Góc nhìn văn hóa
Theo chân Bác (Ấn tượng đọc Nước non vạn dặm, Bộ tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, 5 tập, Nxb Văn học 2002-2005)

“Hồ Chí Minh - Tên Người là cả một niềm thơ”
Hồ Chí Minh - nguồn cảm hứng sáng tác vô tận của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại hiển nhiên như chân lý. Hồ Chí Minh - Tên Người là cả một niềm thơ là nhan đề thi phẩm của nhà thơ Cu Ba Phêlích Rôđrighết, một trong những áng văn thơ hay nhất của các nhà văn thế giới viết về Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, Người đi tìm hình của Nước (1960) của Chế Lan Viên, là một trong những bài thơ hay nhất viết về Bác Hồ kính yêu: “Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi/Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác/Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất/Bốn phía nhìn không rõ một hàng tre/Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ/Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương/Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở/Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương”. Có thể nói, Tố Hữu là thi sĩ viết nhiều bài thơ hay nhất về Lãnh tụ: Hồ Chí Minh (1945), Sáng tháng năm (1951), Bác ơi! (1969), Theo chân Bác (thơ dài, 1971), Thăm Bác, chiều đông (1996). Trong lĩnh vực văn xuôi sớm nhất và thành công nhất là Búp sen xanh (tiểu thuyết, 1982) của Sơn Tùng. Tiếp theo là các tiểu thuyết Cha và con (2007) của Hồ Phương, bộ ba Trông vời cố quốc, Mặt trời Pác Bó, Giải phóng (2010, 2013, 2018) của Hoàng Quảng Uyên, Gió bụi đầy trời (2021) của Thiên Sơn, Nước non vạn dặm (5 tập, 2022-2025) của Nguyễn Thế Kỷ.
Trong chương trình Quốc gia “Nghiên cứu, tổng hợp, công bố các tác phẩm văn học vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, tiến tới kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và 100 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (Quyết định 69/QĐ -TTg, ngày 9-2-2023, theo Vanvn.vn, 13/2/2023), chắc chắn hiện diện những tác phẩm thuộc “của để dành”, có giá trị văn hóa lớn lao viết về Lãnh tụ Hồ Chí Minh, trong đó có tiểu thuyết trường thiên của Nguyễn Thế Kỷ. Đề tài này có tính mở, không hề dễ nhưng thực sự hấp dẫn nhiều thế hệ nhà văn, hành động viết đã thể hiện động hướng tinh thần sáng tác “ôn cố tri tân”.
Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ
Nước non vạn dặm là bộ tiểu thuyết có tính chất hoành tráng (panorama) về nhân vật Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, gối kề Nợ nước non (tập 1), Lênh đênh bốn biển (tập 2), Từ Việt Bắc về Hà Nội (tập 3), Đường lên Điện Biên (tập 4), Việt Nam - Hồ Chí Minh (tập 5). Trong đó, nhân vật Hồ Chí Minh với tư cách Lãnh tụ cách mạng và với tư cách một CON NGƯỜI đã được tái hiện cân đối, hài hòa để độc giả các thế hệ nhận biết sâu sắc quan hệ giữa cái bình thường và cái vĩ đại của một con người thuộc bậc “đại nhân - đại trí - đại dũng”. Một tác phẩm, sẽ là đại diện cho thể loại tiểu thuyết viết về một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Một lần nữa, bằng thực tiễn sáng tác, nhà văn khẳng định sự trở lại ngoạn mục của đề tài truyền thống (lịch sử, cách mạng, chiến tranh) trên văn đàn Việt Nam đương đại góp phần tôn vinh văn hóa dân tộc. Điều này cho thấy sự cần thiết của tinh thần “ôn cố tri tân”. Quan trọng hơn, trong bối cảnh văn hóa được đặt đúng vị trí “Văn hóa còn thì dân tộc còn”, Văn hóa Đảng đang trở