Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng, Nguyễn Đình Thi tuy sinh ra tại Luang Phrabang (Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào) nhưng ông sống và sáng tác chủ yếu ở Hà Nội, nên nghệ thuật của ông có phong cách “elite” của một người Hà Nội đã tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa Việt Nam trên đất Thăng Long có bề dày lịch sử. Văn hóa Thăng Long được thể hiện trong sáng tác của Nguyễn Đình Thi không chỉ là những người thật, việc thật trong những sự kiện lịch sử quan trọng mà còn là sự sâu lắng, thâm trầm trong tư tưởng, sự tinh tế trong cảm nhận cuộc sống và xử lý những vấn đề trong quan hệ chính trị, quan hệ nhân sinh.
Những ai đã tâm đắc với một Nguyễn Đình Thi lãng mạn và nặng tình trong thơ ca vẫn sẽ ngạc nhiên với một Nguyễn Đình Thi hào sảng trong âm nhạc, và cảm phục một Nguyễn Đình Thi sâu sắc, tài hoa trong nghệ thuật viết kịch. Đặc biệt về những tác phẩm kịch, bản thân Nguyễn Đình Thi đã tự nhận rằng: “Cuốn Tuyển tập kịch là nỗi tâm huyết nhất của đời tôi, là những nỗi đau nhức nhối của đời tôi”.
Nếu hiểu được đôi chút về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác cũng như những trăn trở, hoài vọng của Nguyễn Đình Thi gửi gắm qua tác phẩm, sẽ thấy trong câu nói trên ẩn chứa những nỗi niềm trĩu nặng của một tâm hồn nghệ sĩ lớn, hiểu đời, hiểu người mà vẫn không thoát khỏi những sóng gió của một cuộc đời nhiều thành công nhưng cũng lắm đa đoan.
So với thơ, tiểu thuyết hay âm nhạc thì kịch là lĩnh vực mà Nguyễn Đình Thi dụng công nhiều nhất, và cũng là lĩnh vực đa thanh nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông. Những vấn đề đa dạng của đời sống, từ những chuyện lớn lao như chiến tranh, cách mạng, sự hưng vong của một vương triều đến những diễn biến tinh tế trong nội tâm con người đều được thể hiện một cách ấn tượng trong tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi.
Một điều đặc biệt nhưng rất dễ nhận ra khi thưởng thức kịch của Nguyễn Đình Thi là tác phẩm kịch của ông rất giàu tính văn học và triết học. Điều này không khó lý giải, vì Nguyễn Đình Thi không chỉ tài hoa trong lĩnh vực viết kịch mà còn là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia và cũng đã từng có những công trình nghiên cứu triết học được đánh giá cao từ khi ông còn trẻ tuổi. Đặc điểm này đã mang lại cho sáng tác kịch của Nguyễn Đình Thi vẻ đẹp trí tuệ không dễ có trong lịch sử sân khấu Việt Nam, nhưng đồng thời cũng làm cho những tác phẩm này trở thành loại kịch khó cảm nhận, kén khán giả và rất dễ thất bại khi đưa lên sân khấu. Có thể nói “Rừng trúc” là vở kịch thể hiện một cách rõ nét nhất đặc điểm này trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi.
“Rừng trúc” là một vở kịch lịch sử. Bối cảnh của vở kịch là thời kỳ chuyển tiếp từ triều đại nhà Lý sang triều đại nhà Trần. Trong vở kịch này, sự tài hoa của nhà viết kịch Nguyễn Đình Thi thể hiện rõ nét qua lời thoại của các nhân vật. Những bi thương của một triều đại suy vong sau hơn hai trăm năm trị vì đất nước, những thủ đoạn không thể không dùng để chuyển ngôi báu về tay một dòng họ đã nắm được thời cơ, nỗi đau không thể tỏ cùng ai của một người phụ nữ mang danh hiệu quyền quý nhưng lại chơi vơi giữa sóng gió bốn bề khi tuổi đời còn quá trẻ, nỗi trăn trở của những người đang nắm vận mệnh đất nước khi vó ngựa quân Nguyên đang rầm rập đuổi đến biên thùy..v..v., tất cả đều được thể hiện đầy đủ, rõ ràng và hết sức cảm động qua những cuộc đối thoại giữa các nhân vật chủ chốt của hai dòng họ Lý, Trần và cuộc độc thoại của Lý Chiêu Hoàng khi tưởng nhớ vua cha Lý Huệ Tông.
