Những góc nhìn Văn hoá

Ảnh hưởng của việc học chữ Hán đối với khả năng tư duy tiếng Việt hiện đại

Trên thực tế, việc học chữ Hán có ảnh hưởng không ít đến khả năng diễn đạt tiếng Việt hiện đại. Sẽ có câu trả lời chính xác nếu chúng ta làm các bài trắc nghiệm đối với sinh viên Hán Nôm và sinh viên Ngữ văn trong các trường đại học. Đặc biệt, có thể khảo sát ngay chính các luận văn luận án của các ngành này để so sánh sẽ thấy rõ.

Nhiều người do quá sùng bái chữ Hán nên đã đến chỗ ngộ nhận, phát biểu hồn nhiên rằng chữ Hán là “quốc hồn quốc túy” của dân tộc. Nói như thế quả là có một sự nhầm lẫn tai hại. Vì rằng, “chữ” (văn tự) và “ngôn ngữ” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Chữ Hán là của người Hán chứ sao lại là “quốc hồn quốc túy”của ta? Quốc hồn quốc túy của dân tộc Việt phải là ngôn ngữ của người Việt. Từ thế kỷ XIII, nhiều bậc túc nho Việt Nam có ý thức tự cường dân tộc đã sáng tạo ra chữ Nôm (người mở đầu là Hàn Tuyên Nguyễn Sĩ Cố) để chống lại sự nô dịch của chữ Hán và bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Điều đó cho thấy, cách đây từ gần 10 thế kỷ, các nhà trí thức của dân tộc Việt đã muốn thoát ly khỏi ảnh hưởng của chữ Hán. Còn việc chúng ta phải dùng chữ Hán, và sự thực chữ Hán đã đi vào sáng tác thơ ca của nhiều thế hệ lại là câu chuyện lịch sử, là sự tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa cho dù theo con đường cưỡng bức hay tự nguyện. Đó là một câu chuyện khác. Ta cần phải hết sức tách bạch điều này. Vì rằng, nếu nghiên cứu thấu đáo, ta sẽ thấy tiếng Hán khi du nhập vào tiếng Việt đã hoàn toàn không còn là nó nữa. Nó bị sự áp lực của cấu trúc tiếng Việt tác động ngược và phải chịu sự biến đổi. Kết quả của quá trình này đã hình thành ra cái gọi là hệ thống từ Hán - Việt. Đó là một biểu hiện của tinh thần độc lập và ý thức dân tộc. Điều này có thể giải thích bằng con đường vận động và phát triển của ngôn ngữ. Tiếng Việt, trên con đường phát triển đã tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình bằng cách “biến cải” các yếu tố ngữ âm, từ vựng… của tiếng Hán để đưa chúng vào hệ thống của ngôn ngữ bản địa. Chính quá trình này đã làm cho các yếu tố Hán phải đi vào “chuẩn” của tiếng Việt chứ không phải là ngược lại như một vài nhà Hán học hiện nay quan niệm. Ta lấy lại ví dụ đã dẫn ở mục trên, từ “đáo để” trong tiếng Hán là “đến đáy”, nhưng trong tiếng Việt hiện đại có ai dùng với nghĩa như vậy không? Với người Việt, “đáo để” là một hành vi ứng xử trong quan hệ giao tiếp vượt quá cái ngưỡng thông thường. Nếu cứ theo tư duy kiểu ông đồ mà bắt bẻ "trong tiếng Hán nó là thế này, nó là thế kia” thì thực là chưa hiểu những qui luật biến đổi nội tại trong một hệ thống ngôn ngữ. Chính do không nắm được cái bản chất của sự chuyển hóa bên trong như thế nên nhiều khi chúng ta đã tranh cãi những sự kiện liên quan đến chuẩn mực ngôn ngữ lại không xuất phát từ những kiến giải mang tính khoa học toàn diện. Vì thế, dưới con mắt của một số nhà Hán học quen cách tư duy theo kiểu “ông đồ làng”, thì việc dùng “sát nhập” thay cho “sáp nhập” là hiện tượng sai do người nói/hay viết không hiểu chữ Hán. Hiểu như vậy thật là  cứng nhắc và máy móc. Ta hãy làm một phép kiểm tra giản đơn: hãy yêu cầu các em học sinh hay bất cứ một người dân Việt Nam bình thường nào giải thích xem “sáp” trong “sáp nhập” là gì? Chúng tôi đảm bảo khoảng trên 99% số người được hỏi sẽ không trả lời được hoặc sẽ trả lời một cách ngô nghê “sáp” là “phấn sáp”. Nhưng nếu hỏi họ “sát” trong “sát nhập” là gì, họ sẽ trả lời được ngay cho ta “sát” là gần nhau. Vấn đề chính là như vậy. Nhà Hán học muốn người ta nói một từ mà chính họ không hiểu, còn nhân dân - cộng đồng ngôn ngữ lại lựa chọn cái người ta hiểu để diễn đạt. Đúng cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn: chính cộng đồng ngôn ngữ mới là người tạo ra chuẩn chứ không phải là vài nhà nghiên cứu tạo ra cái chuẩn cho mọi người. Rõ ràng, không “sát” thì không thể “nhập” với nhau được. Một người Việt Nam bình thường hay một học sinh đều hiểu rõ như thế thì chính tức là cái biến thể “sát nhập” đã trở nên có hiệu lực và thay thế cho cái chuẩn cũ đã lỗi thời là “sáp nhập” rồi. Có thể dẫn ra vô vàn các ví dụ tương tự. Tuy nhiên, trên báo chí chúng ta chưa có một cuộc luận bàn cho thật thấu đáo về vấn đề này. Trong khi đó, thực tế ngôn ngữ lại luôn luôn tỏ ra sinh động trong quá trình vận hành của nó. Xét cho cùng, ngôn ngữ bao giờ cũng có tính võ đoán và là hệ thống ký hiệu có tính qui ước của cộng đồng người. Sự qui ước này có thể thay đổi theo hai con đường: con đường khách quan của ngôn ngữ tự nhiên và con đường cưỡng chế của Nhà nước. Tình hình này có thể so sánh khi ta nhìn sang hệ thống từ ngoại lai Âu châu du nhập vào tiếng Việt. Thử hỏi, tại sao ta lại có thể chấp nhận một cách rất tự nhiên các từ như “săm”, “lốp”… vào hệ thống từ vựng tiếng Việt mà không một ai bắt bẻ là người Việt đã không phát âm đúng như vỏ âm thanh gốc của nó trong tiếng Pháp? Vì rằng, các nhà Pháp ngữ học không ai có tư tưởng giống như các cụ đồ, lúc nào cũng coi chữ Hán như một thứ khuôn vàng thước ngọc đến mức là một thứ bất di bất dịch. Xét về bản chất, rõ ràng các hiện tượng vừa phân tích cũng chẳng có gì khác nhau: đều là đọc theo cách của người Việt sao cho tiện lợi về mặt phát âm và cho dễ nhớ. Nói một cách khác là, cùng một “cái được biểu đạt” (mặt nội dung) thì người bản ngữ hoàn toàn có thể cấp cho nó một “cái biểu đạt” (mặt hình thức) mới một khi nó dễ nhớ, dễ thuộc và dễ hiểu mà vẫn không đi lệch chuẩn mực một chút nào cả. Cái chuẩn mực của tiếng Việt hiện đại vận hành trong cuộc sống sinh động của nó có thể nói là khác xa, thậm chí đối lập với cái chuẩn mực cổ kính của một thứ văn tự xưa cũ là chữ Hán. Do đó nếu coi việc dạy chữ Hán là một tiêu chí nhằm hướng tới chuẩn mực ngôn ngữ hiện đại là cực kỳ sai lầm về phương pháp luận khoa học, đồng thời là đại quan liêu và xa rời với thực tiễn.