thành đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội và nhân văn hiện nay. Lãnh tụ Hồ Chí Minh là một đề tài vô tận của văn học nghệ thuật, biểu trưng cho Văn hóa Đảng. Tiểu thuyết Nước non vạn dặm của Nguyễn Thế Kỷ có tiếng vang trên văn đàn Việt Nam những năm gần đây. Phát huy tinh thần sáng tác thành công về Lãnh tụ Hồ Chí Minh, với một sức lao động nghệ thuật đáng khâm phục, nhà văn đã tặng người đọc “thiên” thứ tư Đường lên Điện Biên và “thiên” thứ năm Việt Nam - Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 50 năm miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (1975-2025). Tác phẩm được viết theo cảm hứng sử thi - lãng mạn truyền thống như là một bức tranh hoành tráng, đong đầy âm hưởng sử thi và chan chứa chất lãng mạn - trữ tình - tâm lý về một CON NGƯỜI VIỆT NAM VIẾT HOA, nhân vật văn học điển hình có tên NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH, trong quãng đời từ thiếu thời (tên Nguyễn Sinh Cung) đến 1969. Bảy mươi chín năm, với lịch sử một dân tộc không phải là dài. Nhưng với lịch sử một con người thì quá đầy đủ tầm kích của cái kỳ vĩ, cái trác tuyệt, cái đẹp, cái anh hùng, thực sự cần thiết trở thành đối tượng trung tâm của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện nay.
Mang theo “Nợ nước non” (nội dung tập 1) anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đã nuôi cao vọng tìm đường cứu nước như là khởi nguồn cuộc trường chinh mười ngàn ngày của một thanh niên dấn thân vì lý tưởng giải phóng dân tộc cao đẹp. Vào những năm đầu của của hế kỷ XX, nhiều phong trào yêu nước sôi nổi, mạnh mẽ bùng lên. Nhưng cuối cùng không đạt được mục đích chính nghĩa. Có thể do đường lối và phương pháp tiến hành không phù hợp (cầu viện ngoại bang, bất bạo động). Lịch sử thường anh minh khi “chọn mặt gửi vàng”. Ngày 5/6/1911, tại Thương cảng Nhà Rồng, Sài Gòn (tên chính thức hiện nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, trong tên gọi mới Văn Ba, xuống con tàu mang tên Amiral Latouche Tresville, làm chân phụ bếp, với mong muốn đến thẳng nước Pháp, dẫu: “Phía trước là những gì anh chưa biết, chỉ là những nung nấu, đoán định và dự cảm. Đích đến gần nhất là nước Pháp, là hình bóng của cuộc cách mạng Pháp hơn một trăm hai mươi năm về trước. Đâu là một nước Pháp phát triển, văn minh và đâu là một nước Pháp thực dân, tàn bạo. Tại sao? Tại sao?” (kết thúc tập 1- Nợ nước non). Những người có hoài bão, lý tưởng, khát vọng lớn (cao vọng) đều chật căng, thường trực trong óc những câu hỏi lớn “Tại sao?”. Khoa học và nghệ thuật chân chính từ xưa tới nay cũng đều khởi nguyên từ câu hỏi lớn “Tại sao?”.
Lênh đênh bốn biển (tập 2) tái hiện quãng thời gian mười ngàn ngày (30 năm) của chàng trai Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc ra đi với hai bàn tay trắng tìm đường cứu nước, trải qua bao trùng sóng gió nguy nan (đói rét, bệnh tật, truy nã, bắt bớ, ẩn mình, xê dịch...), để sau đó trở về Đất Mẹ cùng đồng chí, đồng bào tận hiến cho sự ngiệp chính nghĩa, thiêng liêng - giành độc lập tự do cho giang sơn đất nước. Mỗi chương như là một cột mốc ghi dấu cuộc trường chinh vĩ đại của một người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (sau này là Nguyễn Ái Quốc). Với phép viết “tỉnh lược” (độ đồn nén tối đa câu chữ, biến cố, sự kiện, tình tiết, chi tiết... nên sách chỉ có độ dài khiêm tốn với 222 trang in), tiểu thuyết Lênh đênh bốn biển đã cống hiến cho người đọc một thiên sử thi về “thời đại anh hùng cần một nền nghệ thuật anh hùng”, bởi vì “thời thế tạo anh hùng”, lại cũng có thể “anh hùng tạo thời thế”.