Thể hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động về chính trị nhưng “Rừng trúc” không trở thành một vở kịch khô khan, nặng nề mà sáng lên một vẻ đẹp thanh thoát và đồng thời cũng chân thực, sâu lắng đến mức ám ảnh. Điều đó thể hiện thành công của Nguyễn Đình Thi từ việc lựa chọn nhân vật, sự kiện đến năng lực thể hiện nội dung tư tưởng qua lời thoại.
Nhân vật trung tâm của vở kịch là Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh- bà hoàng cuối cùng của nhà Lý và ông vua đầu tiên của nhà Trần. Xoay quanh mối quan hệ của hai nhân vật quan trọng này là những xung đột, biến thiên của một thời kỳ thay đổi ngôi vua, những toan tính, mâu thuẫn của cá nhân, gia đình, dòng họ dưới sự chi phối của Thái sư Trần Thủ Độ và những nguy cơ rình rập ngoài biên ải đất nước. Vì vậy giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh không chỉ có tình cảm mặn mà của đôi vợ chồng trẻ tuổi quyến luyến nhau mà còn có cả nỗi đau đớn của sự phân ly, xáo trộn trong gia đình, cả sự nặng nề về trách nhiệm của người trao ngôi vua và người nhận trách nhiệm về sự tồn vong của nước nhà.
Với quyết tâm giữ lấy ngôi báu đã về tay họ Trần, Thái sư Trần Thủ Độ và phu nhân là Trần Thị Dung đã làm mọi cách để ngôi thái tử của triều đình không bị bỏ trống, kể cả sau khi việc nhường ngôi giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh đã được thực hiện êm xuôi. Do đó, hai người đã đưa công chúa Thuận Thiên- vốn là vợ của Trần Liễu, anh cả nhà vua, và là chị ruột của Chiêu Hoàng- về thay em giữ ngôi hoàng hậu. Cuộc sắp đặt này đã gây ra những xung đột lớn giữa anh và em, giữa mẹ và con, và trên hết là những nỗi bi thương, dằn vặt không nguôi trong quan hệ chị em, vợ chồng.
Thực ra, khi được sắp xếp để nhường ngôi cho chồng thì Lý Chiêu Hoàng tuy là vị vua cuối cùng của nhà Lý nhưng mới chỉ là một đứa trẻ lên tám, nên vẫn chưa hiểu được thế nào là sức mạnh của quyền lực, là sự suy vong của một vương triều, là trách nhiệm của người đứng đầu thiên hạ. Trong tình hình đó, chuyện nhường ngôi diễn ra êm thấm, dễ dàng và cũng không làm cho Lý Chiêu Hoàng đau đớn hay bi phẫn. Nhưng khi vợ chồng thái sư một lần nữa mưu toan, sắp xếp để đổi ngôi hoàng hậu thì mọi chuyện không còn dừng lại ở phạm vi quyền lực chính trị mà đã tạo nên những giông bão trong tâm hồn, gây ra những cảnh bẽ bàng, những nỗi phẫn uất của người trong cuộc. Nếu không phải là người tham quyền lực, người ta có thể yên lòng nhận tước vương khi em trai mình lên ngôi hoàng đế, hoặc có thể vui vẻ nhường ngôi cho chồng để lui về hậu cung làm một người vợ nhu mì. Nhưng, chuyện tranh vợ cướp chồng, nhất là khi điều đó lại diễn ra giữa anh em, chị em trong một gia đình thì dù là người độ lượng bao dung cũng không dễ gì chấp nhận. Bi kịch của Trần Cảnh- Lý Chiêu Hoàng trong bi kịch chung của hai họ Lý- Trần xảy ra trong hoàn cảnh đó, và đã được thể hiện sâu sắc, trọn vẹn trong kịch bản “Rừng trúc” của Nguyễn Đình Thi. Thành công đó một phần nhờ cách sử dụng ngôn từ điêu luyện, nhưng quan trọng là tác giả đã khéo léo lồng vào không gian kịch tư tưởng Phật giáo Việt Nam thời Lý- Trần với tinh thần từ bi, tâm thế an nhiên tự tại và tình cảm yêu thương chan hòa với tha nhân để có thể hóa giải mọi, cừu hận, oán hờn trong quan hệ nhân sinh.
