Góc nhìn văn hóa

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta khẳng định “nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Trong đó nhấn mạnh vấn đề nguồn lực tinh thần, tức các giá trị văn hóa truyền thống được kết tinh, phản ánh trong di sản văn hóa. Theo đó, chúng ta có thể nhận thấy vai trò to lớn của di sản văn hóa và việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá trong quá trình phát triển đất nước hiện nay.

 

Di sản Nghệ thuật Xòe Thái của Việt Nam được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2021. Nguồn ảnh: Báo Thanh niên

 

Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa thời gian qua

Trong những năm qua, công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa được triển khai ở nước ta với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau. Vốn đầu tư để tôn tạo, trùng tu các di tích này được lấy từ nhiều nguồn khác nhau như ngân sách Nhà nước, xã hội hóa... Những thành tựu đạt được đã góp phần không nhỏ trong việc giáo dục cho thế hệ trẻ về bản sắc văn hóa dân tộc, về tính cố kết cộng đồng của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Thông qua công tác sưu tầm, trưng bày, hệ thống các bảo tàng đã khẳng định được vị thế của mình trong toàn bộ hệ thống thiết chế văn hóa nói chung, đồng thời giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức giữ gìn, tự hào và tôn vinh bản sắc văn hóa của dân tộc, đáp ứng nhu cầu và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của quần chúng nhân dân. Việc Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trong mấy chục năm qua đã tích lũy được một khối lượng dữ liệu đồ sộ, đặc biệt là đã từng bước khôi phục, phục dựng được nhiều lễ hội, phong tục tập quán có nguy cơ mai một của 54 dân tộc Việt Nam. Đây là điều rất đáng ghi nhận trong thời gian qua.

Đến nay, Việt Nam đã có khá nhiều di sản văn hóa phi vật thể (DS VHPVT) được UNESCO ghi danh là DSVHPVT đại diện của nhân loại và cần thiết được bảo vệ khẩn cấp: Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Việt Nam (2003); Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (2005);…; Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ (2012); Dân ca Ví, Giặm (2014), Nghệ thuật Xòe Thái (2021),... DSVHPVT chủ yếu được lưu truyền cho đời sau bằng hình thức truyền khẩu, vì vậy, nghệ nhân dân gian - chủ thể nắm giữ DSVH - có một vai trò quan trọng trong sự hồi sinh, phát triển của loại hình văn hóa này. Vai trò của nghệ nhân dân gian còn được UNESCO gọi là “báu vật nhân văn sống” cũng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Việc tư liệu hóa, phục dựng và lập hồ sơ cấp quốc gia, chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân dân gian trong lĩnh vực di sản VHPVT đã tác động không nhỏ vào quá trình nhận thức của những người làm công tác bảo vệ DSVH cũng như chủ nhân đích thực của DSVH, góp phần chuyển hóa về mặt nhận thức, tạo được sự trân trọng của cộng đồng đối với di sản văn hóa, tạo ra nhu cầu hưởng thụ chính những DSVH đó. Hơn nữa, những DSVHPVT đã mang lại nền tảng vững chắc về mặt tinh thần cho chính những người dân bản địa, làm cho họ tin tưởng vào Nhà nước, tin tưởng những gì thuộc về đời sống tinh thần của họ được Nhà nước bảo vệ. Điều này là vô cùng cần thiết và quan trọng trong chiến lược an ninh quốc gia.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH cũng đã bộc lộ nhiều mặt hạn chế và mặt trái cần khắc phục: Một là, người dân chưa tự chủ động bảo vệ di sản của chính họ mà có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào những chương trình bảo tồn của Nhà nước. Chưa có chế độ hỗ trợ xứng đáng đối với những người bảo vệ DSVH (chủ nhân của nền văn hóa), chưa tạo cơ hội nghề nghiệp cho chủ nhân của DSVH, việc kết nối DSVH với du lịch để tạo thành động lực cho sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho người dân thiếu bền vững… Hai là, công tác đầu tư, tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử và cách mạng, di tích kiến trúc nghệ thuật và danh thắng chưa thật sự hiệu quả, công tác sưu tầm các DSVHPVT còn nhiều khó khăn. Các nhà quản lý chưa có cái nhìn toàn diện về văn hóa 54 tộc người trên bình diện tổng thể cũng như chi tiết. Do vậy, để tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu phát triển văn hóa trong thời gian tới, chúng ta cần phải nhìn nhận, đánh giá lại chương trình mục tiêu, cần có những giải pháp, hoạch định đối với từng địa phương cụ thể, nghiên cứu lại cách thức quản lý và thực hiện chương trình, giao nhiệm vụ cho các đơn vị/cơ quan đúng với chức năng, nhiệm vụ, phân bổ nguồn kinh phí hợp lý. Đặc biệt là nguồn dữ liệu của chương trình này cần được lưu trữ có tính hệ thống, đồng bộ, tránh chồng chéo, nhằm khai thác hợp lý nguồn tài nguyên số - tài sản vô giá của quốc gia.

