Những góc nhìn Văn hoá

Truyền khẩu, biết chữ, và việc văn bản hóa thời Trung đại

Lịch sử văn học không còn hoàn toàn là văn học nữa. Nếu bây giờ chúng ta nhạy cảm với tính liên văn bản, với sự phụ thuộc của các văn bản vào sự hiện diện và ý nghĩa của chúng trên các văn bản khác, chúng ta cũng nhạy cảm với cội nguồn lịch sử của văn chương ngoài khẩu ngữ hóa. Các hình thức nghệ thuật truyền khẩu tài nghệ đi trước và ở từng bộ phận quyết định trước phong cách của các tác phẩm viết cấu thành nên văn chương theo ý nghĩa nghiêm nhặt. Mặc dù viết rút cục là biến trình diễn thành những thể loại hoàn toàn mới mẻ, hơn thế, thậm chí sau khi đã có chữ viết, các hệ thống tư tưởngtruyền khẩu và cách thức biểu hiện vẫn tồn tại trong các tác phẩm văn chương ở mọi nơi, từ cổ đến kim. Trong nhiều thế kỷ, văn học đã chuyển tải một di sản rất nặng nề của cái mà chúng ta gọi là tính truyền khẩu ban sơ, tính truyền khẩu tinh khôi của các nền văn hóa chưa biết đến viết. Di sản này bị thu nhỏ đáng kể/rõ rệt từ thời kỳ Lãng mạn chủ nghĩa trở đi, cho dù nó không bao giờ hoàn toàn biến mất. Do đó, lịch sử văn học phải thể hiện những nhận thức về sự tương tác truyền khẩu – văn tự, quá khứ và hiện đại.

Thời kỳ Trung đại châu Âu, tương tác giữa truyền khẩu và biết chữ có lẽ đã đạt đến một tầm cao của mọi thời đại. Thời Trung đại không có in ấn, mặc dù đã có những chuẩn bị. Trong văn hóa thủ bản Trung đại, sách được đồng hóa một cách tinh tế với phát ngôn miệng nhiều hơn là với thế giới của các đối tượng vật chất trong một nền văn hóa in ấn kỹ thuật cao. (Có lẽ đây là lý do vì sao các nhà giải cấu trúc phân tích văn bản in ấn chứ không phải là văn bản viết tay). Các bản thảo viết tay nói chung được đọc to hoặc sotto voce (thầm)ngay cả khi người ta đọc một mình. Đọc tốc độ tất nhiên là không thể, vậy sao lại không đọc thành tiếng? Đọc thành tiếng giúp độc giả hấp thụ ý nghĩa trọn vẹn (không chỉ là ý nghĩa “trung tâm biểu trưng” (logocentric), “ăn” từ ngữ, như Jousse đã giải thích trong Việc ăn ngôn từ (La Manducation de la parole)[2]. In chữ thời kỳ đầu, ngay cả sắp chữ, ngôn từ, theo những cách thức quan trọng, được điều khiển không chỉ như những đơn vị thị giác mà như những đơn vị âm thanh[3].

Thời văn hóa tiền in ấn, sách viết tay không có các trang tiêu đề, đã tổ hợp về thị giác những ký hiệu là sáng tạo của chữ in[4], và thậm chí chúng thường không có các tiêu đề. Bản thảo viết tay tiền in ấn đã, và vẫn được ghi vào mục lục một cách bình thường bởi incipits (các lời tựa), lời đầu – một diễn ngôn tựa như đối thoại với độc giả: “Ở đây, độc giả thân mến, bạn có một cuốn sách viết do ai đó viết về …”. Những lời tựa này kết thúc bằng một ký hiệu cụt lủn “hoàn”, nhưng thường là lại nói với một ai đó: “Đến đây kết thúc Nghị viện gà/chim (The Parliament of Fowls) diễn ra ngày thánh Valentine, theo lời kể của Geoffrey Chaucer. Tạ ơn Chúa”.

Đúng là bản thảo viết tay rất cồng kềnh khi so sánh với các tác phẩm in ấn sau này – da thú dày hơn và cứng hơn nhiều phần lớn các loại giấy, và với một cây bút lông vũ người ta có thể khó khăn khi sao chép những văn bản dài viết bằng chữ cỡ 10 hoặc nhỏ hơn, cỡ 5, phổ biến trong chữ in. Do đó sách viết tay, với vẻ ngoài tương đối thô ráp, là những đối tượng hay “vật” dễ nhận thấy. Nhưng hai bản sao của cùng một tác phẩm không bao giờ thật giống nhau; chữ viết và khuôn khổ của cùng một tác phẩm khác với mỗi bản sao chép; và ngay cả da thú cũng đa dạng về kết cấu và màu sắc ở từng trang. Bản sắc riêng của một tác phẩm rất ít lộ ra ở vẻ bề ngoài. Tác phẩm là cái được nói đến khi người ta đọc nó, biến nó thành âm thanh trong tưởng tượng hoặc phù hợp hơn với đọc thành tiếng. Nếu một ai đó không thể đọc, thì người đó có thể không bao giờ có thể nói được hai cuốn sách viết tay có giống nhau hay không. Tất nhiên, hai văn bản in ngày nay cũng là cùng một tác phẩm không phải vì chúng giống cái gì mà vì chúng nói gì – hay, chính xác hơn, chúng mang đến cái gì cho độc giả, bởi một văn bản không tự nói bất kỳ điều gì về mình. Tuy nhiên thường là người ta có thể nói, mà không đọc chúng, rằng hàng ngàn cuốn sách in cá lẻ nói cùng một thứ là tác phẩm giống nhau, vì chúng trông giống nhau: trong một lần xuất bản, mỗi bản sách là một bản sao chính xác một bản khác.