Tư tưởng Phật giáo với cuộc chuyển giao quyền lực Lý- Trần
Nhà Trần được ngôi vua trong một hoàn cảnh đặc biệt, bởi vì Trần Cảnh không phải là người lãnh đạo nhân dân đánh giặc ngoại xâm, đem lại độc lập cho đất nước rồi xưng đế trước sự cảm phục của trăm họ như sự mở đầu của các triều đại khác. Khi giai đoạn hưng thịnh đã qua, nhà Lý đang trên con đường suy vong không thể cứu vãn thì họ Trần đã nắm bắt được thời cơ tiếp cận với ngôi báu đang bị lung lay trong buổi mạt triều. Bắt đầu từ mối quan hệ giữa người con gái nhan sắc của họ Trần là Trần Thị Dung với vua Lý Huệ Tông, nhà Trần đã có cơ hội can thiệp ngày càng sâu vào công việc triều chính. Tuy nhiên, nhà Lý lúc này như ngọn lửa sắp tàn, dù nhìn thấy trước mắt sự tàn lụi không tránh khỏi nhưng vẫn le lói những đốm sáng cuối cùng giữa những rối ren của thời cuộc và những mưu toan của con người.
Chuyện được mất, hơn thua vốn là những chuyện dễ gây xung đột. Ở đây trước hết là chuyện được mất ngôi vua giữa hai dòng họ Lý- Trần. Sự chấm dứt của một vương triều không diễn ra đột ngột, mà là một quá trình suy thoái năng lực chính trị kéo dài. Trong quá trình đó, biết bao nguy cơ, hiểm họa trong và ngoài nước có thể xảy ra. Nhưng khoảng thời gian đó cũng đủ dài để những người cuối cùng của một dòng họ đã từng có công lao to lớn với dân tộc, từng tạo nên một thời kỳ mở mang văn hóa cho đất nước phải đau đớn, xót xa. Trước những nguy cơ đe dọa sự bình yên của đất nước và sự tự do của dân tộc, việc thay thế một hoàng tộc, một vị vua có năng lực chính trị hơn là điều cần thiết. Nhưng nếu nghĩ về công lao to lớn của tiền nhân, những người còn sót lại của một vương triều cũ không thể nào rời bỏ cung đình mà đi như một ngư dân bỏ túp lều rách nát.
