”. Đó là câu hỏi họ thường đặt ra với nhau. Bị du vào bước đường cùng, nhiều người trong lớp sĩ tộc đã đâm ra oán hận chính phủ, mang sự bất mãn bên lòng. Thế nhưng khổ nỗi – như đã nói ở trên – chính phủ không có phương tiện để duy trì mãi chế độ cấp phát bổng lộc. Hơn thế nữa, tổ chức quân đội từ đây sẽ thực hiện theo mô hình Âu châu nghĩa là không còn cần đến sự tham gia của sĩ tộc. Hai chính sách hợp lý hóa ngân sách và quốc dân giai binh nói trên lại rất cần thiết để giúp Nhật Bản tiến lên được trên con đường cận đại hóa.

Thế nhưng, ngược lại, vạn nhất 150 vạn sĩ tộc mang lòng oán hận ấy tụ tập làm loạn chống lại chính phủ thì chính quyền còn non trẻ này cũng có thể bị đánh sập một cách dễ dàng. Vì lý do đó, một nhóm quan lại cao cấp trong chính phủ muốn tìm cách xoa dịu họ và hướng sức mạnh nung nấu bởi sự bất mãn của họ sang một hướng khác: đặt kế hoạch chinh phục Triều Tiên. Đó là quan điểm mang tên Chinh Hàn luận mà chúng ta sẽ bàn đến trong những chương sau.

Tạm đổi đề tài câu chuyện một chút. Thử hỏi đặc quyền của giới võ sĩ xưa kia là gì nào?

Xin thưa đó là quyền myôjitaitô (miêu tự đới đao) tức quyền sử dụng (tên) họ và quyền đeo kiếm.

Thế nhưng tân chính phủ vì thực hiện chính sách tứ dân bình đẳng, đã cho phép toàn dân được sử dụng họ. Sĩ tộc xem như tự động bị tước mất đặc quyền đó. Việc đeo kiếm cũng vậy. Chính phủ vẫn thường xuyên nhắc nhỡ họ phải tự kiềm chế, không đeo kiếm nơi công cộng, bởi lẽ việc mang gươm lượn qua lượn lại giữa phố phường không phải là dân một nước văn minh, sẽ khiến cho người nước ngoài chê là dã man.

Đối với người võ sĩ, thanh kiếm là linh hồn, là niềm tự hào của mình. Cho nên họ bỏ mặc những lời khuyên bảo của nhà nước ngoài tai. Điều đó làm cho vào năm 1876 (Meiji 9) chính phủ phải ban Haitôrei (Phế đao lệnh) cấm đoán việc đeo kiếm ra ngoài đường. Tuy lo sợ giới sĩ tộc phản ứng mạnh trước lệnh ấy, nhất là khi không ít quan lại cao cấp trong chính phủ chia sẻ một quan điểm với họ, nhưng rốt cuộc, chính phủ đã dứt khoát ban bố sắc lệnh.

Như thế, giới sĩ tộc hoàn toàn mất hết đặc quyền. Kinh tế đã lâm vào cảnh khốn cùng, danh dự lại bị tước đoạt. Họ bắt đầu quấy rối liên tục ở các địa phương, đúng như điều chính phủ đã tiên liệu. Những cuộc nỗi loạn của giới sĩ tộc cũng sẽ được trình bày cặn kẽ về sau.

Chỉ có thể kết luận được ở đây là từ sau cuộc “phế phiên trí huyện”, giới sĩ tộc đã bị mất hết đặc quyền và con đường tiến tới “tứ dân bình đẳng” nhờ đó trở nên thông thoáng.

3.2 Cải cách địa tô và điền địa:

Dưới thời Edo, nói đến thuế là nói đến tuế cống (niên cống = nengu) thu từ ruộng vườn. Cách thức thu thuế lúc đó không đồng nhất, mỗi địa phương thường làm theo một kiểu riêng. Đặc biệt hơn nữa, mạc phủ cũng chưa từng ban bố lệnh cả nước phải đồng loạt làm theo phương pháp nào. Lý do là mạc phủ tuy dựa trên ưu thế quân sự và tổ chức pháp luật của mình để khống chế các lãnh chúa nhưng cũng đến một chừng mực nào thôi. Họ chỉ làm sao cho các lãnh chúa không thể phản lại mình chứ công việc bên trong các lãnh địa, họ cho phép các lãnh chúa được tổ chức theo ý muốn, ít khi can thiệp vào.

Dù thế nào đi nữa thì tuế cống là cơ sở của thuế khoá cho nên thu hoạch nông nghiệp hàng năm xấu hay tốt ảnh hưởng rất lớn đến sự chênh lệch của tiền thuế thu được. Ví dụ năm nào mất mùa lớn, tiền thuế thu vào có khi còn dưới mức phân nửa của năm trước đó. Điều này không phải là chuyện không bao giờ xảy ra.