Kinh nghiệm này về những cuốn sách cùng in ra một cách tự nhiên, cùng với thói quen đọc thầm thời in ấn sau này của chúng ta sẽ thay đổi một cách tinh vi ý thức của chúng ta về văn bản bằng cách tách nó, mặc dù tất nhiên không bao giờ hoàn toàn, ra khỏi thế giới truyền khẩu, khiến cuốn sách ít giống một phát ngôn hơn và giống “những vật” hiện hình và hữu hình khác nhiều hơn. Sách in hiển nhiên luôn có “mục lục”; chúng được coi như những vật chứa, với các tiêu đề và các trang tiêu đề giống như các nhãn hiệu trên những chiếc hộp. Trong nền văn hóa thủ bản, văn bản là cái gì đó giống tuyên ngôn nhiều hơn. Chaucer kết thúc một số bài thơ của mình bằng một “sứ điệp”, tự gửi văn bản đến một ai đó, giống như một phát ngôn viên. Ông giải thích ông viết Nghị viện gà/chim, vì sau khi ông đọc về Scipio Africanus Major người này hiện về trong mơ trò chuyện với ông và cùng ông làm những cuộc ngao du. Cái cách mà cuộc đối thoại giấc mơ-thị giác này lớn dần lên vượt ra ngoài việc đọc văn bản gợi nhắc rằng người ta có thể cảm nhận những cuốn sách in gần gũi với trao đổi miệng như thế nào. Tác quyền trong một nền văn hóa thủ bản không có bởi họ vắng mặt hầu như rất nhiều so với các tác giả trong văn hóa in ấn. (Do đó, một lần nữa, các nhà giải cấu trúc ít bị hấp dẫn bởi các tác phẩm viết tay).

Thời Trung đại châu Âu thiên về tính truyền khẩu hơn, ở đó văn học của họ phô bày trên mọi phương diện những di sản nặng nề của truyền khẩu ban sơ – thứ vẫn in dấu trên các nền văn hóa thành văn ở khắp nơi. Di sản này hiển hiện trong các hình thức nghệ thuật ngôn từ, qua những vai diễn thường là dữ dội hay nhân vật “anh hùng”, việc phân vai (như vợ Noah trong các vở kịch thần bí) trong phát ngôn công thức hỗ trợ rất nhiều cho tư tưởng trung đại, trong tự sự không chỉ của chuyện kể truyền khẩu mà cả các văn bản viết, trong niềm yêu thích dịch chuyển (được minh họa bởi những cuộc chiến giữa thân xác và linh hồn hay bởi Quạ và Sơn ca[5]), trong thói nghiện khuếch đại vượt khỏi nhu cầu truyền khẩu về copia, về dòng chảy diễn ngôn liên tục (bởi người biểu diễn miệngkhông bao giờ phải do dự về điều này – dù bà ta hay ông ta thực tế có thể dừng lại), và trong nhiều biểu hiện khác nữa.

Ngoài việc chuyển tải một di sản nặng nề của truyền khẩu nguyên thủy, văn học trung cổ cũng hàm chứa tính truyền khẩu hàn lâm. Hiện tượng này được cổ vũ trước hết bởi nghiên cứu hàn lâm về thuật hùng biện thừa hưởng từ cổ đại, nơi mà, với tư cách là nghệ thuật nói trước công chúng, hùng biện đã thành trung tâm giáo dục. Mục đích tối thượng của giáo dục Hy Lạp và La Mã là chuẩn bị cho nhà hùng biện hay người phát ngôn trước công chúng, những người được coi là được đào tạo một cách lý tưởng. Kỹ năng viết học được không phải cho chính họ mà để tạo ra một nhà hùng biện giỏi hơn. Mặc dù trải qua nhiều thế kỷ thuật hùng biện đã lặng lẽ tự điều chỉnh theo viết khi văn hóa chuyển sang dạng văn tự nhiều hơn, thì sâu trong tâm lý trung đại trung tâm, dù thường không được đánh giá đúng mức, hệ hình hàn lâm cho diễn ngôn, bao gồm cả diễn ngôn viết, vẫn là một diễn văn trước công chúng hơn là văn bản. Ở điểm này, các quan hệ truyền khẩu – biết chữ trở nên hơi rắc rối. Các trường đại học trung đại cung cấp một nền giáo dục định hướng văn bản hơn thời cổ đại. Khác với thời cổ đại, các trường này xây dựng các khóa học về bình luận văn bản: theo quy trình chuẩn mực, diễn giảng của Thomas Aquinas với tư cách là cử nhân về lý thuyết, chẳng hạn, là một Bình giảng về các câu của Peter Lombard. Nhưng với toàn bộ tính văn bản của nó, các trường học thời trung đại căn bản là truyền khẩu giống như các trường mà ngày nay không còn nữa. Không có một kỳ khảo hạch viết hay bài luyện viết nào. Toàn bộ việc văn bản hóa trong môi trường này được định hướng tái chế theo cách này hay cách khác để trở lại với thế giới truyền khẩu bằng tranh luận hay các trình diễn miệng khác ở nơi công cộng.

Những hỗn hợp truyền khẩu-biết chữ hàn lâm có thể tác động thậm chí đến người không biết chữ bằng một dạng thẩm thấu văn hóa. Hùng biện như đã nghiên cứu và thực hành bởi những người biết chữ có thể gia tăng các hình thức diễn đạt bằng ngôn từ được truyền thống truyền khẩu ưa chuộng, như những nét ngôn ngữ trau chuốt, điểm xuyết trong văn chương tình yêu hiệp sĩ hoặc những phản đề đăng đối kỹ càng theo phong cách hùng biện Xixêrông[6]. Sự rèn rũa có toan tính và phân tích các công cụ này tạo cho chúng có khả năng thông qua những cuốn sách viết mang tính hùng biện đưa những hình thức này đến hoàn hảo – một sự hoàn hảo vượt lên hẳn một người trình diễn miệng thuần túy, bất kể được rèn rũa theo những cách khác nhau. So sánh những đối sóng chính xác của các cuộc tấn công và phản công chí mạng trong Verrine Orations[7]của Xixêrông hay các phản đề dưới dạng biểu đồ trong Proslogium[8] của thánh Anselm ở Canterbury với các cuộc công kích tương tự trong các bài thơ tụng ca hoàn toàn truyền khẩu châu Phi bằng ghi chép và sao phỏng lại, tuy những bài thơ này có thể là những văn bản viết tay một cách cẩn thận, hoặc bằng tiếng Anh cổ, vẫn bắt nguồn từ trình diễn truyền khẩu mà chúng gần như là những bản sao phỏng lại. Sự thực là Xixêrông không đọc diễn văn của mình mà viết văn bản đó theo những diễn ngôn đã phát ra, nghĩa là sau khi chúng đã hiện diện (theo một kế hoạch cẩn trọng nhưng không đúng kịch bản) trong một cuộc gặp gỡ thực tế giữa nhà hùng biện với công chúng thực sự. Không nghi ngờ gì nữa, Xixêrông có một chút sắp xếp trong các văn bản của mình, vì biên tập lại là một trong những cơ hội lớn do viết mang lại, không như trình diễn miệng. Song tổ chức chặt chẽ mang tính phân tích những hiệu quả theo phong cách truyền khẩu của Xixêrông chỉ có thể có được nhờ trí óc được điều kiện bởi viết ngay cả khi đang ứng khẩu. Tương tự, tác phẩm của Anslem được sáng tác bằng chữ viết, nhưng những lời cầu nguyện và các hô ngữ trong đó căn bản là những diễn văn mini. Tất nhiên, viết có thể tác động đến phong cách ngay cả của những người mù chữ ở một mức độ nhất định nếu họ luôn hướng đến tính truyền khẩu có học của những người nhạy cảm và những hoạt động tinh thần được điều kiện bởi hành vi viết này.