Cuối cùng, để kiểm nghiệm thêm một lần nữa chúng ta hãy đi qua các lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài lại càng rõ. Một trong những vấn đề nan giải đối với sinh viên Trung Quốc khi học tiếng Việt chính là việc sắp đặt các từ trong câu - ta vẫn gọi là ngữ pháp tiếng Việt. Vì rằng, trật tự từ trong câu của tiếng Hán thường ngược với trật tự từ trong câu tiếng Việt. Lẽ ra phải viết: "Các em học sinh nhỏ đang đến trường” thì người học lại viết “Các em nhỏ học sinh đang đến trường”… Sự sai lệch trong chuẩn mực ngôn ngữ đối với người Trung Quốc khi học tiếng Việt đã cho thấy rõ cách tư duy của người Hán hoàn toàn khác tư duy của người Việt Nam. Chữ Hán là sản phẩm của người Hán. Do vậy tư duy theo cách học chữ Hán chính là một cản trở lớn đối với việc nắm bắt các kỹ năng của tiếng Việt hiện đại chứ nó không có ích lợi gì cho việc khắc phục các lỗi sai về nói và viết tiếng Việt như một vài nhà Hán học đã nhầm lẫn.

Ngoài ra, chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm: Ngay ở Trung Quốc hiện nay, Nhà nước và các chuyên gia hãy còn đang rất đau đầu đối với việc giải quyết vấn đề về quan hệ giữa tiếng Hán và ngôn ngữ các dân tộc trong phạm vi nước mình. Vì rằng, theo lẽ thông thường, trong một quốc gia đa dân tộc thì bao giờ cũng có một ngôn ngữ được chọn làm ngôn ngữ phổ thông dùng trong phạm vi cả nước (ngôn ngữ này có thể là của dân tộc có trình độ phát triển cao nhất, hoặc là sự kết hợp nhiều ngôn ngữ cộng lại), còn ngôn ngữ của các dân tộc khác cũng vẫn được sử dụng trong các phạm vi đặc thù. Vì thế, dạy song ngữ cho con em các dân tộc ít người ở bất kỳ quốc gia nào cũng rất được Nhà nước hết sức chú trọng vì nó liên quan đến việc bảo tồn và phát triển văn hóa, lịch sử của mỗi cộng đồng dân tộc cụ thể. Xử lý mối quan hệ này không khéo sẽ gây nên những xáo động, thậm chí có thể tạo ra nội chiến một khi không có được những quan tâm đúng mức tới ngôn ngữ của các tộc người./.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574571

Hôm nay

2169

Hôm qua

2317

Tuần này

22117

Tháng này

221628

Tháng qua

130677

Tất cả

114574571