Giải pháp cơ bản để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa hiện nay

 Phát triển kinh tế song hành với bảo tồn di sản văn hóa

Thực tiễn hoạt động quản lý văn hóa nói chung và công tác bảo tồn DSVH nói riêng cho thấy phát triển kinh tế chưa đồng bộ với bảo tồn và phát triển văn hóa dẫn đến nhiều hệ lụy về xã hội. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phát triển kinh tế không bền vững. Nhưng mặt khác, văn hóa cũng có tính độc lập tương đối của nó và chúng ta sẽ nhìn thấy rất rõ khi nghiên cứu văn hóa các dân tộc thiểu số. Trước tiên, chúng ta phải khẳng định rằng, đời sống vật chất được bảo đảm thì đời sống tinh thần mới phong phú và đa dạng. Muốn phát triển văn hóa thì đời sống vật chất của đồng bào phải được nâng lên, khắc phục được tình trạng đói nghèo, thu hẹp khoảng cách về mức sống, trình độ phát triển kinh tế... Bởi vậy, cần phải giải quyết tốt những vấn đề về kinh tế như sau: tổ chức tốt công tác định canh định cư; thực hiện tốt chương trình xóa đói, giảm nghèo; chuyển dịch cơ cấu cây trồng; coi trọng phát triển hàng hóa, phát triển các dịch vụ, du lịch...

 

Người Mông ở Mường Lống, Nghệ An tập trung thêu may ở điểm du lịch cộng đồng. Ảnh: Bùi Hào

Muốn thực hiện tốt các vấn đề trên, trước hết cần phải thực hiện tốt chương trình bảo tồn DSVHPVT, như: Chương trình phát triển và chế biến dược liệu, tái cơ cấu nông nghiệp gắn với phát triển nông thôn mới; Chương trình phát triển du lịch phải song hành với công tác bảo tồn tri thức dân gian (bài thuốc dân gian, nghề trồng cây thuốc nam, nghề trồng rừng), các loại hình DSVH như văn hóa ẩm thực, nghề thủ công truyền thống, diễn xướng dân gian, lễ hội dân gian...; Công tác bảo tồn DSVH phải gắn với quảng bá hình ảnh di sản nhằm mục tiêu phát triển du lịch để phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương cụ thể. Ví dụ như: Khôi phục, nâng cấp công nghệ các ngành nghề thủ công truyền thống, mang tính văn hóa của các vùng dân tộc trong tỉnh: dệt lanh, thổ cẩm, may quần áo dân tộc, mây tre đan, trồng và chế biến chè, sản xuất vật liệu xây dựng, rèn, đúc lưỡi cày, cuốc... Tiếp tục đầu tư dạy nghề, phát triển các nghề sản xuất thủ công nghiệp, sử dụng các nguồn nguyên liệu địa phương, tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Hình thành các hiệp hội nghề thủ công nghiệp tạo điều kiện để mở rộng liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, phát triển thị trường, nâng cao quy mô và giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ...

Coi trọng phát triển nguồn nhân lực

Qua các kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta rất coi trọng và xác định phát triển nguồn nhân lực là một khâu đột phá chiến lược để bảo đảm quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đây là một nhiệm vụ cơ bản và cấp bách cần được quan tâm thực hiện ở nhiều cấp, ngành khác nhau. Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng di sản văn hóa phi vật thể bị mai một là do nghệ nhân dân gian ở địa phương quá ít và đã cao tuổi, đồng thời lớp kế tục lại không quan tâm nhiều đến văn hóa. Chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với nghệ nhân chưa được quan tâm đúng mức nên không thu hút được nhân tài truyền dạy phong tục tập quán, tri thức dân gian cũng như giá trị của DSVHPVT cho thế hệ kế tiếp. Vì thế, muốn bảo tồn và phát huy các DSVH thì trước hết phải quan tâm đến nghệ nhân, bởi họ chính là những nhân tố quan trọng trong việc lưu giữ và bảo tồn di sản. Theo đó, cần chú trọng xây dựng các câu lạc bộ, đội văn nghệ tại địa phương; tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng của xã, phường và tỉnh, thành phố về những tấm gương nghệ nhân điển hình trong việc gìn giữ, lưu truyền giá trị di sản văn hóa; có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với nghệ nhân dân gian nhằm khích lệ tinh thần của người dân trong việc gìn giữ những giá trị DSVHPVT.

Đồng bào Khơ Mú ở Nghệ An được tập huấn về bảo tồn - truyền dạy văn hóa phi vật thể về dân ca, dân vũ, dân nhạc. Ảnh: Bùi Hào

Mặt khác, việc truyền dạy thế hệ trẻ kế tục thực hành các loại hình di sản cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Ngoài phát huy phương thức bảo tồn DSVH truyền thống thông qua sinh hoạt gia đình, dòng họ, cộng đồng, chúng ta cần phải mở các lớp truyền dạy, đào tạo những nhân tố nòng cốt về quản lý DSVH ở từng địa phương với những kế hoạch cụ thể.

Tập trung phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Đầu tư xây dựng hệ thống trường học để bảo đảm con em các dân tộc thiểu số có cơ hội học tập, xóa mù, chống tái mù chữ.