Thiết chế xã hội trung đại cần những tương tác phức tạp và thường là sự cạnh tranh giữa thế giới truyền khẩu và thế giới có văn tự. Nghiên cứu quy mô rộng gần đây của Brian Stock đã cho thấy hiệu quả chủ yếu của những tương tác truyền khẩu-văn tự về triết học và thần học, về tâm lý (đặc biệt là về phân tích cảm nhận trực cảm), về sự phát triển của học thuyết Thiên chúa, về những phong trào cải cách, về các phong trào dị giáo, và về chính trị học thế tục và giáo hội[9]. Michael Clanchy đã chỉ ra việc thực hành pháp lý ở quần đảo Anh đã hòa trộn truyền khẩu và văn học viết như thế nào nhưng lại dựa chủ yếu trên một nền tảng truyền khẩu thế kỷ 14, trong khi Italy đã sớm sáp nhập văn học viết một cách triệt để hơn trong tác phẩm pháp lý bằng việc phát triển một hệ thống công chứng viên giúp cho tài liệu thành văn cạnh tranh được với chứng cứ truyền khẩu có thể thẩm định được[10]. Thiếu một hệ thống như vậy tài liệu thành văn hầu như chủ yếu được tạo bởi cái mà ngày nay chúng ta coi là sự giả mạo chuyên nghiệp. Những bằng chứng miệng (khẩu chứng) có thể không bị lãng quên, và chúng có thể bị đối chất nghiêm túc để tìm ra những xuyên tạc khác. Vì vậy người ta xếp khẩu chứng cao hơn văn bản.

Có lẽ những đặc điểm nổi bật nhất của quan hệ truyền khẩu-thành văn trung đại là những gì gắn với nhà nước Latin trong thế đối diện với các phương ngữ. Vì nhà nước Latin, thời Trung cổ châu Âu có quan hệ đặc biệt với thành văn, và sau đó với truyền khẩu, khác với nhà nước thời cổ đại và hậu trung đại. Thời trung đại Tây Âu được đánh dấu bởi cái có thể được gọi là song ngữ văn hóa: người ta dùng một ngôn ngữ “cao cấp” - tiếng Latin bác học - vào một số mục đích, và các ngôn ngữ “hạ lưu” - các phương ngữ - vì những mục đích khác. So với tiếng Latin, các phương ngữ căn bản là khẩu ngữ, mặc dù một số rất nhỏ phương ngữ trở thành văn tự. Ngược lại, tiếng Latin bác học không chỉ là một ngôn ngữ viết hay ngôn ngữ có văn tự, mà còn là một ngôn ngữ được văn bản hóa.

Văn bản hóa đánh dấu một mật độ đặc biệt trong quan hệ từ ngôn ngữ đến hành vi viết. Mối quan hệ này có thể phát triển theo những giai đoạn khác nhau. Trong vô vàn ngôn ngữ mà con người nói suốt thiên niên kỷ này, hầu hết đã không, hoặc sẽ không có bất kỳ liên hệ nào với văn tự – vì phần lớn những ngôn ngữ đã biến mất đều không được ghi chép lại. Người ta tính toán rằng trong khoảng chừng hàng chục ngàn ngôn ngữ được nói kể từ khi bắt đầu cuộc sống nhân loại, chỉ có khoảng 106 ngôn ngữ từng có văn chương, và trong khoảng 3000 hoặc hơn 3000 ngôn ngữ được nói ngày nay chỉ có chừng 78 ngôn ngữ có văn chương[11].

Mối quan hệ của ngôn ngữ với hành vi viết bắt đầu khi có người chế ra cách biến những từ ngữ của một ngôn ngữ thành chữ viết. Nhưng việc một hệ thống viết được sáng tạo vì một ngôn ngữ đặc biệt không nhất thiết tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào với ngôn ngữ này hay người phát ngôn nó. Khi một nhà ngôn ngữ học ngày nay cần mẫn tạo ra ít nhiều phương thức thỏa đáng để ghi âm một ngôn ngữ không văn tự trước đó, thì chỉ ít người trong những người nói ngôn ngữ đó sẽ học viết nó. Văn tự thể hiện trong những ghi chép ngôn ngữ chứ không ở cuộc sống của người nói ngôn ngữ đó. Thường là những người nói một ngôn ngữ thậm chí hoài nghi khả năng văn tự hóa nó, vì tin rằng chỉ một vài ngôn ngữ nào đó, không có ngôn ngữ của mình, có thể có văn tự. Nhiều ngôn ngữ, hiện nay cũng như trong quá khứ, không bao giờ có đủ người nói đáng để tạo ra hành vi viết. Nếu chỉ có 500 người biết một ngôn ngữ thì họ có thể cố gắng kiểu nào để dạy viết, và họ dùng văn tự để làm gì trên một nền tảng bất kỳ?

Một khi văn tự được tạo ra cho một ngôn ngữ, các giai đoạn khác nhau của việc biết chữ có thể phát triển[12]. Một giai đoạn có thể được gọi là nửa biết chữ hay biết chữ phác thảo (Havelock), biết chữ của một nền văn hóa có văn tự; ở đây văn tự được dùng vì một số mục đích thực hành hạn chế, kinh tế hay hành chính nói chung, nhưng chỉ trực tiếp nhập vào cuộc đời của những nhân viên đặc biệt được gọi là thư lại. Người ta thuê một người sao chép tài liệu giống như thuê một thợ đóng tàu làm một con tàu.

