Trước cách mạng tháng Tám 1945 đã có nhiều nhà nghiên cứu viêt về tết Nguyên Đán. Phan Kế Bính trong “Việt Nam phong tục” (1915) đã viết về tết Nguyên Đán một cách khái quát là “tết ăn to hơn cả tết trong một năm”… “Suốt một tháng giêng, già trẻ trai gái, kẻ chợ nhà quê, quần điều áo thâm, kẻ thì lễ bái chùa này miếu nọ, người thì du ngoạn cảnh nọ cảnh kia, chỗ thì thi hoa thủy tiên, chỗ thì thi hoa đăng, chỗ thì hội hè hát xướng. Các người nhàn, năm ba người tụ lại đánh bài đánh bạc. Ngoài ngã ba ngã bảy, đám thì quay đất, đám thì lúc lắc thò lò, tổng chi gọi là cách thưởng xuân”[1]. Sau Phan Kế Bính, nhiều nhà nghiên cứu khác cũng tiếp tục bàn luận về chủ đề hấp dẫn này: Trên tạp chí Thanh Nghị, số 9 (tháng 2-1942), Vũ Đình Hòe viết “Tết Nhâm Ngọ với Thanh niên”, Tô Ngọc Vân viết “Tranh cổ Việt Nam: tranh tết”, Vũ Đình Liên viết “Kỷ niệm tết”. Trong số 10 (tháng 3-1942), Đỗ Đức Dục viết “Ăn tết” và số 29 (tháng 2-1943), Nguyễn Trọng Phấn viết “Tết Nguyên Đán của người Bắc Kỳ”. Các tác giả trên viết về tết ở nhiều góc độ khác nhau: Vũ Đình Hòe viết về tết dưới góc độ tuyên truyền, giáo dục thanh niên. Tô Ngọc Vân là một họa sĩ nên ông viết về tết dưới góc độ hội họa mà chủ yếu tập trung vào phân tích các tranh cổ về tết. Trong khi đó, Vũ Đình Liên lại viết về tết dưới ngòi bút văn học. Đỗ Đức Dục viết về tết qua những trò chơi và tính tiêu cực của nó như đốt pháo, đánh bạc. Riêng bài viết của Nguyễn Trọng Phấn có khảo sát các nguồn tư liệu về tết, nhưng cũng chỉ dừng lại ở góc độ mô tả về tết của người xưa, trong đó có tết ở cung đình. Nhìn chung, các tác giả trên viết về tết Nguyên Đán trên nhiều phương diện khác nhau, nhưng chưa phải là những công trình nghiên cứu khoa học về lễ hội lớn nhất của người Việt. Tính đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Văn Huyên có lẽ là học giả nghiên cứu về tết Nguyên Đán một cách có hệ thống, sâu sắc và mang tính khoa học hơn cả.
2. Nguyễn Văn Huyên (1908-1975) là một nhà nhân học, một nhà quán lý giáo dục nổi tiếng của Việt Nam. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, ông nổi tiếng với những công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian, về dân tộc học và văn hóa học. Cùng với “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938) của Đào Duy Anh, các tác phẩm “Sự thờ phụng thần thánh ở nước Nam” (1944) và “Văn minh nước Nam” (1944) của Nguyễn Văn Huyên là những công trình nghiên cứu đặt nền móng cho sự hình thành ngành nghiên cứu văn hóa, văn minh Việt Nam [2]. Nguyễn Văn Huyên cũng được coi là nhà nghiên cứu đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian Việt Nam [3].