Vẫn biết rằng theo dòng lịch sử, chuyện hưng phế của một triều đại là lẽ thường tình, nhưng đúng như lời nói của Trần Cảnh trong “Rừng trúc”: “Biết rằng đời như cái bóng mây qua, nhưng lòng tham tiếc lắm không có cách nào dứt bỏ được, tham từ quyền nắm cả thiên hạ cho đến một miếng ăn ngon cũng không thể không thèm”. Vì thế, việc chuyển giao ngôi báu từ Lý Chiêu Hoàng sang Trần Cảnh, dù đã được những người họ Trần có thể lực sắp đặt một cách công phu và diễn ra thuận lợi vì cả người trao và kẻ nhận đều chưa đến tuổi trưởng thành, vẫn là một tấn bi kịch nặng nề của dòng họ Lý. Trái lại, đối với họ Trần mới lập công danh thì những kẻ yếu thế đã nhường ngôi vẫn còn đó như một mối họa tiềm ẩn. Hoàn cảnh đó không chỉ gây ra những khó khăn rất lớn cho nhà Lý trước hồi chung cuộc mà còn là một thách thức lớn đối với nhà Trần mới bắt đầu tiếp nhận việc nắm giữ và quyết định vận mệnh quốc gia. Trong tư thế giằng co như vậy, nhiều sự kiện đã được âm thầm xếp đặt, và những chuyện bi thương mà trong cuộc sống đời thường khó hình dung nổi đã xảy ra. Trước hết là chuyện Lý Huệ Tông bị bức tử, sau đó là chuyện đưa vợ của Trần Liễu là Thuận Thiên công chúa đang mang thai ba tháng về thay ngôi hoàng hậu của Chiêu Hoàng.
Với những sự kiện trên, rất có thể những xung đột nội tộc còn bị đẩy đi xa hơn nữa, và sóng gió trong tâm hồn vị nữ vương cuối cùng của dòng họ Lý còn khủng khiếp hơn nếu như tư tưởng của hai nhân vật chính là Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng khác đi một chút.
Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh khi bà chưa đủ lớn để ý thức việc mình làm, và cũng mất cha khi chưa hiểu rõ những mưu toan của họ Trần xung quanh ngôi báu. Đến khi hiểu hết ý nghĩa mọi chuyện thì bà vừa đau nỗi đau của một người con mất cha, vừa bị dày vò bởi gánh nặng lịch sử trên vai khi biết mình đã chính thức chấm dứt vai trò lịch sử của dòng họ Lý. Riêng chuyện đó đã làm bà sầu muộn, ăn năn. Đến khi biết vợ chồng thái sư đã sắp đặt để Thuận Thiên công chúa thay bà làm hoàng hậu, những nỗi đau chất chứa bấy lâu trong đáy lòng bà chừng như bùng vỡ. Nhưng vào thời điểm cao trào ấy, bà vẫn đọc bài kệ của sư Vạn Hạnh, như tiếp nhận một liều thuốc tinh thần để tâm hồn lặng yên giữa bốn bề sóng gió:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
(Ngô Tất Tố dịch)
Là một người từng đứng ở ngôi cao trị vì thiên hạ, nhưng cũng lại là người phải chịu đựng quá nhiều mất mát trong đời, thái độ trầm tĩnh của Lý Chiêu Hoàng khi đọc bài kệ trên là một biểu hiện vô cùng hiếm thấy. Nhưng, nếu nhìn kỹ sự tình hơn một chút, thì biểu hiện nhân sinh quan Phật giáo của bà không phải là khó hiểu. Chiêu Hoàng là công chúa, nhưng cũng lại là một đứa con gái mất cha; là nữ hoàng, nhưng lại là một nữ hoàng mất ngôi; là hoàng hậu, nhưng cũng lại là một người vợ mất chồng. Ở một vị trí nhạy cảm như vậy, nếu là một người tham quyền lực hay thâm độc, mưu mô thì có lẽ bà đã góp phần làm cho thế cuộc trước mắt càng thêm điên đảo. Nhưng bà vốn là người có một trái tim trong sáng, một tấm lòng cao cả bao dung nên đã tiếp nhận nhân sinh quan Phật giáo một cách dễ dàng, và