Khi viết trở nên phổ biến hơn, bản thân nền văn hóa đó, với tư cách là một tổng thể hay những bộ phận quan trọng, có thể hoàn toàn trở thành văn bản. Trong những nền văn hóa như vậy viết tạo ra những nguồn mới cho tư duy - sự vĩnh cửu ngôn từ bất tận, “soi chụp lại” bằng những cơ hội ôn cũ[13], bằng phân tích cụ thể sau đó, v.v... Những nguồn lực ấy làm thay đổi quá trình tâm lý của nền văn hóa theo những cách thức có ý nghĩa[14]. Một văn bản rời rạc - không chỉ các danh sách hay ghi chép kinh tế khác nhau, vốn rất phổ biến trong các nền văn hóa sớm có văn tự – trở thành một phần trọn vẹn của các nguồn lực của nền văn hóa này. Người ta có thể sáng tạo qua hành vi viết, không để truyền khẩu độc lập hiện diện trên cùng một phát ngôn viết. Để tồn tại trọn vẹn trong một nền văn hóa như vậy, người ta cần phải biết đọc. Tính truyền khẩu và tính văn bản hiện ảnh hưởng lẫn nhau rất mạnh mẽ trong ngôn ngữ. Ý thức hay vô thức, người nói thường xây dựng phát ngôn của mình theo những hình thức tư duy và biểu đạt đã hiện hữu chỉ vì những cội nguồn do viết mang lại, trong khi lối biểu đạt bằng văn tự tiếp tục tự điều chỉnh cho thích hợp với các biến thể truyền khẩu. Một ngôn ngữ ở giai đoạn này là một ngôn ngữ văn chương. Nhưng nó không hoàn toàn phụ thuộc vào các văn bản. Truyền khẩu có thể vẫn dùng thước đo của văn học viết, hơn là ngược lại: do vậy các văn bản tiếng Anh cổ, do chúng tiếp tục thay đổi theo kiểu truyền khẩu, được viết bằng những văn tự khác nhau: Kenti, Tây Saxon, Mercian, hay Northumbrian, hay bằng ngôn ngữ hòa trộn các phương ngữ này, theo những hình thức khác nhau tùy thuộc vào niên đại – Merican cổ, trung hay cuối – vì các viên thư lại bị thao túng bởi sự phát triển của các khẩu ngữ diễn ra hoàn toàn độc lập với văn bản viết.

Tiếng Latin cổ có thể được xếp vài loại ngôn ngữ văn chương. Văn hóa La Mã cổ hiển nhiên có chữ viết: biết chữ làm cho Đế chế La Mã trở thành hiện hữu[15]. Nhưng tiếng Latin ở thời Trung đại, thứ tiếng mà tôi gọi là tiếng Latin bác học, thuộc về sáng tác hơn hẳn sáng tác của ngôn ngữ văn chương La Mã cổ đại: Tiếng Latin bác học đã là một ngôn ngữ được văn bản hóa trọn vẹn, gắn kết với văn bản trong khi những ngôn ngữ văn chương đơn giản thì không. Giao thiệp giữa truyền khẩu và chữ viết trong tiếng Latin bác học không thật tự do như trong các ngôn ngữ thuần văn chương. Từ khi tiếng Latin dừng lại là một ngôn ngữ bản địa khoảng năm 500-700, không ai nói thứ tiếng này lại học nó như một ngôn ngữ đầu tiên, ngôn ngữ mẹ đẻ, biết nó qua truyền khẩu, gắn với sự trưởng thành đầu tiên của ý thức ngoài sự vô thức của đứa trẻ: những ai biết tiếng Latin đều học nó thông qua dùng chữ viết. Viết, theo cách này hay cách khác, đã kiểm soát mọi công dụng khẩu ngữ của ngôn ngữ này. Chẳng hạn, trong tiếng Latin bác học không còn bất kỳ cuộc chuyện trò con trẻ, cũng không còn những cách nói trẻ thơ: những đứa trẻ 7 tuổi học cách dùng thứ tiếng này, ở mức tốt nhất, theo cách hoàn toàn người lớn.

Tiếng Latin bác học không phải là một tử ngữ, nếu chúng ta coi tử là không có khả năng trưởng thành thêm nữa. Nó lớn lên như cỏ dại, phát triển hàng ngàn hàng ngàn thuật ngữ mới suốt nhiều thế kỷ, và thậm chí một số thành ngữ mới, mặc dù gần như hoàn toàn trì trệ về ngữ pháp[16]. Nó không chết theo nghĩa không ai dùng nó để nói. Suốt nhiều thế kỷ, hàng triệu người (hầu như đều là nam giới) đã dùng nó để nói, lưu loát và thường là say sưa, từ các trường tiểu học đến đại học, ở tòa án, trong giáo hội, giới y học và khoa học – nếu bạn không biết tiếng Latin, không cách nào biết y học, hay vật lý hay toán học cao cấp, không cách nào giải quyết các môn học này bằng ngôn ngữ bản địa, văn bản bản địa, ngôn từ bản địa.

Tuy nhiên tất cả những gì được nói bằng tiếng Latin bác học nhất thiết phải xử lý ngược với văn bản viết của ngôn ngữ này, vì những văn bản này không có sự  độc lập. Không ai biết nói thứ ngôn ngữ này lại không biết viết nó và không học nói bằng viết. Nó là một ngôn ngữ được kiểm soát bằng viết, hoặc, là một ngôn ngữ văn bản hóa, khi chúng ta sử dụng. Việc văn bản hóa có những hệ quả xa tầm với trong nhiều thế kỷ, bên trong và ngoài tiếng Latin bác học: chẳng hạn, tiếng Latin văn bản hóa thiết định các đối tượng của biên soạn từ điển hiện đại sơ kỳ. Khi các ngôn ngữ bản địa trở thành chính mình nhờ sự xuất hiện của những bộ từ điển bản ngữ nở rộ ở thế kỷ 18, các nhà biên soạn từ điển thường có tham vọng nâng cao vị thế của một bản ngữ này hay bản ngữ kia bằng việc biến những bản ngữ này thành ngôn ngữ có văn tự (và tiếp đó là bằng in ấn) – thứ đã tạo nên vị thế của tiếng Latin bác học. Hệ tư duy được văn bản hóa này là nền tảng xa xôi không chỉ của ngôn ngữ học tiền văn tự mà còn là của thái độ với ngôn ngữ đánh dấu những hình thức của giải cấu trúc ngày nay, và giả định một vài lý do giải thích vì sao phân tích giải cấu trúc chuyên chú nhiều đến các văn bản từ thế kỷ 18 đến ngày nay, nghĩa là từ thời kỳ văn bản hóa các dự đồ. Với các nhà Latin học, và những người thừa kế Latin học, văn bản là quan tòa. Thậm chí ngày nay phần lớn các học giả vẫn bằng lòng tham khảo, không cần cân nhắc, việc ngôn từ hóa một người trình diễn miệng thành một ngôn ngữ không văn tự với tư cách “văn bản” của người trình diễn. Tính truyền khẩu được cân nhắc với viết bằng phép loại suy, mặc dù nó là tiền đề cho viết, và mặc dù chỉ số ít các ngôn ngữ từng có văn tự.