Trên phương diện nghiên cứu lễ tết, Nguyễn Văn Huyên là người nghiên cứu đều đặn và hệ thống nhất. Ông gần như viết về các lễ tết quan trọng gắn liền với đời sống người Việt. Bên cạnh viết về tết Nguyên Đán, ông còn viết về tết Đoan Ngọ, Trung Thu…
3. Bài viết “Tết Nguyên Đán của người Việt Nam”[4] của Nguyễn Văn Huyên là một nghiên cứu dày dặn về lễ hội lớn nhất của dân tộc Việt. Mục đích của Nguyễn Văn Huyên khi viết về tết cũng khác các nhà nghiên cứu trước và sau đó. Ông viết về tết để qua đó giới thiệu với các bạn bè nước ngoài, trong đó quan trọng nhất là người Pháp-những người mà ông biết là “rất muốn biết các truyền thống của phương Đông xa xôi”[5] về văn hóa Việt Nam. Trong bài viết này, Nguyễn Văn Huyên đã sử dụng ngôn từ tái hiện tết Nguyên Đán một cách có chiều sâu, chiều dài và chiều rộng với đầy đủ ý nghĩa của nó trong nền văn hóa Việt Nam. Đó là chiều sâu về văn hóa, chiều dài về lịch sử và chiều rộng về không gian, quy mô của tết.
Về cội nguồn, tên gọi của tết, theo lịch pháp thì tết Nguyên Đán thể hiện một đặc trưng về cách tính lịch của người phương Đông. Nguyễn Văn Huyên viết: “Mỗi tháng bắt đầu vào một ngày của tuần trăng mới. Và năm cũng khởi đầu tuần trăng mới đầu tiên tiếp theo lúc mặt trời rời khỏi chí tuyến Nam, là dấu hiệu sau cùng của ba dấu hiệu mùa đông. Như vậy, tết vừa là sự vận hành của cả mặt trời và mặt trăng”[6]. Ông giải thích chữ “tiết Nguyên Đán” là “những buổi rạng đông của sự khởi đầu”[7].
Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên, cái tết không chỉ là một cái tết chung chung, mà bao hàm trong đó cả những cái tết cụ thể của những vấn đề cụ thể. Từ những chuyến vi hành và những câu đối sâu sắc của vị vua anh minh Lê Thánh Tông trong dịp tết ở thế kỷ XV đến cuộc hẹn với binh sĩ sẽ đánh bại quân xâm lược nhà Thanh và vào thành Thăng Long ăn tết của vua Quang Trung năm 1789. Tết Nguyên Đán là cái tết cho sự mở đầu: mở đầu một năm mới, mở đầu một mùa mới, mở đầu của kỷ nguyên mới, cuộc đời mới: ““Tết mở ra một cuộc sống mới cho mọi cá nhân ở xứ sở mà tình cảm về sự phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ giữa trật tự thiên nhiên và trật tự con người là yếu tố cơ bản của mọi tín ngưỡng dân gian”[8].
Trong đời sống của người Việt, tết Nguyên Đán là lễ tết thiêng liêng. Sự thiêng liêng của nó thể hiện trên nhiều phương diện của cuộc sống mà không một thế lực nào có thể ngăn cản, cấm đoán hay hạn chế được nó. Người nghèo hay người giàu, ông vua hay người hành khất đều có quyền tự tạo cái tết và đón tết theo cách của họ. Về mặt kinh tế, tết thể hiện sự khác nhau giữa người nghèo và người giàu. Nhưng về mặt văn hóa, nó lại có một sự bình đẳng tương đối của tất cả mọi người trong ngày tết. Trong bài viết, Nguyễn Văn Huyên đã giới thiệu “tết” của nhiều tầng lớp trong xã hội từ người nông dân ở nông thôn đến người thị dân ở thành phố, từ người ăn xin, hành khất đến các ông đồ, vương tôn. Ở đó, tết của mọi người vừa có những cái riêng theo điều kiện của họ, vừa có cái chung trong nền văn hóa của mình. Về tầm quan trọng của tết đối với người Việt, Nguyễn Văn Huyên viết: “Chẳng có biến cố nào của thế giới bên ngoài có thể cướp đi của kẻ nghèo nhất cũng như người giàu nhất niềm vui trong lòng này và sự thỏa mãn được ăn tết một cách xứng đáng trước bàn thờ thần linh trong nhà hoặc giữa những người cùng xứ sở”[9].