Đứng trước những việc khó lường trước như thế, những người lãnh trách nhiệm soạn ra ngân sách nhà nước rất là khổ tâm. Nhất là khi soạn ngân sách, họ còn phải tính toán một cách dài hạn và chú ý đến những chính sách kế tục cần có để cận đại hóa đất nước. Do đó, lợi dụng việc chế độ phiên trấn đã biến mất từ sau cuộc “phế phiên trí huyện”, chính phủ bắt đầu kiểm thảo việc thực hiện một chính sách thu thuế đồng nhất trên toàn quốc nhằm ổn định nguồn tài chánh quốc gia.

Trong chiều hướng đó, năm 1873 (Meiji 6) tân chính phủ đã ban bố Chiso kaikaku jôrei (Địa tô cải cách điều lệ), một đạo luật có tầm quan trọng rất lớn cho việc cải cách thổ địa và tô thuế. Nói gọn lại thì đó là đạo luật nhằm tiến đến một hệ thống mà trong đó,“khả năng đóng thuế của một miếng đất sẽ được qui định tùy theo giá trị của miếng đất ấy”.

Ý nghĩa câu đó là thế nào? Nếu dựa trên chừng ấy chữ mà hiểu được chính sách đó thì quả là vô lý. Chúng ta hãy đi từng bước một.

Trước tiên, để cải cách địa tô, tân chính phủ đã phải định được giá trị của đất đai. Họ bèn ra lệnh cho các quan ở địa phương (các huyện) phải kiểm tra về giá cả đất đai một cách toàn diện nghĩa là không bỏ sót một khoanh. Ngày xưa, quan Tể tướng Hideyoshi khi làm Taikôkenchi, đã từng ban ra lệnh kiểm địa như thế.

Nhân đây cũng nói thêm rằng giá đất (chika = địa giá) cao hạ thế nào, việc kiểm tra để định giá thời đó không có cùng một tiêu chuẩn như chúng ta. Bây giờ, dân thành thị như chúng ta định giá trị một miếng đất theo tiêu chuẩn nó có gần nhà ga, trường học, bệnh viện, hàng quán, trục giao thông chính hay không. Thế nhưng đối với người xưa, những tiêu chuẩn đó đều không đáng kể.

Xưa kia, người ta chỉ cần biết miếng đất đó có sác xuất thu được bao nhiêu hoa màu là đủ. Chất đất (chimi, jimi) xấu, ở nơi ánh sáng mặt trời bị che lấp (hikage) thì cho dù có rộng rãi, đẹp mắt (miharashi) và gần bãi biển đi chăng nữa cũng bị xem là đất kém giá trị. Có nghĩa là tiêu chuẩn kiểm tra đất thời Meiji cũng tuân theo luận lý “đất là đất để sản xuất nông nghiệp” giống như dưới thời Tể tướng Hideyoshi. Ruộng nương thời đó chẳng qui ra thượng điền, trung điền, hạ điền, hạ hạ điền là gì?

Sau khi đã định được giá đất (chika) rồi, chính phủ mới trao cho mỗi sở hữu chủ một tấm bằng khoán gọi là chiken (địa khoán). Có thể hiểu địa khoán như là giấy chứng minh quyền sở hữu của miếng đất ấy. Chính phủ trao địa khoán cho ai tức là chấp nhận người đó là chủ đất. Trong địa khoán thường có ghi lại những thông tin như sau: địa điểm, diện tích, tên họ sở hữu chủ, giá đất, thuế suất và cuối cùng là tên huyện.Như vậy, đúng như điều từng nói ở bên trên, thuế đất tức là hình thức mới của địa tô sẽ được đánh theo giá trị của miếng đất.

Tiến đến bước thứ hai. Trước khi ban bố đạo luật cải cách địa tô, tân chính phủ còn phải “tự do hoá” đất đai.

Điều nói trên có nghĩa là gì? Trước kia, vì muốn nông dân hàng năm đóng thuế đều đặn và để cho nông dân là kẻ đóng thuế không lâm vào cảnh sa sút đến nỗi mất cả ruộng nương, mạc phủ và chư phiên đã ngăn cấm việc chuyển nhượng hay chia cắt đất đai cho người khác. Họ cũng cấm nông dân ngoài việc trồng lúa không được trồng một giống cây nào nữa.Nếu tân chính phủ để mặc chế độ vốn có từ thời Edo tiếp tục như vậy thì khó lòng mà thực hiện cải cách thuế khóa.