Thậm chí chỉ một vài bản ngữ trung cổ có văn tự được cảm nhận có thể là những khẩu ngữ khi đối lập với tiếng Latin. Hơn thế, phần lớn sáng tác thời Trung đại là bằng chữ Latin, và tiếng Latin có quyền ưu tiên đọc, viết. Gọi một ai đó không biết chữ là ngu dốt, không nhất thiết ông ta hay bà ta không biết đọc hay không biết viết mà là không biết tiếng Latin, ngôn ngữ luôn được học bằng đọc và viết[17]. Dốt nát hay ngu tốivụng về hay thô dã, những người vụng về quê mùa giao tiếp bằng một thứ ngôn ngữ hạ đẳng vì không học qua các quy tắc ngữ pháp văn phạm - tức là họ giao tiếp bằng tiếng Latin tầm thường khuôn mình thành một bản ngữ hoặc một bản ngữ khác, phi La Mã. Ngôn ngữ viết đang được hợp thức hóa, và vì tiếng Latin và Hy Lạp chỉ là những ngôn ngữ phương Tây có văn phạm, nên chúng là những ngôn ngữ duy nhất đáng giá. Tiếng Hy Lạp ít được biết đến ở phương Tây, và do đó tiếng Latin trong thực tế là dạng thức tuyệt diệu về ngôn ngữ. Các nhà ái quốc dân tộc chủ nghĩa thế kỷ 16 – nhóm Thất tinh ở Pháp, nhóm Sidney ở Anh – vẫn bị ám ảnh bởi việc tiếng Anh, Pháp và tất cả các bản ngữ là “hạ đẳng”. Văn phạm đầu tiên cho bản ngữ vừa ra đời, và trong Lời tạ lỗi cho Thơ (The Apology for Poetry, viết vào khoảng 1580-84, xuất bản sau khi tác giả qua đời, năm 1595), nhóm Sidney lập nên một công sự khá tuyệt vọng để bảo vệ tiếng Anh trước cáo buộc thiếu văn phạm: ông quả quyết rằng “tiếng Anh có thể có ngữ pháp nhưng nó không cần; rất dễ để là chính nó”[18].

Cái mà chúng ta gọi là song ngữ văn hóa tất nhiên có thể thấy trong những hình thức khác nhau ở những thời điểm khác ngoài Tây Âu thời Trung đại, trong quá khứ và hiện tại. Trong quá khứ, một cái gì đó tương tự song ngữ đã được khai sinh trong những nền văn hóa viết bằng chữ Phạn, chữ Hán, chữ A Rập cổ, và chữ Do Thái (không phải chữ Hy Lạp, nơi mà hình thức thượng lưu, tiếng Anh mới của thành Aten, vẫn giữ mối liên hệ mật thiết một mặt với tiếng Aten cổ cũng “thượng lưu”, mặt khác với phương ngữ Hy Lạp bình dân – tiếng Hy Lạp không bao giờ sinh ra các ngôn ngữ khác như tiếng Latin sinh ra các bản ngữ La Mã). Giống như tiếng Latin, tiếng Phạn, Hán, A Rập cổ và Do Thái cũng đều là những ngôn ngữ được vận hành bằng chữ viết và gần như là đặc quyền của nam giới. Hiện tại tất cả chúng không còn thống trị các nền văn hóa với tư cách là những ngôn ngữ “thượng lưu” nữa, vì ít nhiều đã được bình dân hóa hoặc thực tế không có chức năng về xã hội (tiếng Phạn – được dùng chỉ trên vài những tờ chuyên san hoặc giáo dục chuyên sâu) hoặc chỉ có chức năng rất hạn hẹp (tiếng Latin). Hiện tại, nhiều trường hợp khác của song ngữ văn hóa tồn tại, có lẽ không trường hợp nào ngoạn mục hơn trượng hợp ở Papua New Guinea, với dân số 3.300 000 người nói hơn 700 ngôn ngữ không thể cộng thông[19]. Do vậy, ngôn ngữ “thượng lưu” là tiếng Anh, trong đó cấu trúc văn phạm đã được tạo dựng. Những cố gắng diễn dịch cấu trúc tiếng Anh sang ngôn ngữ này hay ngôn ngữ kia trong các phương ngữ do vậy không thành công: không ngôn ngữ nào trong các ngôn ngữ này có một từ vựng hoặc mã ngôn ngữ tương thích. So vậy tất cả những gì người ta có thể làm là tạo ra trong hai ngôn ngữ lớn nhất, Tok Pisin và Motu, một kiểu cụm các bộ phận của cấu trúc này và những quá trình hợp thức mà nó ít nhiều điều khiển.