Tết Nguyên Đán là dịp để người Việt biểu hiện nhiều nét văn hóa, đời sống tâm linh của dân tộc mình. Tết Nguyên Đán là một hệ thống các lễ liên tiếp với các mối quan hệ chặt chẽ với nhau từ lễ cúng tiến ông Táo lên chầu trời, lễ cúng giao thừa giữa hai năm, lễ đón và tiến tổ tiên về ăn tết, lễ cầu mùa màng, sức khỏe, hạnh phúc. Các lễ này không thể hiện một cách sinh động các quan niệm về thế giới, về thiên nhiên, về cuộc sống của người Việt. Nguyễn Văn Huyên đã cho bạn đọc hiểu rõ hơn ý nghĩa văn hóa của nhiều sự kiện diễn ra trong dịp tết Nguyên Đán. Từ việc giải thích quan niệm về Táo Quân và ý nghĩa của lễ cũng ông Táo chầu trời đến những nhắn gửi, mong muốn của con người vào nghi lễ này. Hay việc cúng giao thừa như thế nào và sự chuẩn bị, ý nghĩa cùng cả những trải nghiệm cá nhân trong dịp lễ. Ông không chỉ mô tả lại sự tất bật, nhộn nhịp chuẩn bị cho ngày tết và mà giải thích ý nghĩa của từng sự tham gia chuẩn bị đó: từ người phụ nữ đi chợ mua sắm tết, người đàn ông chuẩn bị để thực hiện nghi lễ trong lễ cúng, ông đồ chuẩn bị bút mực đi cho chữ, bán chữ hay đứa trẻ chuẩn bị quần áo mới để chơi tết. Gắn với từng đối tượng, sự hành động là những ý nghĩa nhân sinh nằm ẩn sâu trong đó mà không phải một nhà nhân học, một con người trải nghiệm trong nền văn hóa thì thật khó mà thể hiện được.
Ngày đầu năm là ngày quan trọng nhất, là mở đầu cho sự mở đầu. Vậy nên những gì xẩy ra trong ngày đầu năm vô cùng quan trọng. Như Nguyễn Văn Huyên viết: “Sau lễ giao thừa, mọi người đều đi ngủ. Hôm sau người ta cũng chẳng dậy muộn. Người ta phải rửa ráy khá sớm để trông nom việc làm cơm cũng tổ tiên. Rồi sau đó, mọi người mặc áo quần đẹp nhất để đón người khách đầu tiên. Tuy nhiên, ai cũng tránh là người khách đầu tiên, vì như vậy họ sẽ phải chịu trách nhiệm tinh thần về mọi điều rủi ro co thể có thể xẩy tới với gia đình này trong năm. Vì tuy đã cẩn thận tự mình xông đất nhà mình trong đêm giao thừa, nhưng người ta vẫn luôn luôn áy náy không rõ ai là người khách đầu tiên đến thăm trong năm. Vì chú trọng như vậy tính chất của kẻ đầu tiên đến chúc tết, người ta luôn luôn thu xếp để người này là kẻ mang điềm tốt đến”[10].
Không chỉ quan tâm đến những hành động của mọi người trong ngày tết, Nguyễn Văn Huyên còn đi sâu vào tâm lý của con người khi đón tết. Đó là những suy nghĩ, cảm nhận của những người khác nhau về ngày tết. Nó thể hiện quan điểm, tình cảm của họ với tổ tiên, với năm mới, với bạn bè, gia đình, với non sông, đất nước. Không chỉ mô tả không khí đi hội chùa đầu năm mà ông còn phân tích tâm lý của những người đi chùa qua những suy nghĩ, biểu hiện của họ. Bên cạnh đó, ông cũng phân tích các sản phẩm được sử dụng trong ngày tết. Từ những bức tranh dân gian vẫn được các nghệ nhân dân gian sáng tạo ra trong ngày tết đến bức trang chữ, bức câu đối của cụ đồ bên đường phố. Từ từ dán những câu đối sang trọng hay dán một mẩu giấy điều lên cửa tượng trưng cho thần hộ mệnh của gia đình. Hay việc dựng cây nêu trong dịp tết mà ý nghĩa của nó là: “Bằng ánh sáng và bằng gai các cành cây mà nó mang, bằng âm thanh mà các vật đất sét phát ra lúc gió thổi, cây nêu là sợ hãi ma quỷ, chúng tưởng mình đứng trước nhà một vị thần hay một đức Phật. Để chống lại những hồn lang thang đáng sợ đó, người ta còn buộc vào cây nêu một tấm phên nhỏ gồm bốn nan dọc đan vào năm nan ngang, là thứ bùa nổi tiếng của các thầy phù thủy”[11].