hiểu rằng chuyện được- mất, có- không ở đời chỉ là trong khoảnh khắc. Nhờ vậy mà tuy không còn là một đứa trẻ xem chuyện nhường ngôi báu chỉ là trò chơi, tuy đã hiểu hết những mưu đồ của vợ chồng thái sư Trần Thủ Độ, bà vẫn chấp nhận rằng lịch sử đã sang trang, và cơ đồ của nhà Lý đến thế hệ của bà là chấm dứt. Trên tinh thần đó, bà đã thực hiện cuộc đối thoại thẳng thắn và chân thành nhất với vị vua đầu tiên của triều đại nhà Trần, cũng là người chồng, người gần gũi nhất với bà trong suốt mười hai năm chung sống. Trong cuộc đối thoại này, lời nói của Chiêu Hoàng vừa là lời đanh thép của một vị nữ vương trao “quyền nắm cả thiên hạ” vào tay một triều đại mới, vừa là lời tâm tình thiết tha của một người vợ đối với chồng trước lúc chia ly. Và sau tất cả, đó là lời nói chân thực nhất của một con người đã đi qua bão táp của thời cuộc để trở về với đời thường, khi bà nêu nguyện vọng xin một gian nhà nhỏ trong một khu vườn yên tĩnh ở gần chùa, để tiện bề hương khói cho cha. Sau cuộc đối thoại đầy kịch tính, chuyện nhường ngôi không còn là chuyện âm mưu, cướp đoạt mà đã trở thành cuộc chuyển giao quyền lực hòa bình, đầy nghĩa khí và cũng đầy tinh thần trách nhiệm trước buổi giao thời nhiều nỗi khó khăn. Lý Chiêu Hoàng đã hết sức chân thành khi bộc bạch rằng, bà rất buồn và tiếc cho nhà Lý đã suy vong, nhưng cũng mừng vì nhà Trần khởi nghiệp có một vị vua như Trần Cảnh. Lời tâm sự nhẹ nhàng ấy đã hóa giải mọi oán cừu giữa hai dòng họ, dẹp bỏ những mưu đồ chính trị trong bóng tối để tập trung tinh thần đối phó với hiểm họa lớn nhất của quốc gia đang rình rập bên ngoài. Điều đó là một may mắn lớn cho vận mệnh quốc gia, và cũng là sự giải thoát cho bản thân Lý Chiêu Hoàng, cho duyên nợ đầy bất trắc giữa bà và Trần Cảnh.
Nhà vua đầu tiên của họ Trần đã tiếp nhận vương quyền cùng trách nhiệm nắm giữ vận mệnh nước nhà trong một hoàn cảnh đầy khó khăn như vậy. Khi Lý Chiêu Hoàng đã trút hết nỗi lòng và giũ áo ra đi, mọi gánh nặng lịch sử lúc bấy giờ dồn lên vai Trần Cảnh. Nhà vua lúc này không còn là một đứa trẻ được Chiêu Hoàng trao mũ áo như một trò chơi mà là một đấng quân vương đứng trước sự tồn vong của đất nước. Thế cuộc này đâu phải là mưu tính, tham vọng của riêng ông, nhưng ông vẫn gánh vác với tất cả tinh thần trách nhiệm, đúng như nhận định sáng suốt của Lý Chiêu Hoàng.
Nhưng, bên trong chiếc áo bào lộng lẫy thì nhà vua cũng là một con người. Trước những biến động thời cuộc đã diễn ra, ông bày tỏ cảm xúc một cách chân thành: “Kiếp làm người nghĩ đáng sợ”. Không đáng sợ làm sao được khi ông là người tận mắt chứng kiến sự suy vong của một vương triều, hiểu hết mưu đồ của những người có thế lực trong dòng họ. Nhưng quan trọng hơn cả là ông cũng không tránh được những phiền muộn dày vò của một cá nhân. Ông làm vua mà không thể định đoạt chuyện hôn nhân của chính mình, làm chồng nhưng không bảo vệ được người vợ mà ông đã mang ơn và đã mười hai năm gắn bó. Chuyện thay ngôi hoàng hậu vừa làm cho ông phải mang tiếng tranh giành vợ của anh, vừa làm mất đi của ông một người bạn đời lý tưởng, khiến ông phải đối diện với những tình huống đau xót, bẽ bàng.