Nhưng không một trường hợp nào khác trong số này về song ngữ văn hóa có vẻ có tác động đến tính nguyên vẹn của nhân loại so với tính nguyên vẹn của song ngữ văn hóa trung cổ. Điều này đặt nền móng cho các trường đại học, trước hết là ở châu Âu, rồi cuối cùng là trên khắp thế giới, vì tất cả các trường đại học ở mọi nơi ngày nay, về cấu trúc, đều mang nợ những tiền đề Tây Âu trung đại. Ngôn ngữ “thượng lưu”, tiếng Latin bác học, cung ứng chất nền trước hết cho triết học và khoa học trung cổ, sau đó cho khoa học hiện đại manh nha. Tương thích với thực tiễn chung, Newton nghĩ ra và viết tác phẩm Philosophiae Naturalis Principia mathematica[20] bằng tiếng Latin và xuất bản bằng tiếng Latin năm 1687. Chỉ sau vài lần xuất bản bằng tiếng Latin tác phẩm rốt cục mới được dịch sang tiếng Anh năm 1729. Dường như một ngôn ngữ được văn bản hóa, bằng chữ viết tay như tiếng Latin bác học hỗ trợ rất lớn cho việc tạo nên khoảng cách giữa người quan sát và cái được quan sát, giữa người biết và cái được biết, điều mà khoa học, và đặc biệt là khoa học hiện đại đòi hỏi. Không còn nữa một ngôn ngữ mẹ đẻ, tiếng Latin bác học để lại cho tất cả những người dùng nó sự tự do liên đới phong phú, xúc cảm, vô thức, mà thường là chủ quan một cách rối rắm của một ngôn ngữ học bằng truyền khẩu từ tuổi vị thành niên, nơi mà người biết và cái được biết, chủ thể và khách thể, tạo nên một thể liên tục chỉ có thể bị đứt đoạn dần dần và có lẽ không bao giờ hoàn toàn. Song ngữ văn hóa do tiếng Latin tạo ra đã được nghiên cứu rộng rãi và được minh họa chi tiết bởi Ernst Robert Curtius trong European Literature and the Latin Middle Ages (Văn học châu Âu và thời Trung đại Latin)[21], chứ không ở những triển vọng được gợi nhắc ở đây, những triển vọng cần phát triển nhiều hơn nữa.

Song ngữ văn hóa Latin-bản ngữ không liên quan trực tiếp với mọi vấn đề được giải quyết trong những nghiên cứu ở đây, mà tạo ra một nền tảng rộng lớn và có ý nghĩa cho sự hòa trộn đa dạng truyền khẩu-bản quyền đang được tìm hiểu trong số này của Tạp chí New Literary History và góp phần làm cho nền văn hóa trung đại trở nên rất hấp dẫn. Brian Stock, người đã miêu tả chi tiết trong The Implications of Literacy “những cộng đồng văn bản” đánh dấu thời Trung đại, ở đây xử lý những kết hợp từ nguyên hấp dẫn của bản thân thuật ngữ textus (mà tôi giả định có liên quan đặc biệt về mặt từ nguyên không chỉ với tư liệu thành văn mà cả với trình diễn truyền khẩu, thường được coi là “sự đan dệt” hay “móc nối” – rhapsoidein, để xâu chuỗi bài hát lại theo lối truyền khẩu)[22]. Kho lưu trữ tiếp tục thể hiện trong thế giới Latin văn bản hóa sự phân tách sâu sắc giữa thế giới quan tu từ học và triết học, một sự chia tách liên quan theo nhiều cách với những tương phản truyền khẩu và văn tự.

Franz Bauml làm việc trực tiếp trên ranh giới truyền khẩu-văn tự để chứng tỏ sự hiện diện của những phong cách truyền khẩu khuyết danh, ở đó một số văn bản đòi hỏi bản quyền vì những cội nguồn truyền khẩu của chúng, mặc dù những văn bản khác lại đòi hỏi tác quyền vì chúng dựa trên không chỉ diễn ngôn truyền khẩu mà trên những văn bản khác. Aaron J. Gurevich giải thích tương tác liên tục của truyền thống truyền khẩu và truyền thống văn tự trong những ghi chép quan sát được – một số quan sát có giá trị vì chúng được coi là hình thành từ ghi chép truyền khẩu những kinh nghiệm tai nghe mắt thấy, những quan sát khác là “vì người ta có thể đọc nó trong nhiều quan sát khác”. Paul Zumthor chỉ ra việc trình diễn truyền khẩu trung cổ có thể cách biệt với văn bản hóa bao xa: giọng (không phải là điều giọng nói ra mà là bản thân giọng nói) và cử chỉ chuyển tải ý nghĩa của thơ ca truyền khẩu, và “chức năng của hình thức ngôn ngữ là cách điệu hóa ngôn từ phát ngôn mà không làm nó đứt đoạn”. Trong hệ thống này người ta thấy những nền tảng tích cực cho những gì văn chương có xu hướng chỉ thấy tiêu cực  - chẳng hạn, sự vắng mặt của “tính thống nhất”. Một bài thơ sáng tác theo lối truyền khẩu ít giống một vũ điệu hơn là giống một văn bản. (Do đó, sự bóp méo được ghi dấu trước ngày hôm nay, khi chúng ta vẫn tiếp tục nghĩ đến và viết ra các “văn bản” truyền khẩu).

Jill Mann chỉ ra tài diễn đạt bằng tục ngữ truyền khẩu không ngây ngô cũng chẳng cao thượng như thế nào. Những thành ngữ khuyến khích sự toan tính, chú ý, tư lợi và sự yếm thế ngay cả về tính hiệu quả của bản thân các thành ngữ. Không cần phải nói, một tập hợp bằng văn bản các thành ngữ được dùng để “kết nối tất cả lại với nhau” mang tính phản đề đối với trí tuệ đúc kết trong thành ngữ, thứ quảng cáo rộng rãi cho sự đứt quãng giữa tính hiện thực và giải thích. Mặc dù tác giả không tự coi mình là tiêu điểm thì cũng không gì có thể nói nhiều hơn tiểu luận này để xua đuổi niềm tin rằng “ngôn từ là trung tâm” (logocentrism)[23] gắn với tính truyền khẩu. Các thành ngữ mà bà đề cập tạo nên tính phản ngôn từ trung tâm như bất kỳ nhà giải cấu trúc nào.

Nghiên cứu văn hóa Nga sơ kỳ trung đại với tư cách một hệ thống, I.P. Smirnov kết luận rằng các văn bản trong nền văn hóa này có một chức năng bù đắp, lấp đầy sự thiếu hụt liên kết giữa thế giới tự nhiên xã hội và thế giới khác, thế giới siêu nghiệm. Các văn bản mang những mục đích thực tiễn, phi thẩm mỹ: tôn giáo, tri nhận, điều tiết xã hội, chính trị. Smirnov không so sánh các văn bản và truyền thống truyền khẩu, mà dưới ánh sáng bài viết của Gurievich, người ta cảm nhận rằng trong những phạm trù mà Smirnov quảng cáo, truyền thống truyền khẩu có chức năng tương tự.