Tìm thấy ánh sáng Lê-nin là biến cố lớn nhất trong ba mươi năm bôn ba hải ngoại, lênh đênh bốn biển, tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Nhà tiểu thuyết có kinh nghiệm sẽ biết “chộp” lấy, nắm bắt được biến cố trong vô số biến cố, có ý nghĩa bước ngoặt, tại đó số phận nhân vật sẽ được biểu đạt trong tính điển hình của nó. Nói cách khác đó là những điểm độc sáng trong một đời người mà nhà tiểu thuyết cần thiết “chốt” lại, để tô đậm, nhấn mạnh ý nghĩa của một đoạn đời trong đường đời của một vĩ nhân - Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí Minh, Lãnh tụ của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam thời hiện đại. Trong chuỗi biến cố quan trọng của ba thập niên bôn ba, vượt khó, tìm đường cứu nước nổi bật trường đoạn Nguyễn Ái Quốc bắt gặp ánh sáng của Luận cương Lê - nin (về vấn đề dân tộc và thuộc địa), là quan trọng nhất. Bắt đầu từ chương 5 (thời gian: ngày 16-7-1920), Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiếp xúc với Luận cương Lê - nin (được Lãnh tụ của giai cấp Vô sản thế giới viết từ 4 -1917). Đọc xong bản Luận cương khai sáng, Nguyễn Ái Quốc đã: “Anh bật khóc. Một nỗi nghẹn ngào không thể nào giải thích nổi ùa đến, bao trùm, tràn ngập tâm hồn anh.
- Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Anh run rẩy cất lời một mình trong căn phòng nhỏ chật chội nhiều sách vở. Bên ngoài cửa sổ nhỏ là vòm cây sáng óng ánh bởi nắng đã ngả sang chiều. Mùa hè nước Pháp chưa bao giờ đẹp đến thế”.
Từ Việt Bắc về Hà Nội (tập 3) tái hiện một thời kỳ lịch sử đáng ghi nhớ trong cuộc đời cách mạng của Lãnh tụ: từ năm 1941, khi Người trở về cố quốc sau 30 năm lênh đênh bốn biển, tìm đường cứu nước đến thời điểm Người cùng các đồng chí của mình trở về Hà Nội. Khoảng thời gian năm năm (1941-1945) được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam hiện đại là những năm tháng vô cùng khó khăn và có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam. Trang đầu của tiểu thuyết là cảnh “Pác Bó, mùa xuân năm 1941”, và cảnh cuối tác phẩm “ Hồ Chủ tịch đứng đó và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập”. Lịch sử ghi sự kiện trung thành. Văn học ghi lại lịch sử tâm hồn của con người “Cái ngày mùa thu tuyệt đẹp đó sẽ mãi mãi rực sáng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, một dân tộc kiên cường vùng lên từ nô lệ, áp bức, khổ đau. Sau ngày lễ Độc Lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời bắt tay vào hàng loạt những nhiệm vụ mới ”.
Đường lên Điên Biên (tập 4), tái hiện bối cảnh lịch sử xã hội khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa những ngày dầu thành lập, tiếp theo là cuộc kháng chiến chín năm trường kỳ gian khổ, hy sinh đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa câu”, “Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” (Tố Hữu). Nổi bật trên nền cảnh sử thi hoành tráng ấy là hình ảnh vị Lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh - người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bão tố tiến đến bến bờ thắng lợi vinh quang. Điện Biên Phủ là bài học thấm thía về sức mạnh của chiến tranh nhân dân “toàn dân toàn diện trường kỳ”. Tiểu thuyết Đường lên Điện Biên khép lại thời gian khi đất nước tạm thời bị chia cắt, một nửa (miền Bắc) sống trong hòa bình, một nửa (miền Nam) sống trong chiến tranh. Vì thế, tấm lòng Lãnh tụ chưa thể yên vì “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà/Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha/Bác nghe từng bước trên tiền tuyến/Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa” (Bác ơi! - Tố Hữu).