Cũng như Lý Chiêu Hoàng, bản thân Trần Cảnh không phải là người tham quyền lực. Hơn thế, ông còn hiểu rõ lòng tham chi phối con người đến mức nào, hiểu cuộc phù sinh trên trần thế mong manh và ngắn ngủi ra sao. Với một tâm hồn như vậy, chuyện từ bỏ ngôi vua cũng nhẹ nhõm như lữ khách rời bỏ một nơi cư trú tạm thời. Và ông đã thể hiện điều đó khi cùng với người bạn thuở hàn vi của mình lặng lẽ rời bỏ hoàng cung để tìm lên Yên Tử.
Tất nhiên, khi hiểm họa ngoại xâm đang đe dọa cõi bờ đất nước, một người làm vua dù sùng mộ Phật giáo đến đâu cũng không thể yên tâm trút bỏ việc đời để tìm sự thong dong nơi cửa Phật, huống hồ lúc ấy mọi việc triều chính vẫn nằm trong sự chi phối của vị thái sư gang thép họ Trần. Nhưng, việc nhà vua bỏ vương triều để tìm đến rừng trúc thâm u vẫn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu như cuộc đối thoại giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh là liều thuốc hóa giải những cừu hận trong cuộc chuyển giao quyền lực, chính thức hóa ngôi vua của họ Trần về mặt tâm lý của người trong cuộc thì chuyện nhà vua đột ngột rời bỏ ngai vàng đã xóa bỏ hoàn toàn những ấn tượng trước đó về việc tranh quyền đoạt ngôi giữa hai dòng họ. Một khi nhà vua đã từ bỏ ngai vàng như từ bỏ một phiến đá nghỉ chân, thì ngôi báu lúc này không còn là mục đích tranh đoạt mà chỉ là một gánh nặng lịch sử. Nhà vua từ rừng trúc trở về giống như một con người đã được tái sinh. Từ đây, người giữ ngôi báu là vì sinh mệnh của trăm họ, vì trách nhiệm với tiền nhân không thể chối từ. Ý nghĩa của cuộc chuyển giao quyền lực Lý- Trần cũng vì thế mà trở nên trọn vẹn và nhẹ nhõm.
Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam qua “Rừng trúc”
Lời nói và hành động của Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh trong vở kịch cho thấy họ chịu ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo, và đã vận dụng tư tưởng Phật giáo một cách hợp lý để giải quyết việc đời trong những tình huống khó khăn. Khi hiểu rằng vai trò lịch sử của nhà Lý đã chấm dứt, Lý Chiêu Hoàng dù đau xót trước thực tại và ăn năn trước vong linh của vua cha vẫn đủ tỉnh táo để chấp nhận thực tế và công nhận ngôi vua mới của nhà Trần. Trần Cảnh dù không tham ngôi báu nhưng đã trân trọng tiếp nhận vai trò lịch sử từ Lý Chiêu Hoàng, và là một vị vua có đức khoan dung và tinh thần dân chủ. Điều đó làm cho cuộc chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần chẳng những không dẫn đến chiến tranh đẫm máu mà còn trở thành một tiền đề tốt đẹp cho sự phát triển tiếp theo của triều đại nhà Trần, và là sự chuẩn bị cần thiết để làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc trong ba lần chiến đấu và chiến thắng quân Nguyên.
Lý Chiêu Hoàng đã hành xử đúng như tinh thần câu kệ của sư Vạn Hạnh: “Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi”, khi bà từ bỏ mọi chức danh, mũ miện để làm một người bình thường ẩn thân trong một khu vườn yên tĩnh. Rõ ràng tinh thần Phật giáo là một điểm tựa cho Lý Chiêu Hoàng trong những cơn bão tâm hồn tưởng chừng không thể vượt qua. Nhưng Chiêu Hoàng đã không mượn cửa Phật để lánh đời. Khi Trần Liễu tìm đến gặp bà trong cơn hoạn nạn, bà đã dùng lời lẽ khôn khéo để thức tỉnh vị hoàng thân và khuyên ông hãy hòa giải với nhà vua vì đại cuộc. Do vậy, có thể nói tinh thần Phật giáo ở Lý Chiêu hoàng là tinh thần nhập thế, là sự yên tĩnh trong tâm hồn để có thể nhìn đời bằng đôi mắt vô sai biệt, như lời nói của bà với thái sư Trần Thủ Độ: “Việc nước tất nhiên là lớn nhất, nhưng việc giữa người với người không thể nhỏ hơn”.