Vấn đề luôn luôn sống động như việc đọc trong im lặng được thực hành nhiều đến thế nào ở những thời kỳ trước đây thu hút sự chú ý của Manfred Gunter Scholz. Ông nghiên cứu các khuynh hướng trình bày và tiếp nhận trong các văn bản viết tay của sử thi bằng thơ của Đức cuối thời Trung đại và kết luận rằng đọc bằng miệng, theo một số cách, có thể thường được gắn với tính truyền khẩu hơn là những nhà truyền khẩu thuyết phục nhất có thể hình dung ra. Chiều hướng singen und/oder lessen dường như dẫn đến thậm chí độc giả cá nhân, người được coi là muốn có cơ hội không chỉ đọc mà còn xướng to những khổ thơ cho chính mình nghe.

Việc các văn bản bắt nguồn từ các văn bản trong một nền văn hóa thành văn song song với chuyện kể truyền miệng bắt nguồn từ chuyện kể truyền miệng trong một nền văn hóa truyền khẩu. Nhưng Jesse Byock chỉ ra rằng thế hệ kể chuyện truyền khẩu không phải bao giờ cũng rất đơn giản. Giải pháp cho xung đột là hoạt động chủ đạo đang tiếp diễn ở Iceland thời trung đại, một hoạt động được duy trì giữa một kiểu trật tự hỗn mang nhờ một hệ thống hận thù liên tục. Những hận thù làm xuất hiện và giải quyết những căng thẳng diễn ra bên trên xã hội đó. Trường thiên tiểu thuyết Iceland được lý giải bằng sự chú ý đến giải pháp phi cấu trúc, xung đột bị chia theo hồi thông qua những hận thù kết thúc trong sự hòa giải hay và/hoặc sự nổi loạn tốt hơn là bởi tìm kiếm những cái tương tự hay những ảnh hưởng từ các nguồn tự sự ngoại lai. Tất nhiên có nhiều ảnh hưởng ngoại lai, nhưng chủ yếu các trường thiên tiểu thuyết Iceland và truyền thống mà chúng thể hiện vượt ra khỏi thế giới xã hội Iceland. Bối cảnh hận thù với tôi dường như quảng bá cho một nền tảng truyền khẩu các trường thiên tiểu thuyết: chuyện kể truyền khẩu được kết nối trực tiếp với tính tổng thể của thế giới xã hội hơn là tự sự thành văn trọn vẹn cần đến sự kết nối đó. Văn hóa truyền khẩu gộp hợp lại, và làm cho tính truyền khẩu liên tục hơn với hiện hữu xã hội.

Eric Havelock, người mà mọi quan tâm đến sự tương phản truyền khẩu-văn tự đều mắc nợ ông rất nhiều, phát triển vấn đề này bằng việc xem xét lại trường hợp ranh giới của sân khấu Hy Lạp cổ đại, được sáng tác bằng văn tự mặc dù đến với một công chúng sống qua con đường truyền khẩu. Ông chỉ ra rằng, bất chấp tính văn bản, sân khấu Hy Lạp mang tính truyền khẩu sâu sắc ở những vang hưởng âm thanh - thứ bắt nguồn từ những đòi hỏi ghi nhớ các sáng tác truyền khẩu, và bao gồm những thứ như lời tiên tri và thực hiện nó, hay ra câu đố và giải câu đố, hay tham gia hát thánh ca và suy tư về hành động. Một sự tiết kiệm trừu tượng mang tính truyền khẩu dẫn đến lối mô tả tính cách nhân vật chung trong sân khấu. Chắc là vậy, nhưng tôi vẫn tranh luận về một số ảnh hưởng của văn học viết: dường như Oedipus là một nhân vật nào đó “tròn” hơn Achilles, nội tại hóa hơn, mặc dù còn thua xa những gì mà Freud tự dựng bằng việc dùng một sự nhạy cảm theo khuôn hình tiểu thuyết để thanh lọc sân khấu Hy Lạp.

Một trong những bài học chủ yếu của hội thảo như hội thảo này dường như là phân tích văn bản hôm nay cần thiết ở mọi nơi để tham gia vào việc mô tả những quan hệ đa hình thái của văn bản với tính truyền khẩu, những quan hệ phức tạp, đặc biệt là về mặt lịch đại cũng như đồng đại. Sau hết, phần lớn các ngôn ngữ đã, đang và sẽ không phải bao giờ cũng được văn tự hóa. Chúng đều bắt đầu là khẩu ngữ, và hầu hết vẫn là vậy. Tuy nhiên với tính truyền khẩu mạnh mẽ của nó, văn hóa trung đại đã xoay quanh một ngôn ngữ xa lạ, tiếng Latin bác học, thứ tiếng chủ trương cổ vũ tính truyền khẩu đồng thời cũng được văn bản hóa đến mức dường như không bao giờ là một tongue (giọng) dễ uốn nắn về ngữ pháp và không văn tự hóa được. Hiếm khi tính truyền khẩu và tính văn tự xuất hiện trong sự tương phản cao như vậy.      

 

(Trần Hải Yến dịch từ “Orality, Literacy and Medieval Textualization”, New Literacy History, Autumn 1984. Topic: Oral and written Traditions in Medieval Ages[24]. Đã in trên tạp chí Văn hóa Dân gian, số 2 (140)/2012)


[1]Walter J. Ong (1912-2003): tu sĩ người Mỹ, giáo sư Văn học Anh, sử gia và triết gia văn hóa và tôn giáo. Nhận bằng Cao học tiếng Anh, chứng chỉ thần học và triết học tại Đại học Saint Louis.Năm 1955, tại Đại học Harvard,Ong bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ về nhà logic học, và cải cách giáo dục người Pháp Peter Ramus. 30 năm tiếp đó, Ong giảng dạy tại Đại học Saint Louis.

Các công trình của Walter J. Ong thường tập trung vào những biến thái kỹ thuật của lời và tác động của chúng đến nhận thức nhân loại thông qua điều kiện văn hóa. Ong đã tạo nên một mô hình đa hướng của văn hóa phương Tây từ nền tảng truyền khẩu tiền văn tự xuyên qua sự phát triển của chữ viết alphabet trong truyền thống Do Thái và Hy Lạp đến quá trình phát triển in ấn Gutenberg cũng như những phát triển gần đây của phương tiện truyền thông thiên về âm thanh. Nổi tiếng nhất trong số các công trình nghiên cứu của Ong là Orality and Literacy: The Technologizing of the Word [Truyền khẩu và biết chữ: kỹ thuật hóa lời] (1982). (T.H.Y.)  