Cần thiết phải tăng chỉ tiêu ưu tiên xét tuyển hệ cử tuyển cho con em là người dân tộc, vùng sâu, vùng xa học các ngành quản lý văn hóa, DSVH tại các trường cao đẳng, đại học.

Xây dựng các nội dung giáo dục về DSVH các dân tộc thiểu số vào chương trình dạy học ở bậc trung học cơ sở, phổ thông trung học và các trường nội trú của tỉnh. Nội dung giáo dục bao gồm: quá trình hình thành và phát triển các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh; một số đặc điểm tâm, sinh lý tộc người; văn học dân gian các dân tộc; sinh hoạt văn hóa cổ truyền tiêu biểu; vốn tri thức dân gian của các dân tộc...

Đẩy mạnh việc hướng nghiệp dạy nghề ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là trong các trường phổ thông dân tộc nội trú với tỷ lệ ngành nghề phù hợp với thực tế cuộc sống. Từ đó, chúng ta có thể định hướng các em vào các ngành phục vụ phát triển kinh tế ở địa phương, trong đó chú ý các lĩnh vực liên quan tới việc bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống. Để làm tốt công việc này, những nhà quản lý giáo dục, quản lý văn hóa phải căn cứ vào tình hình thực tế của từng dân tộc mà đưa ra những biện pháp khác nhau như: phương pháp truyền nghề, dạy học, lựa chọn đối tượng, nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý của từng tộc người, vai trò của cộng đồng... và xây dựng kế hoạch chi tiết trong từng giai đoạn cụ thể 5 năm, 10 năm và 15 năm.

Phát triển nguồn nhân lực cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH còn phải chú trọng đến việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với các cán bộ đang làm công tác quản lý văn hóa từ cấp xã/phường đến tỉnh, thành phố. Đặc biệt là cần quan tâm cán bộ là người dân tộc thiểu, từ tuyển dụng, sử dụng đến quy hoạch, bổ nhiệm,…

Bảo tồn và phát huy DSVHPVT phải đáp ứng nhu cầu về văn hóa tâm linh của chủ thể văn hóa

Thực tế cho thấy, ở địa phương nào làm tốt công tác bảo tồn DSVH, đáp ứng được nhu cầu về đời sống văn hóa tâm linh của đồng bào thì địa phương đó kinh tế, xã hội phát triển, an ninh - quốc phòng cũng được đảm bảo. Bởi vậy, cần phải quan tâm những vấn đề như sau: Nâng cao nhận thức của người dân về ý thức bảo tồn và phát huy DSVHPVT, tạo ra sức đề kháng chống lại sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai; Củng cố niềm tin, niềm tự hào dân tộc về bản sắc văn hóa tộc người; Vận động những người cao tuổi thường xuyên nhắc nhở, khích lệ con cháu mình tham gia giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm các giá trị DSVHPVT theo chương trình, kế hoạch dài hạn. Đặc biệt lưu ý đến các dân tộc thiểu số có dân số dưới 10.000 người. Việc tổ chức lễ hội, phục dựng các loại hình DSVH có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc, góp phần làm cho diện mạo của đời sống văn hóa tộc người thêm phong phú, đa dạng và đây sẽ là nguồn động lực quan trọng của đồng bào các dân tộc trong đời sống đương đại.

Kinh phí bảo tồn DSVHPVT giai đoạn trước chủ yếu được cấp từ nguồn ngân sách nhà nước. Do vậy, sang giai đoạn này, chúng ta cần phải tận dụng kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau cho bảo tồn DSVHPVT, như: có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, doanh nhân đầu tư tài chính cho việc tổ chức các lễ hội truyền thống để quảng bá hình ảnh DSVH, đồng thời quảng bá hình ảnh cho chính doanh nghiệp, góp phần xúc tiến thương mại, du lịch ... Huy động sức dân cho việc tổ chức phục dựng, bảo tồn DSVH...

Trong thời gian tới, để bảo tồn và phát huy các giá trị DSVHPVT tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, các nhà quản lý văn hóa phải rà soát các văn bản quản lý nhà nước để xây dựng, bổ sung chính sách và có biện pháp đầu tư cụ thể phù hợp với đời sống tâm linh, tín ngưỡng của đồng bào 54 dân tộc, phải tính đến đặc thù vùng, miền. Cần có thái độ cởi mở hơn với các hình thức văn hóa tín ngưỡng dân gian như then, mo, tào, pựt, thầy cúng... Phát huy các mặt tích cực của những người hành nghề tín ngưỡng dân gian nhưng đồng thời vẫn phải bài trừ các hủ tục lạc hậu. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo tồn DSVH bằng cách vận động các tổ chức, cá nhân tại địa phương hỗ trợ kinh phí, phương tiện, sức lao động, lồng ghép các chương trình trong xây dựng nông thôn mới cho các hoạt động bảo tồn DSVH./.

 

(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số 19 - Tháng 12/2025)

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114651298

Hôm nay

247

Hôm qua

2444

Tuần này

23421

Tháng này

228084

Tháng qua

134162

Tất cả

114651298