Năm 1871 (Meiji 4), tân chính phủ đã sớm ban lệnh Denbata kattezukuri nghĩa là văn bản cho phép nông dân tự ý trồng trọt (kattezukuri) bất cứ loại cây cỏ gì trên ruộng nương (denbata) của họ. Năm sau, chính phủ lại bãi bỏ thêm lệnh Denbata eitai baibai tức lệnh cấm vĩnh viễn (eitai) việc buôn qua bán lại (baibai) ruộng nương (denbata). Kể từ đó việc buôn bán đất đai mới được thừa nhận và cùng năm, các sở hữu chủ được nhà nước trao cho bằng khoán đất đai. Thành ra việc buôn bán bằng khoán (địa khoán) không còn gặp cản trở nào nữa. Cho dù sở hữu chủ ấy có bán bằng khoán cho ai, chính phủ cũng chẳng bận tâm.

Còn về địa tô, nó được đánh 3% trên giá trị của miếng đất (địa giá), nộp bằng tiền cho chính phủ trung ương. Người nộp tô là người đang có quyền sở hữu đất đai nghĩa là người giữ địa khoán. Ngay cả khi đem đất đó cho người khác mướn, nghĩa vụ nộp tô vẫn thuộc về sở hữu chủ. Cũng nên nhớ thêm rằng tá điền thuê đất để trồng trọt, người mướn nhà để ở cũng như chủ nhà thì không phải là đối tượng của địa tô.

Dù sao đi nữa, nhờ có cải cách về địa tô, chính phủ hết phải lo năm nay mất mùa hay được mùa và như thế, nguồn thuế đã được ổn định và nền tảng tài chánh nhà nước vững chãi hơn.

Con đường đưa đến việc cải cách địa tô

 

-Tình trạng không thống nhất trong việc thu tô ở địa phương.

- Số thuế thu vào mỗi năm không lường trước được

Chính phủ Meiji àTìm phương pháp ổn định ngân sách nhà nước

 

Ba chuẩn bị

cần thiết:

  • Cho phép được trồng hoa màu theo ý mình (1871)
  • Bãi bỏ lệnh vĩnh viễn cấm buôn qua bán lại đất đai (1872)
  • Phát hành bằng khoán gọi là địa khoán để định giá đất (1872)

Tháng 7 năm 1873 ban bố Điều lệ cải cách địa tô

 

Kết quả: Thành công trong việc thống nhất chế độ thuế thời cận đại

Ngoài ra, chúng không nên bỏ qua việc nhờ có cải cách về tô thuế mà quyền sở hữu đất đai của địa chủ và những nông dân tự canh (jisakunô = landed independent farmer) được ấn định một cách rõ ràng. Lại nữa, từ đây nhà nông không phải nộp thuế bằng lúa gạo (gọi là butsunô = vật nạp, beinô = mễ nạp) mà nộp thuế bằng hoá tệ. Phương pháp trưng thu địa tô như vậy cũng đã có sự thay đổi và, nhân đó, ta thấy thời đó nông nghiệp đã có sự kết hợp sâu xa hơn với nền kinh tế thương phẩm.

 Điều lệ cải cách địa tô được công bố vào tháng 7 năm 1873

 

Trước cải cách

 

Sau cải cách

Giá trị hoa màu thu hoạch được trong năm

Cơ sở thuế khóa

Giá trị miếng đất (địa giá)

Tứ công lục dân  (4/6) (ở các lãnh địa của mạc phủ)

Thuế suất

Địa tô (3% giá trị miếng đất)

Thu nạp bằng vật (gạo) theo đơn vị thôn làng

Phương pháp nạp thuế

Thu nạp bằng tiền, đơn vị cá nhân

Kẻ có nhiệm vụ đóng niên cống (người canh tác)

Chủ thể đóng thuế

Kẻ sở hữu đất đai (địa chủ có địa khoán)

Thế nhưng thử hỏi món thuế 3% đánh trên giá đất nói trên thì nặng hay nhẹ hơn so với thời Edo? Câu trả lời là “trước sau không khác nhau bao nhiêu”.

Tại sao vậy? Như đã nói ở phần mào đầu, ngày xưa các phiên đánh thuế tự do, mỗi nơi một kiểu. Do đó, có nơi thuế nhẹ, nơi thuế nặng. Do đó, chính phủ đã tính toán cân nhắc, không muốn thu ít thuế đi so với thời trước, cho nên thuế suất 3% họ chọn có thể gọi là thỏa đáng. 

Tuy nhiên họ ấn định rằng nếu trong tương lai nếu thuế phẩm vật vượt lên mức 200 vạn Yen thì địa tô sẽ được giảm xuống từng bậc thang một.Chính phủ đã hứa với quốc dân trong Điều lệ về địa tô là trong tương lai sẽ giảm còn 1% thôi. Dĩ nhiên đó là những lời hứa không khống và sự thực đã trả lời là chính phủ không thực hiện được.