 

[2]. Marcel Jousse. La Manducation de la parole (Paris. 1975).

[3]. Walter J. Ong. Orality and Literacy: The Technologizing of the Word (London and New York. 1982). 120-21.

[4]S.H. Steinberg. Five Hundred Years of Printing [Năm trăm năm in ấn]. 3.rd ed (Harmondsworth.1974). 145-46.

[5]The Owl and the Nightingale là bài thơ Anh xuất hiện vào khoảng thế kỷ 12 hoặc 13, kể về cuộc tranh biện giữa quạ và chim sơn ca. Do khuyết danh và do đề tài của tác phẩm này rất rộng (từ tôn giáo, hôn nhân, ca hát đến những chuyện vệ sinh..) nên nó không ngừng tạo nên những diễn giải khác nhau (T.H.Y).

[6]Tức Marcus Tullius Cicero (3.01.106 tr.CN – 07.12.43 tr.CN): một trong những triết gia, chính khách, luật gia, lý thuyết chính trị gia La Mã, người theo thuyết hợp hiến. Ông được coi là một nhà hùng biến vĩ đại nhất của thành Rom.

[7]Verrine Orations:tác phẩm của Cicero, gồm hai phần: Chống lại Caecilius, và Chống lại Verres(T.H.Y).

[8]Proslogium [Bàn về sự hiện hữu của Chúa/Thượng đế]: viết trong khoảng 1077-1078. Anslem viết tác phẩm này không nhằm thuyết phục những người phi Cơ đốc giáo tin theo đạo Cơ đốc mà  nhằm tìm kiếm cơ sở hữu lý cho niềm tin của mình – một tín đồ Cơ đốc giáo(T.H.Y).

[9]. Brian Stock. The Implications of Literacy: Written Language and Models of Interpretation in the Eleventh and Twelth Centuries [Hàm nghĩa biết chữ: Viết, ngôn ngữ và các mô hình diễn giảithế kỷ 11-12] (Princeton. 1983).

[10].  M.T. Clanchy. From Memory to Written Record: England 1066-1307 [Từ ký ức đến ghi chép thành văn: Nước Anh 1066-1307] (Cambridge. Mass. 1979).

[11]. Munro S. Edmonson. Lore: An Introduction to the Science of Folklore and Literature [Tri thức: dẫn nhập vào khoa học folklore và văn chương] (New York. 1971). 323, 332.

[12]. Jack Goody and Ian Watt. “The Consequences of Literacy”. Literature in Traditional Societies [Hệ quả của biết chữ. Văn chương trong các xã hội cổ truyền]. Jack Goody biên soạn (Cambridge. 1968); Jack Goody, The Domestication of the Savage Mind [Sự thuần hóa tinh thần hoang dã](Cambridge. 1977).   

[13].Goody and Watt. “Consequences”. 49-50.

[14]. Ong. Orality and Literary. 78-116

[15]. William M. Ivins, Jr. Prints and Visual Communication [Chữ in và truyền thông thị giác] (Cambridge Mass. 1953)

[16]. Stock. The Implications of Literacy. 21.  

[17]. Stock. 27, 68, 166, 235.

[18]. Sir Philip Sidney. An Apology for Poetry [Tạ lỗi cho thơ]. Geoffrey Shepherd biên soạn (London. 1965). 140.

[19]. Paul W. Brennan. “Issues of Language and Law in Papua New Guinea” [Những vấn đề của ngôn ngữ và Luật pháp ở Papua New Guinea]. Language Planning Newletter. 9, N0 2(1983). 1-7.   

[20]  Philosophiae Naturalis Principia mathematica [Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên].

[21]. Ernst Robert Curtius. European Literature and the Latin Middle Ages [Văn học châu Âu và thời trung cố Latin]. Bản dịch của Willard R. Trask, Bollingen Series. 36. 1948. rpt. New York. 1953.

[22]. Ong. Orality and Literacy. 113-14.

[23]Logocentrism là thuật ngữ chỉ một phương pháp phân tích theo kiểu cấu trúc chủ nghĩa dành riêng cho các tác phẩm văn chương, tập trung vào từ, ngữ mà không quan tâm đến các vấn đề phi ngôn ngữ, như  tính cách tác giả hay hoàn cảnh lịch sử. [T.H.Y.]  

[24]Số tạp chí này gồm các bài: “Oratality, Literacy, and Medieval Textualization” của Walter L. Ong, “Medieval Literacy, Linguistic Theory, and Social Organization” (Biết chữ thời Trung cố, Lý thuyết ngôn ngữ và tổ chức xã hội) của Brian Stock, “Medieval Texts and the Two Theories of Oral-Formulaic Composition: A Proposal for a Third Theory” (Văn bản Trung cố và hai lý thuyết về kết cấu hình thức truyền khẩu: đề xuất lý thuyết thứ ba) của Franz H. Bauml, “Oral and Written Culture of the Middge Ages”: Two “Peasant Visions” of the Late Twelfth-Early Thirteenth Centuries” (Văn hóa truyền khẩu và thành văn thời Trung cổ: hai “quan niệm nông dân” cuối thế kỷ 12-đầu thế kỷ 13) của Aaron J. Gurevich, “The Text and the Voice” (Văn bản và giọng) của Paul Zumthor, Marilyn C. Engelhardt, “Proverbial Wisdom in the Ysengrimus” (Trí khôn tục ngữ trong Ysengrimus) của Jill Mann, “In the Systematic-Diachronic Approach to Medieval Russian Culture of the Early Period” (Tiếp cận hệ thống-lịch đại văn hóa Nga sơ kỳ Trung cổ) của Igor P. Smirnov, và “On Presentation and Reception Guidelines in the German Strophic Epic of the Late Middle Ages” (Về việc thể hiện và tiếp nhận những nguyên tắc dẫn đạo trong sử thi Đức hậu kỳ Trung cổ) của Manfred Gunter Scholz, Rebecca Williams Duplantier, Crozet Duplantier Jr. (T.H.Y. )    

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577022

Hôm nay

2221

Hôm qua

2299

Tuần này

2221

Tháng này

224079

Tháng qua

130677

Tất cả

114577022