4. Nguyễn Văn Huyên viết về tết Nguyên Đán dưới góc nhìn của một nhà nhân học. Nghiên cứu của ông về tết là một nghiên cứu nhân học điển hình: ở đó, không chỉ là sự mô tả cụ thể, tỉ mỉ từng hành động của chủ thể là con người cá nhân hay cộng đồng, mà còn là sự giải thích tâm lý con người đến sự phân tích về tâm linh cho từng hành động, từng nghi lễ. Điều này thể hiện ông đã nghiên cứu tư liệu một cách rất nghiêm túc. Viết về tết, ông đã khảo sát kỹ về các truyền thuyết trong văn hóa dân gian như về Táo quân, về thổ công, các sử liệu về tết trong lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó là tài liệu điền dã nhân học mà có lẽ ông đã quan sát rất kỹ, tham gia và cảm nhận tinh tế để đưa ra những giải thích cụ thể của mình. Chính vì vậy mà nghiên cứu về tết của Nguyễn Văn Huyên mang tính khoa học, khách quan, với lối giải thích của nhà dân tộc học. Ông viết về tết Nguyên Đán như một trong những ngày tết của người Việt cùng với tết Đoan Ngọ, tết Trung thu… Rộng hơn nữa, ông đặt tết Nguyên Đán trong hệ thống các lễ hội, lễ nghi về đời sống sinh hoạt văn hóa của người Việt. Nó thể hiện nhiều nét đặc trưng trong văn hóa dân tộc Việt trong lịch sử quan hệ con người-tự nhiên, con người-con người, con người-tổ tiên và dân tộc với dân tộc.
Ngày nay, dù tết Nguyên Đán của người Việt đã biến đổi nhiều, nhưng nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên vẫn đặt ra nhiều vấn đề để suy nghĩ. Đó không chỉ là một nguyền tư liệu quan trọng để những ai quan tâm nghiên cứu về lễ hội, về tết và đới sống tinh thần của người Việt tham khảo, nó còn là cơ sở để cho những nhà quản lý văn hóa nhận thức về sự biến đổi của lế tết của dân tộc./.
Hà Nội, ngày 14/1/2014
[1]Phan Kế Bính: “Tứ thời tiết lập” trong “Việt Nam phong tục”. Phan Kế Bính.
[3]Xem Ngô Đức Thịnh: “Nguyễn Văn Huyên với các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian”. Trong sách “Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền”. H-Văn hóa Thông tin, 2007.
[4]Indochine, Hebdomadaire Illustré, số 75-76, tháng 8-1941. In lại trong “Nguyễn Văn Huyên toàn tập”. Tập II. H-Giáo dục, 2001.
[5]Indochine, Hebdomadaire Illustré, số 75-76, tháng 8-1941. In lại trong “Nguyễn Văn Huyên toàn tập”. Tập 2. H-Giáo dục, 2001. Trang 933.
[6]Nguyễn Văn Huyên. Tài liệu đã dẫn. Trang 931-932.
[7]Nguyễn Văn Huyên. Tài liệu đã dẫn. Trang 932.
[8]Nguyễn Văn Huyên. Tài liệu đã dẫn. Trang 934.
[9]Nguyễn Văn Huyên. Tài liệu đã dẫn. Trang 932.
[10]Nguyễn Văn Huyên. Tài liệu đã dẫn. Trang 947.
[11]Nguyễn Văn Huyên. Tài liệu đã dẫn. Trang 941.