Chính phủ lúc đó thực ra không có tiền. Hậu quả của cuộc chiến tranh Boshin vẫn còn nặng nề. Điều khổ tâm cho họ hơn cả là tiền nợ mà các phiên đã mắc. Sau khi “phế phiên trí huyện” dĩ nhiên là các phiên không còn nữa nhưng phần lớn các phiên đều đã có những món nợ khổng lồ và chúng vẫn sờ sờ ra đó. Nợ nần của họ tân chính phủ là kẻ có trách nhiệm trang trải. Do đó, tài chánh quả là mối lo hàng đầu của tân chính phủ.

Để yên lòng dân, lúc nào cũng vậy, cách hay nhất là giảm thuế. Thế nhưng vào thời điểm đó chính phủ đang ở trong tình trạng không sao giữ được lời hứa. Có điều là nông dân không hiểu được tình cảnh của tân chính phủ, mà cho dù có hiểu, họ xem như chuyện ấy không can dự tới mình. Đối với dân chúng, các phiên là kẻ đã bắt họ phải đóng tuế cống. Nay các phiên có mất đi chăng nữa thì lại có chính phủ thế vào chỗ ấy và còn đòi hỏi có khi nhiều hơn thời xưa. Rắc rối thêm là chính phủ không nhận lúa gạo mà đòi họ phải trả thuế bằng tiền mặt. Ngay cả năm mất mùa cũng không nói đến chuyện giảm thuế!

Vì lý do đó, nông dân không thể nào không căm hận.

Họ càng bực tức hơn nữa khi ngoài địa tô (đánh gián tiếp) là món thuế nhà nước (quốc thuế 3% giá đất), họ còn bị đánh thêm một thứ thuế địa phương ngang với 1% giá đất. Tổng cộng cả hai thuế lên đến 4%. Ngoài ra, họ còn bất mãn vì trong khi thẩm định giá trị đất đai, các quan địa phương đã có những thái độ làm mất lòng họ.

Còn nhiều điều khác nữa làm họ cay cú. Chẳng hạn như nhà nước đã đoạt trắng  iriaichi (nhập hội địa) của họ. Chúng ta còn nhớ iriaichi là đất đồng đất núi (sơn dã = san.ya) mà nông dân sử dụng chung với nhau. Nơi đây dân trong thôn có thể đến kiếm củi, ủ phân xanh hoặc kiếm được ít lộc của rừng núi (lấy nấm, hái quả, giang nứa vv...). Lúc nhà nước cải cách chế độ địa tô, chia đất thành “tan” thì đối với những vùng như thế, người ta không thể nào biết nó thuộc về chủ nào cả. Nhà nước bèn thừa dịp ấy tịch thu tất cả làm của công (kokuyuuchi = quốc hữu địa).

Thêm chuyện nữa là giá gạo mỗi năm càng xuống thấp, thế mà chính phủ không màng đến sự thay đổi đó, cứ lấy giá gạo những năm trước đây lúc nó còn cao để định mức địa tô.

Những sự tức tối tích luy lâu la như thế đã có dịp bùng nổ. Đó là vào năm 1879 (Meiji 12), lúc công cuộc cải cách địa tô hầu như hoàn thành (1880, Meiji 13) khi chỉ còn vấn đề khu vực đất đồng đất núi chưa giải quyết. 

Nông dân các huyện Ibaraki, Mie, Aichi, Gifu, Sakai vv... đã nổi dậy làm một cuộc ikki đại qui mô nhằm chống lại cuộc cải cách địa tô. Những vùng đất đã nổi lên làm cuộc loạn gọi là Chiso kaisei hantai ikki (Địa tô cải chính phản đối nhất quỉ) đó thì có hơn phân nữa đã phải phụ đảm món địa tô còn nặng hơn cả dưới thời Edo.

Cũng vào lúc đó, đã xảy ra những cuộc nổi loạn liên tục của giới sĩ tộc bất bình vì sự đãi ngộ của nhà nước. Chính phủ cảm thấy thế nguy nên qua năm sau, đã chấp nhận đòi hỏi của nông dân, hạ địa tô từ 3% đến còn 2,5% giá đất. Thấy thế, ta có thể có cảm tưởng là giảm quá ít nhưng kỳ thực, giảm 0,5% trên 3% có nghĩa là đã giảm đến 17% mức thuế rồi.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574532

Hôm nay

2130

Hôm qua

2317

Tuần này

22078

Tháng này

221589

Tháng qua

130677

Tất cả

114574532