Việt Nam - Hồ Chí Minh (tập 5), tái hiện vai trò lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử 1954-1969 khi cả nước tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 21 năm trời (1954-1975). Tâm nguyện cuối cùng của Người là khi miền Nam được giải phóng, sẽ đi thăm chiến sỹ, đồng bào miền Nam Thành đồng Tổ quốc, miền Nam đi trước về sau. Sẽ vang lên Lời kêu gọi Chống Mỹ cứu nước của Hồ Chủ tịch. Sẽ khắc dấu trong tim hàng triệu người Việt Nam bản Di chúc thiêng liêng của Người. Sẽ vang lên bất hủ những vần thơ thép “Năm qua thắng lợi vẻ vang/Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/Vì Độc lập, vì Tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/Tiến lên! Chiến sỹ đồng bào/Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn” (Xuân 1969).
Ấn tượng về bộ tiểu thuyết “Nước non vạn dặm” của Nguyễn Thế Kỷ trong lòng độc giả là tình cảm (nhiệt hứng) lớn của tác giả trước Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng lập Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới. Với một cây bút thiếu bản lĩnh sống và bản lĩnh nghệ thuật thì đối tượng phản ánh ở tầm kỳ vĩ, trác tuyệt sẽ gây trạng thái choáng ngợp, lúng túng khi tiếp cận và thực hành sáng tác. Tác giả lựa chọn hình thức thể loại tiểu thuyết lịch sử để xây dựng nhân vật điển hình Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Do đó có một khoảng rộng của tự do hư cấu, sáng tạo. Tác giả đã có trong tay một khối lượng tư liệu phong phú về nhân vật nguyên mẫu, có thật trong lịch sử. Nhưng nhân vật văn học lại cần đến trí tưởng tượng mãnh liệt và phong phú của nhà văn thổi sự sống vào, chắp cánh thêm để bay lên. Nếu nói có một “thi pháp tiểu thuyết” thì có thể nói đến “thi pháp chân thành” trong quá trình sáng tác của nhà văn. Tác giả đã tránh được điệu “phi thường hóa” và “huyền thoại hóa” nhân vật Lãnh tụ. Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trước sau luôn luôn hiện lên như một CON NGƯỜI VIẾT HOA. Một con người có tâm hồn, tình thương bao la, vĩ đại, suốt đời tranh đấu vì dân vì nước, vì hòa bình, độc lập tự do của Tổ quốc mình. Hồ Chí Minh là một bậc “Đại nhân - đại trí - đại dũng”, như lời một nhà văn Trung Quốc.
Cùng với những tiểu thuyết thành công viết về Lãnh tụ của Sơn Tùng (Búp sen xanh, Bông sen vàng), Hồ Phương (Cha và con), Hoàng Quảng Uyên (Mặt trời Pác Bó, Giải phóng, Trông với cố quốc), Thiên Sơn (Gió bụi đầy trời), bộ tiểu thuyết trường thiên Nước non vạn dặm của Nguyễn Thế Kỷ đã kiến tạo nên một kỳ đài văn học về hình tượng Lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng ngôn ngữ tiểu thuyết. Những áng văn xuất sắc này sẽ hiện diện bền vững trong Bảo tàng Văn học Việt Nam./.
tin tức liên quan
Videos
Chương trình nghệ thuật “Duyên quê”
Sụ thực về Mộng mai từ lục của Đào Tấn
Vissarion Belinsky - Người đồng sáng tạo “Thế kỷ vàng” của văn học Nga
Vài nét về tôn giáo ở Mỹ
Sự biến động của chỉ số phát triển con người Việt Nam(Qua số liệu trong các báo cáo phát triển con người của UNDP)1
Thống kê truy cập
114590977

2152

2320

21111

228680

128795

114590977