Còn Trần Cảnh mặc dù đang ở ngôi vua, nhưng tầm nhìn và tư tưởng của ông đã vượt ra khỏi chốn cung đình nhỏ hẹp và lắm chuyện đau lòng. Ông nghĩ đến người dân, và mơ về cuộc sống tu hành bình yên giữa núi rừng Yên Tử. Vì hiểu rằng mình giữ ngôi báu chỉ vì gánh nặng lịch sử đã trao tay, nhà vua nhìn mọi người, mọi chuyện với cái nhìn trầm tĩnh và thấu suốt. Khi Chiêu Hoàng ra đi, ông hiểu rằng bà đã tự nguyện từ bỏ chốn vàng son để tìm nơi thanh thản. Với Lê Tần là người bạn thuở hàn vi, nhà vua đã nói rằng: “Làm bầy tôi mà được vua tin đã khó, nhưng làm vua mà được bầy tôi tin lại còn khó hơn”. Với câu nói này, nhà vua thật xứng đáng với ngôi báu mà Lý Chiêu Hoàng trao lại, vì tấm lòng độ lượng và tinh thần dân chủ, vì sự quảng bác lẽ sống và thấu suốt lòng người.
Qua vở kịch, ta có thể hiểu rằng nếu được sống hoàn toàn vì bản thân mình với tư cách là một cá nhân, có lẽ sau khi chứng kiến những bể dâu thời cuộc đến lúc Trần Liễu dấy binh nổi loạn, rồi Lý Chiêu Hoàng rũ bỏ danh phận và rời khỏi cung đình thì Trần Cảnh hẳn đã xuất gia để trở thành một Thiền sư. Nhưng vì trách nhiệm cao cả, vì vận mệnh đất nước mà nhà vua phải quay lại cung đình. Ở đó, ông đã giải hòa với Trần Liễu và che chở cho anh mình trước lưỡi gươm của Trần Thủ Độ. Cũng như Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh là trường hợp điển hình của tinh thần “Phật tại tâm”.
Mặc dù “Rừng trúc” chủ yếu nói về chuyện trong hoàng tộc, tác giả vẫn khéo léo đưa vào một lát cắt tinh tế về lời nói và suy nghĩ của người dân, khi chọn cảnh nhà vua lặp ông lão ở quán rượu trên đường lên Yên Tử. Sự lựa chọn này trước hết làm cho ý nghĩa vở kịch trở nên đầy đủ, trọn vẹn hơn, vì nói việc nước mà chỉ nói về vua- cho dù vua ấy là bậc minh quân- thì cũng mới chỉ là một phía. Sau nữa là thông qua cuộc gặp gỡ này, chúng ta còn thấy được biểu hiện của tư tưởng Phật giáo trong dân gian thời Lý- Trần, vì ông lão trong vở kịch là hình ảnh đại diện cho tư tưởng, trí tuệ và lời nói của nhân dân.
Bằng những câu nói mà thoạt nghe thì có vẻ chỉ là những lời bông đùa, hài hước, ông lão đã đưa ra những triết lý sâu sắc về con người, về cuộc sống và trên cơ sở đó bày tỏ với nhà vua tình cảm và tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trong bối cảnh đương thời. Tư tưởng Thiền ở ông lão thể hiện rõ trong câu chuyện khi ông đến khấn Phật ở chùa thì nghe Phật dạy: “Ta có ở chùa đâu mà gọi tên”, rồi ông tự bình luận về điều đó trước nhà vua rằng: “Tụng kinh gõ mõ ăn chay cũng giống như cưỡi ngựa đi đường xa, đến nơi rồi thì cần ngựa làm gì nữa”.
Lời nói của ông lão một lần nữa khẳng định với nhà vua về quan niệm “Phật tại tâm”, rằng cái gốc của vấn đề giác ngộ là ở lòng người, chứ không phải là một điều gì bí ẩn xa xôi để phải tìm kiếm nơi thâm sơn cùng cốc. Với những lời nói đó, ông lão quả là đại diện cho sự minh triết của nhân dân. Và nhà vua cũng đã lắng nghe tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân với thái độ tôn trọng, chân thành. Phải chăng chuyện nhà vua trở về chốn hoàng cung tiếp tục vai trò lịch sử với tinh thần trách nhiệm và thái độ ôn hòa là chính vì cuộc gặp gỡ này, vì sự thấu hiểu việc đạo lẫn việc đời, vì cảm kích trước lòng dân và hơn là vì diệu kế của thái sư Trần Thủ Độ?
Đã đành nguyện vọng cá nhân chỉ là một cuộc đời vui thú điền viên, hay cảnh thong dong mây sớm sương chiều nơi rừng trúc. Nhưng khi việc nước bộn bề, khi mạng sống của muôn dân còn bị đe dọa bởi vó ngựa quân thù rậm rịch ngoài biên ải thì việc nhân đạo nhất, cần làm nhất là giữ vững ngôi vua, để giữ yên bờ cõi và bảo vệ hòa bình cho đất nước. Hiểu được điều đó nghĩa là đã có Phật trong tâm rồi, không cần lặn lội đường xa để tìm cửa Phật; ngược lại nếu chối bỏ việc đời trước mắt thì cũng không thể gột rửa bụi trần để giải thoát chỉ bằng kinh kệ khói hương. Đó là quan niệm Phật giáo của nhân dân được lồng vào vở kịch, là sự kết hợp giữa quan niệm từ bi trong Phật giáo với tư tưởng nhân đạo của nhân dân, cũng là sự thể hiện tính nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh lịch sử xã hội của tác phẩm “Rừng trúc”
Kết luận
“Rừng trúc” là một vở kịch lịch sử thành công, với lời thoại và tư tưởng triết lý sâu sắc có sức cuốn hút khán giả và lay động lòng người. Nói theo cách dùng từ của nhà nghiên cứu nghệ thuật Nguyễn Thị Minh Thái thì đây là tác phẩm “lộng lẫy một vẻ đẹp trí tuệ” [5]. Những xung đột trong quyền lợi chính trị và quan hệ nhân sinh thể hiện trong vở kịch đã được hóa giải một cách nhẹ nhàng và đầy tính thuyết phục nhờ sự ảnh hưởng của triết học Phật giáo trong tư tưởng và hành động của nhân vật, từ vị nữ hoàng mất ngôi của nhà Lý, nhà vua trẻ tuổi họ Trần phải chứng kiến bao cảnh đau lòng trong hoàng tộc đến ông lão hiền minh trong dân gian. Qua “Rừng trúc”, khán giả có thể hiểu thêm về tinh thần nhân đạo sâu sắc của dân tộc Việt Nam thời Lý- Trần. Với tinh thần đó, triết học Phật giáo không còn là chuyện triết lý cao siêu mà trở nên dung dị, rõ ràng, đầy tính thực tế và cũng đầy nhân ái, khoan dung. “Rừng trúc” không chỉ là một thành công của Nguyễn Đình Thi trong nghệ thuật viết kịch, mà còn là một tác phẩm có giá trị văn chương, giá trị triết học với vẻ đẹp ngôn từ và chiều sâu tư tưởng.
Tài liệu tham khảo
3. Hà Minh Đức, Tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi, http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=482&menu=74
6. Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học, Hà Nội, 1997